UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
NGUYỄN THỊ THANH HOA
KHƠNG GIAN LÀNG Q TRONG THƠ NƠM NGUYỄN KHUYẾN
NHÌN TỪ PHÊ BÌNH SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Phú Thọ, 2018
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
NGUYỄN THỊ THANH HOA
KHƠNG GIAN LÀNG Q TRONG THƠ NƠM
NGUYỄN KHUYẾN NHÌN TỪ PHÊ BÌNH SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Thị Bích Hồng
Phú Thọ, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi kết quả của đề tài Không gian làng quê trong thơ
Nôm Nguyễn Khuyến nhìn từ phê bình sinh thái là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào khác cho
tới thời điểm này.
Phú Thọ, ngày 16 tháng 6 năm 2018
Người viết luận văn
Nguyễn Thị Thanh Hoa
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cơ giáo đã tận tình
hướng dẫn, giảng dạy tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu tại Trường Đại
học Hùng Vương
Đặc biệt, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc tới TS Đặng
Thị Bích Hồng. Cơ đã nhiệt tình, chu đáo giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Tơi mong luận văn sẽ nhận được sự chia sẻ, đóng góp ý kiến của quý thầy cô
và các bạn đồng nghiệp để hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Phú Thọ, ngày 16 tháng 6 năm 2018
Người viết luận văn
Nguyễn Thị Thanh Hoa
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ CẢM QUAN
SINH THÁI TRONG THƠ NÔM NGUYỄN KHUYẾN .................................. 7
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái .................................................................. 7
1.1.1. Bối cảnh xuất hiện phê bình sinh thái...................................................................... 7
1.1.2. Nhận diện một số đặc điểm của phê bình sinh thái ..............................................10
1.2. Phê bình sinh thái với văn học trung đại Việt Nam ................................. 13
1.2.1. Mối liên hệ giữa phê bình sinh thái và triết lý sinh thái phương Đông cổ điển ..13
1.2.2. Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn học trung đại Việt Nam .. 16
1.3. Nguyễn Khuyến: nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam ............... 20
1.3.1. Nguyễn Khuyến: một cuộc đời giữa hai thế kỷ ....................................................20
1.3.2. Hành trình thơ trở về khơng gian sinh thái làng quê ............................................22
Tiểu kết ............................................................................................................ 24
Chƣơng 2. KHÔNG GIAN SINH THÁI LÀNG QUÊ TRONG THƠ NÔM
NGUYỄN KHUYẾN ........................................................................................... 25
2.1. Tự nhiên trong không gian làng quê ........................................................ 25
2.1.1. Thế giới hữu sinh ....................................................................................................25
2.1.2. Thế giới phi sinh .....................................................................................................30
2.2. Con người trong khơng gian làng q ...................................................... 42
2.2.1. Hình ảnh người dân quê .........................................................................................42
iv
2.2.2. Chân dung tinh thần Nguyễn Khuyến ...................................................................50
Tiểu kết ............................................................................................................ 58
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC TẠO DỰNG KHÔNG GIAN SINH THÁI
LÀNG QUÊ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN KHUYẾN ................................ 59
3.1. Phương thức tạo dựng bài thơ cổ điển: sự kế thừa mô hình thi luật ........ 59
3.1.1. Cấu trúc thi phẩm theo đặc trưng thể thơ ..............................................................59
3.1.2. Xác lập cấu tứ thơ ...................................................................................................62
3.2. Phương thức tạo dựng không gian sinh thái như một sự cách tân nghệ
thuật.............................................................................................................. 64
3.2.1. Bút pháp tả thực ......................................................................................................64
3.2.2. Chất liệu đời thường ...............................................................................................68
3.2.3. Ngôn ngữ .................................................................................................................71
3.2.4. Giọng điệu ...............................................................................................................79
Tiểu kết ............................................................................................................ 83
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 87
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Gắn bó ngàn năm với nền nông nghiệp lúa nước, không gian làng quê
Việt Nam đi vào sáng tác văn chương với gốc đa, giếng nước, mái đình, cánh cị
bay trên đồng ruộng, con trâu già nằm gặm cỏ, người nông dân vác cuốc ra đồng…
Tất cả gợi nhớ, gợi thương, trở thành một phần máu thịt của mỗi người dân đất
Việt. Tuy nhiên, sự hiện diện của không gian làng quê trong văn chương cũng mang
tính lịch sử. Sự phản ánh không gian làng quê ở mỗi thời kỳ, mỗi tác giả lại có nét
riêng, độc đáo với những chuẩn mực riêng về tư tưởng, thẩm mỹ hay văn hóa.
1.2. Nguyễn Khuyến là một trong số những nhà thơ xuất sắc, tiêu biểu của
văn học Việt Nam nói chung, văn học trung đại nói riêng với sự nghiệp sáng tác
phong phú, đa dạng. Sáng tác của Nguyễn Khuyến in dấu đậm nét cuộc đời ông với
những biến động thăng trầm từ khi làm quan cho triều Nguyễn tới khi cáo quan về ở
ẩn tại quê nhà. Đặc biệt, quãng thời gian gắn bó với “vườn Bùi chốn cũ” đã đem
đến cho thơ Nguyễn Khuyến một hơi thở mới với nhiều tác phẩm viết về không
gian làng quê Bắc Bộ. Nguyễn Khuyến thực sự gắn bó thân thuộc với quê hương
làng cảnh vùng Hà Nam cũ, đất Bình Lục cũ của ơng. Thiên nhiên, cuộc sống và
tâm tình người dân quê đã đi vào thơ ông chân thực và sinh động vô cùng.
1.3. Giữa thập niên 90 của thế kỉ XX, trước tình trạng mơi trường trái đất
ngày một xấu đi, phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra
căn nguyên dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với
mơi trường tự nhiên. Phê bình sinh thái đã chỉ ra con người và trái đất có quan hệ
hịa hợp sinh mệnh cùng tồn vong, nhân loại không thể là chúa tể của mn lồi mà
là một thành viên trong mn lồi trên trái đất, cùng sinh tử với các thành viên khác
trong thế giới tự nhiên. Phê bình sinh thái nghiên cứu tư tưởng, văn hóa khoa học,
phương thức sản xuất, mơ hình phát triển xã hội của con người đã ảnh hưởng đến
môi trường tự nhiên như thế nào. Có thể nói, sự xuất hiện của phê bình sinh thái có
ý nghĩa rất lớn trong việc cảnh tỉnh thái độ ứng xử của con người với tự nhiên.
Khơng chỉ có vậy, phê bình sinh thái cịn mở ra hướng tiếp cận mới trong
2
nghiên cứu văn học. Trong nghiên cứu văn chương, phê bình sinh thái tiếp cận các
tác phẩm văn chương bằng các tri thức liên ngành như xã hội học, văn hóa học,
khoa học kỹ thuật, từ đó tác động đến nhận thức của con người về sự tương tác của
chính mình và tự nhiên, đến hành vi đạo đức của con người với phần còn lại của thế
giới tự nhiên.
1.4. Từ trước đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Khuyến
nói chung, thơ Nơm Nguyễn Khuyến nói riêng với nhiều hướng tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên, cách tiếp cận thơ Nguyễn Khuyến từ góc độ phê bình sinh thái vẫn chưa
có những nghiên cứu phổ biến, cụ thể.
Từ những lí do trên, chúng tơi quyết chọn đề tài nghiên cứu Không gian
làng quê trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến nhìn từ phê bình sinh thái.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Khuyến là một cây đại thụ của văn học Việt Nam. Trải qua thời
gian, bóng mát của cây đại thụ ấy tỏa rợp văn đàn, gốc rễ của nó ăn sâu vào lịng đất
Việt, góp phần tạo nên tâm hồn Việt. Vì thế, đã từ lâu, cuộc đời và sự nghiệp văn
chương Nguyễn Khuyến đã trở thành mảnh đất trù phú, hấp dẫn biết bao cây bút
nghiên cứu, phê bình văn học.
2.1. Những nghiên cứu về thơ Nơm Nguyễn Khuyến
Cho tới nay, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về cuộc đời,
sự nghiệp của Nguyễn Khuyến. Trong đó có thể kể tới các cơng trình tiêu biểu như:
- Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu (1941) đã xếp Nguyễn
Khuyến vào khuynh hướng trào phúng: “Ơng thích tự vịnh, tự trào, có vẻ ung dung
phóng khống. Ơng cũng hay giễu cợt người đời, chỉ trích thói đời một cách nhẹ
nhàng kín đáo, rõ ra một bậc đại nhân quân tử muốn dùng lời văn trào phúng để
khuyên răn người đời” [16;139].
- Lê Trí Viễn trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957) đã khảo sát
thơ Nơm của Nguyễn Khuyến và nhìn nhận, đánh giá Nguyễn Khuyến là nhà thơ
trào phúng.
- Trên quan điểm nghiên cứu xã hội học, Văn Tân trong Nguyễn Khuyến –
3
nhà thơ Việt Nam kiệt xuất (1959) đã khái quát tư tưởng, bút pháp, gương mặt thơ
Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên cơng trình ra đời khi cơng tác văn bản học về Nguyễn
Khuyến cịn gặp khó khăn nên vẫn có những hạn chế nhất định.
- Xuân Diệu trong Thơ văn Nguyễn Khuyến (1971) đã khẳng định Nguyễn
Khuyến là nhà thơ của quê hương, dân tình Việt Nam. Trong Các nhà thơ cổ điển
Việt Nam (1981, 1982), Xuân Diệu tiếp tục đánh giá Nguyễn Khuyến là nhà thơ có
sở trường nhất là những “nhuần nhị của nét cảnh nông thôn”, Nguyễn Khuyến là
“nhà thơ của làng mạc và dân quê” [9;12]. Đây là phát hiện mới mẻ của Xuân Diệu
so với các nhà nghiên cứu trước đó khi đánh giá Nguyễn Khuyến là nhà thơ trào
phúng hay nhà thơ trữ tình yêu nước.
- Nguyễn Văn Huyền trong cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm (1984) đã sưu
tầm, biên dịch, nghiên cứu Nguyễn Khuyến đầy đủ nhất so với các cơng trình trước
đó. Đây là cuốn sách quan trọng góp phần mở ra những chặng đường nghiên cứu
tiếp theo cụ thể, sâu sắc hơn về một tác gia lớn của thơ ca dân tộc. Trong cuốn sách,
Nguyễn Văn Huyền có lời đề tựa giới thiệu về Nguyễn Khuyến, tuy nhiên do tính
chất của một lời đề tựa nên vẫn còn sơ lược, khái quát.
- Vũ Tiến Quỳnh đã tuyển chọn và cho ra đời cuốn Phê bình, bình luận văn
học Nguyễn Khuyến (1992), trong đó tổng hợp những bài phê bình, bình luận xuất
sắc về thơ ca của Nguyễn Khuyến.
- Nguyễn Huệ Chi chủ biên tập sách Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ
(1992) đã đem đến cái nhìn bao qt tồn diện về cuộc đời, vị trí, đặc điểm thơ
Nguyễn Khuyến với hai bình diện cụ thể, rõ ràng: Thứ nhất, giới thiệu về làng quê
Yên Đổ, hệ phả dòng họ Yên Đổ và khí hậu văn hóa xã hội của đời sống Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XIX. Thứ hai, nghiên cứu về cái nhìn nghệ thuật con người của
Nguyễn Khuyến, những biến động trong nguyên tắc sáng tác và quan điểm thẩm
mỹ, sự đa dạng trong bút pháp thể hiện.
- Vũ Thanh tuyển chọn, tập hợp Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm
(1998) nhìn nhận, đánh giá Nguyễn Khuyến từ cuộc đời đến những biến đổi trong
tư tưởng, quan niệm thẩm mỹ, phong cách thơ ca độc đáo. Đây là công trình “tập
hợp những bài viết và cơng trình tiêu biểu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn
4
Khuyến từ xưa đến nay” [60;20].
Như vậy, có thể thấy, từ trước tới nay, đã có nhiều cơng trình quy mô, đồ sộ
nghiên cứu một cách hệ thống về cuộc đời và sự nghiệp văn chương Nguyễn
Khuyến. Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu từ trước tới nay đều đi đến cách
nhìn nhận, đánh giá chung về Nguyễn Khuyến như sau:
Thứ nhất, Nguyễn Khuyến là một tác giả mang ý nghĩa dấu nối của thơ ca
dân tộc, thể hiện sự chuyển mình của tư duy thơ dân tộc.
Thứ hai, thơ ca Nguyễn Khuyến mang màu sắc dân tộc độc đáo, Nguyễn
Khuyến thực sự là tác gia lớn trong nền văn học trung đại Việt Nam nói riêng, văn
học Việt Nam nói chung.
2.2. Những nghiên cứu về khơng gian làng q trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến
Không gian làng quê chiếm vị trí khá lớn trong sáng tác của Nguyễn
Khuyến. Tuy nhiên, đa phần các nhà nghiên cứu, phê bình thường nhìn nhận không
gian trong sự đánh đồng với thiên nhiên.
- Trong cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (1998), Xuân Diệu khi “Đọc thơ
Nguyễn Khuyến” đã nhận định: “Nguyễn Khuyến là nhà thơ của dân tình làng cảnh
Việt Nam” [9;15].
- Lê Trí Viễn trong Thơ văn Nguyễn Khuyến – Trần Tế Xương viết: “Gắn bó
tha thiết với ngơi nhà tranh, với mảnh vườn con đó là tấm lịng của Nguyễn Khuyến
gần với nơng dân khơng phải bằng lí luận mà bằng tình cảm, bằng máu thịt của
mình” [70;123].
- Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ (1994) khẳng định không gian trong thơ
Nguyễn Khuyến là “không gian tầm thường, quẩn quanh, trong làng ngoài ngõ”,
Nguyễn Khuyến là “nhà thơ làng cảnh Việt Nam” [5;13].
- Trần Nho Thìn trong Từ những biến động trong nguyên tắc phản ánh thực
tại của văn chương nhà nho đến bức tranh sinh hoạt nông thôn trong thơ Nguyễn
Khuyến (1992), nhận định: “Nguyễn Khuyến có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử
văn học Nôm dân tộc phản ánh một cách khá cụ thể, sinh động bức tranh sinh hoạt
hàng ngày của làng quê vào trong thơ ông” [64;167].
- Đặng Thị Hảo trong Đề tài thiên nhiên và quan điểm thẩm mỹ đánh giá:
5
“Dường như không phút nào nhà thơ ngừng theo dõi và tái hiệu những bức tranh
thiên nhiên sống động quanh mình”.
Qua các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã khai thác khá kĩ về đề tài
thiên nhiên, trong đó có xen kẽ khám phá, nhìn nhận về khơng gian sinh thái làng
quê trong thơ Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều không tiếp cận
thơ Nguyễn Khuyến như một môi trường sinh thái với các biểu hiện cụ thể, với các
đặc trưng cụ thể mà chủ yếu nhìn nhận ở các biểu hiện bên ngồi.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xác định các biểu hiện của không gian
làng quê trong thơ Nơm Nguyễn Khuyến từ góc nhìn phê bình sinh thái tự nhiên và
phê bình sinh thái tinh thần, nhận diện những độc đáo trong phương thức biểu hiện
không gian sinh thái làng quê từ đó thấy được đóng góp của Nguyễn Khuyến đối
với thơ ca trung đại Việt Nam.
Để đạt được mục đích này, đề tài giải quyết ba nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm và vấn đề văn học sử có liên quan đến đề tài.
Thứ hai, khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm viết về khơng gian sinh thái
làng q trong thơ Nơm của Nguyễn Khuyến trên các bình diện cụ thể như thế giới
sinh lồi, thế giới vơ sinh, sự tồn tại và xuất hiện con người…, từ đó phân tích đánh
giá thế giới tự nhiên và con người nhìn từ phê bình sinh thái.
Thứ ba, phân tích phương thức tạo dựng không gian sinh thái làng quê trong
thơ Nôm Nguyễn Khuyến, tập trung vào sự kế thừa mơ hình thi luật bài thơ cổ điển
và sự cách tân nghệ thuật thông qua bút pháp, chất liệu và giọng điệu thơ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu không gian sinh thái làng quê trong thơ Nôm
Nguyễn Khuyến từ điểm nhìn phê bình sinh thái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để tiến hành khảo sát, luận văn sử dụng cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm của
tác giả Nguyễn Văn Huyền Sưu tầm – Biên dịch – Giới thiệu, Nhà xuất bản khoa
6
học xã hội, Hà Nội, năm 1984.
Cách trích dẫn thơ Nguyễn Khuyến sử dụng trong luận văn được trích từ tài
liệu số [26].
Trong quá trình khảo sát, luận văn sẽ so sánh với các sáng tác có cùng chủ đề
của các tác giả trước và sau ông như thơ văn Lý Trần, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Trần Tế Xương, Tản Đà…
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại: Phương pháp này giúp phân loại và lựa
chọn chính xác đối tượng nghiên cứu. Trong quá trình triển khai và giải quyết vấn
đề, phương pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh của vấn đề.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá
trình tìm hiểu, khám phá và đánh giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu. Đây là
phương pháp không thể thiếu để có thể hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) để tạo ra tương quan so sánh
nhằm chỉ ra sự tiếp nối cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành, vận dụng hiệu quả các môn khoa học liên ngành
(lịch sử học, văn hóa học…) nhằm giúp cho vấn đề được nhìn nhận bao qt và
chính xác hơn.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Khái quát về phê bình sinh thái và cảm quan sinh thái trong thơ
Nôm Nguyễn Khuyến.
- Chương 2: Không gian sinh thái làng quê trong thơ Nôm Nguyễn Khuyến.
- Chương 3: Phương thức tạo dựng không gian sinh thái làng quê trong thơ
Nôm Nguyễn Khuyến.
7
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI
VÀ CẢM QUAN SINH THÁI TRONG THƠ NÔM NGUYỄN KHUYẾN
1.1. Khái quát về phê bình sinh thái
1.1.1. Bối cảnh xuất hiện phê bình sinh thái
Bước sang thế kỉ XX, xã hội lồi người có những bước tiến dài trong sự phát
triển với nhiều thành tựu to lớn đáng ghi nhận. Nhưng để phục vụ cho nhu cầu ngày
một tăng cao, con người đã khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có
trong tự nhiên. Hoặc vơ tình hoặc cố ý, chủ nghĩa nhân văn được sử dụng tối đa.
Người ta cho con người là trung tâm của vũ trụ, không ít kẻ nhân danh lợi ích con
người chặt những cánh rừng để trồng cây cơng nghiệp, điều chỉnh dịng nước sơng
theo ý riêng mình... Nhưng nghịch lý xảy ra khi con người càng nỗ lực cải thiện
cuộc sống lại càng huỷ hoại mơi trường sống của chính mình, càng dẫn đến giảm
chất lượng sống, đẩy nhân loại đối mặt với hiểm hoạ môi trường đang lớn dần.
Những cánh rừng đại ngàn chỉ còn trong dĩ vãng, đất đai bị sa mạc hóa, nhiệt độ trái
đất nóng dần lên, nhiều lồi động vật đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng… Lúc đó,
con người mới sửng sốt nhận ra rằng lợi ích do máy móc, kỹ thuật mang lại khơng
đủ bù cho tác hại nó gây ra. Những phát minh của lồi người, những thứ máy móc
kỹ thuật lại chính là thứ tiếp tay hủy diệt sự sống của loài người một cách gián tiếp.
Các nhà tư tưởng phương Tây nhận ra rằng chủ nghĩa nhân văn là chưa đủ. Thay
vào đó, họ bắt đầu hiểu rằng để con người sống hạnh phúc thì mn lồi cũng phải
được sống. Con người dù trí tuệ, quyền năng đến đâu cũng khơng thể chống lại các
quy luật của tự nhiên. Người ta nhận ra rằng cần phải ứng xử khác với thiên nhiên.
Từ đó phê bình sinh thái ra đời như một tất yếu, đáp ứng phần nào nhu cầu cấp thiết
mới của văn học, giúp văn học hòa nhập vào những vấn đề đang xảy ra trong đời
sống đương đại, trong đó có vấn đề môi trường.
“Sinh thái (oisos) theo nghĩa gốc tiếng Latin là nhà ở, nơi cư trú, bất kì một
sinh vật sống nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (ecology)
8
có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sống) và logos (học thuyết,
khoa học)” [46; 9].
Năm 1886, E.Herkel - nhà sinh học người Đức lần đầu tiên đề xuất khái
niệm sinh thái học. Theo E.Herkel, sinh thái học là bộ môn khoa học nghiên cứu tất
cả mọi quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh. Sau đó, năm 1935, sinh
thái học bắt đầu hình thành tại các nước Anh, Mỹ. Tuy nhiên, chủ nghĩa sinh thái
(ecologism) chỉ thực sự ra đời vào những năm 70 của thế kỷ XX, khi con người
đứng trước khủng hoảng sinh thái trên phạm vi toàn thế giới. Năm 1972, Hội nghị
môi trường Liên Hiệp Quốc thông qua Tuyên ngơn mơi trường nhân loại, tồn nhân
loại phải đối mặt với những nguy cơ sinh thái nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Bắt
đầu từ đây, nghiên cứu sinh thái lại tiếp tục có sự phân chia thành các nhánh nhỏ, cụ
thể và sâu sắc. Năm 1973, Arne Jonas nêu khái niệm “sinh thái học chiều sâu”, cùng
với vấn đề hệ thống sinh thái, đề ra sinh thái tinh thần của con người đã đem đến
cho nhân loại một tư tưởng sâu sắc về sinh thái tinh thần bên trong mỗi con người.
Khơng chỉ có vậy, một loạt các nhánh nghiên cứu sinh thái như “triết học sinh thái”,
“thần học sinh thái”, “chính trị học sinh thái”, “luân lí học sinh thái”, “tâm lí học
sinh thái”, “mĩ học sinh thái”, “ngữ học sinh thái”, “nghệ thuật học sinh thái”, “nhân
loại học sinh thái”, “sinh lí học sinh thái”, “kinh tế học sinh thái”, “nữ quyền sinh
thái”, “chủ nghĩa nhân văn sinh thái”, “văn học sinh thái”… đã khiến cái nhìn sinh
thái trở nên phong phú, đa dạng, có khả năng vươn tới tận cùng mọi khía cạnh của
đời sống con người. Sinh thái thực sự trở thành một nhân sinh quan, một thế giới
quan mới để con người nhìn nhận tất cả các vấn đề liên quan đến tự nhiên, xã hội,
sự sống, hồn cảnh, vật chất, văn hóa, văn học…
Theo đó, phê bình văn học theo quan điểm sinh thái phát triển rầm rộ từ
những năm 1990 với nhiều đóng góp đáng kể. Các hội nghị khoa học quốc tế hàng
năm được tổ chức để bàn về môi trường thiên nhiên trong văn học. Năm 1991,
phiên họp đặc biệt nhất của Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại (MLA) với chủ
đề: “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học” đã thực sự tạo tiếng vang và
thúc đẩy hướng nghiên cứu này phát triển mạnh mẽ. Từ đó, nhiều cuốn sách, nhiều
9
chuyên luận cụ thể về phê bình sinh thái đã được xuất bản đánh dấu hướng nghiên
cứu riêng biệt, cụ thể, có hệ thống trong phê bình văn học. Năm 1994, Kroeber xuất
bản chuyên luận Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học
tinh thần. Năm 1995, Lawrence Buel khoa Anh văn đại học Harvard cho xuất bản
chuyên luận Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu
thành của văn hóa Mĩ. Người có cơng phát triển phong trào phê bình sinh thái là
Cheryll Clotfelty, người đã cùng Harold Fromm biên tập một cơng trình tuyển tập
các bài viết có tính định hướng quan trọng: Tuyện tập Phê bình sinh thái: Các mốc
quan trọng trong Sinh thái Văn học. Năm 1999, Tân văn học sử là chuyên san về
phê bình sinh thái, gồm 10 bài chuyên về phê bình sinh thái. Năm 2000, có các
tuyển tập về phê bình sinh thái như: Lĩnh vực rộng lớn của nghiên cứu văn học theo
khuynh hướng tự nhiên do Murphy chủ biên, Tuyển tập mới về phê bình sinh thái do
Tallmadge chủ biên, Bài ca của trái đất của Bethe… Năm 2001, Lawrence Buelll
xuất bản cuốn Viết về thế giới đang lâm nguy: văn học, văn hóa, mơi trường nước
Mĩ và các quốc gia khác; Maizel chủ biên cuốn Thế kỉ phê bình sinh thái. Năm
2002, Julian Wolfreys biên tập Giới thiệu Phê bình đầu thế kỷ XXI, trong đó,
chương 7 có nội dung Phê bình sinh thái. Nhà xuất bản Đại học Virginnia giới thiệu
Bộ sách tìm tịi phê bình sinh thái. Cuối năm 2003, Lofgren xuất bản cuốn Phê bình
sinh thái thực dụng. Năm 2004, Grey Garrand xuất bản chuyên luận Phê bình sinh
thái. Năm 2005, chuyên luận phê bình sinh thái mang tên Tương lai của phê bình
mơi trường: khủng hoảng môi trường và tưởng tượng văn học của Lawrence Buell
ra đời. Gần đây nhất là cuốn Sự mơ hồ sinh thái: Khủng hoảng môi trường và văn
học các nước Đông Á năm 2012 của Karent Thornber. Cùng với đó, nhiều tổ chức
gồm các khoa học gia, các nhà nghiên cứu văn học có trách nhiệm được thành lập
như Hiệp hội nghiên cứu Văn học và Môi trường (Association for Study of
Literature and Environment- ASLE) thành lập năm 1992; tạp chí Nghiên cứu Liên
ngành Văn học và Môi trường (ISLE) xuất bản số đầu tiên năm 1993. Có thể nói,
phê bình sinh thái thực sự trở thành một trào lưu mạnh mẽ trong giới học thuật. Đây
10
đích thị là trào lưu có sức lan tỏa nhất đối với giới phê bình văn học trong những
năm 90 của thế kỷ XX.
1.1.2. Nhận diện một số đặc điểm của phê bình sinh thái
Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về phê bình sinh thái. Trong đó
định nghĩa của Cheryll Glofety được xem là ngắn gọn và dễ hiểu hơn cả. Cheryll
Glotfelty cho rằng: “Phê bình sinh thái nghiên cứu quan hệ giữa văn học và môi
trường vật lí. Giống như phê bình chủ nghĩa nữ quyền từ góc độ ý thức giới tính
khảo sát ngơn ngữ và văn học, phê bình chủ nghĩa Mác đem phương thức sản xuất
và giai cấp kinh tế vào đọc văn bản, phê bình sinh thái vận dụng phương pháp lấy
địa cầu làm trung tâm nghiên cứu văn học”.“Phê bình sinh thái là nghiên cứu mối
quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên” [46;10].
Cho tới nay, lí luận tìm hiểu nghiên cứu về phê bình sinh thái khá phong phú,
đa dạng. Trong đó, chúng tơi tán đồng quan điểm của Vương Nhạc Xun. Trên cơ
sở tìm hiểu các lí thuyết về phê bình sinh thái, Vương Nhạc Xuyên trong Đương đại
tây phương tối tân văn luận giáo trình (dẫn theo Đỗ Văn Hiểu [24] có đưa ra các
đặc trưng, đặc điểm cơ bản của phê bình sinh thái gồm sáu nội dung cơ bản.
Thứ nhất: phê bình sinh thái lấy vấn đề sinh thái tự nhiên và sinh thái tinh
thần trong nghiên cứu văn học làm chủ, muốn trong tác phẩm thể hiện mối quan hệ
phức tạp của con người và thế giới tự nhiên, quan hệ tương tác giữa văn học và mơi
trường tự nhiên.
Phê bình sinh thái đi vào khai thác, khám phá, tìm hiểu, lí giải mối quan hệ
giữa con người và thế giới tự nhiên, tác động của con người đối với thế giới tự
nhiên hay vai trị của mơi trường đối với con người và xã hội lồi người. Khơng chỉ
thế, phê bình sinh thái còn giải quyết các vấn đề sinh thái xã hội, xác lập lí tưởng
sống cao đẹp, khắc phục các ơ nhiễm tinh thần, làm cho tinh thần trong sạch, cân
bằng, góp phần làm ổn định xã hội. Phê bình sinh thái nhìn nhận đời sống tinh thần
xã hội như là bối cảnh của sáng tạo văn học, coi đó là mảnh đất, vườn ươm các sáng
tạo nghệ thuật.
11
Thứ hai: phê bình văn học cũng có thể từ góc độ văn hóa sinh thái đọc lại
kinh điển văn học truyền thống, từ đó tìm ra ý nghĩa văn hóa sinh thái và ý nghĩa
mỹ học sinh thái từng bị che lấp, và xây dựng lại mối quan hệ thẩm mĩ thi ý giữa
con người và tự ngã, con người và người khác, con người và xã hội, con người và tự
nhiên, con người và trái đất.
Trong dòng chảy lịch sử văn học nhân loại từ xưa tới nay, hầu như mọi sáng
tác đều có sự liên quan tới thế giới tự nhiên. Nhưng không phải sáng tác nào cũng
trở thành văn học sinh thái mà chỉ những tác phẩm góp phần phơi bày nguy cơ sinh
thái thế giới, phê phán quan điểm giá trị chủ nghĩa nhân loại trung tâm, phản tỉnh
đối với nền văn minh hiện đại dẫn đến nguy cơ sinh thái mới là văn học sinh thái.
Nhiều tác phẩm kinh điển trong kho tàng văn học đã được nghiên cứu, khám phá ở
nhiều bình diện khác nhau. Tuy nhiên, trong ánh sáng mới của phê bình sinh thái,
người đọc thời hiện đại vẫn có thể tiếp tục tìm thấy những giá trị thẩm mỹ mới,
những bài học sinh thái có giá trị quan trọng với nhân loại hơm nay.
Thứ ba: phê bình sinh thái chú trọng quan hệ hài hòa giữa con người và tự
nhiên, chủ trương nhân loại chuyển biến từ “ý thức tự ngã” sang “ý thức sinh thái”.
Khi mới xuất hiện, phê bình sinh thái phương Tây chủ trương theo đuổi “chủ
nghĩa sinh thái trung tâm” và cực đoan phê phán “chủ nghĩa nhân loại trung tâm”,
coi đây là nguồn gốc sâu xa của hiện tượng môi trường ngày càng xấu đi. Nhưng
dần dần, người ta đã nhận ra rằng, chúng ta bảo vệ mơi trường tự nhiên là để duy trì
mơi trường tự nhiên lâu hơn, tốt hơn, phục vụ cho nhu cầu lợi ích của nhân loại, để
nhân loại có một không gian sinh tồn và phát triển tốt hơn. Bảo vệ tự nhiên chính là
để bảo vệ sinh mệnh con người. Chỉ có sự cộng sinh giữa con người và tự nhiên
mới có thể giúp trái đất tránh khỏi nguy cơ diệt vong. Con người và trái đất có quan
hệ hòa hợp sinh mệnh cùng tồn vong, nhân loại khơng thể là chúa tể của mn lồi
nữa, mà là một thành viên trong mn lồi trên trái đất, cùng sinh tử với các thành
viên khác trong thế giới tự nhiên.
Thứ tư: phê bình sinh thái có đặc tính liên ngành văn học.
12
Phê bình sinh thái nghiên cứu văn học trên cơ sở nhận thức các vấn đề về tự
nhiên, môi trường. Chính vì vậy nhà phê bình phải có sự hiểu biết về các vấn đề tự
nhiên, những biến đổi trong môi trường sinh thái, các vấn đề dân tộc học, sử học,
triết học, chính trị, đạo đức… từ đó có sự liên kết, thâm nhập vào các tầng diện văn
học. Phê bình sinh thái đồng thời chú ý đến những thể loại và hình thức truyền
thơng đa dạng khác ngồi văn bản viết như phim hoạt hình, mỹ thuật sinh học, kiến
trúc xanh, các nguồn dữ liệu kỹ thuật số…
Thứ năm: phê bình sinh thái khi tiến hành quan chiếu đối với hiện tượng văn
hóa sinh thái đã kế thừa hình thái ý thức cách mạng xanh, nhấn mạnh khơng thể xa
rời tinh thần văn học và diễn ngôn văn học, cần phải cố hết sức có thể tại tầng diện
hình thức văn bản văn học và thủ pháp nghệ thuật triển khai tự sự diễn ngôn, thông
qua thủ pháp cái đẹp hình thức của sáng tác mang “tính văn học” để thể hiện ra tinh
thần văn hóa sinh thái.
Phê bình sinh thái khơng có khn khổ nhất định về đối tượng, phương pháp
cũng như các vấn đề chính mà có xu hướng mở rộng và phức tạp. Phê bình sinh thái
dung hợp nhiều lí thuyết phê bình, trong đó có phương pháp tiếp cận thi pháp học
để nhận diện điểm nhìn, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu...
Thứ sáu: Nội dung của phê bình sinh thái yêu cầu trong tầm nhìn song trùng
của bản chất sinh mệnh và địa cầu, khảo sát trạng thái tồn tại quá khứ và tương lai
của con người. Góc nhìn này liên kết nghiên cứu văn học đã rơi vào chủ nghĩa hình
thức và vấn đề sinh tồn với đầy những nguy cơ của trái đất. Văn học từ đó có thể từ
bỏ trị chơi văn tự của chủ nghĩa hình thức, xốc lại tinh thần từ trong đủ các loại
diễn ngơn phê bình hóa giải ngơn ngữ.
Như vậy, phê bình sinh thái coi quan hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên
là lĩnh vực nghiên cứu của mình. Phê bình sinh thái vừa phải nghiên cứu “tính văn
học”, vừa phải tiếp cận vấn đề “tính sinh thái”. Sự kết hợp giữa “tính văn học” và
“tính sinh thái” làm cho phê bình sinh thái khác với phê bình văn học hoặc lí luận
văn học khác.
13
1.2. Phê bình sinh thái với văn học trung đại Việt Nam
1.2.1. Mối liên hệ giữa phê bình sinh thái và triết lý sinh thái phương
Đông cổ điển
Trong lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại, mơi trường sống của cư
dân phương Đơng vốn là xứ nóng sinh ra mưa nhiều, tạo thành các con sông lớn với
những vùng đồng bằng trù phú, trái ngược với phương Tây vốn là xứ lạnh với khí
hậu khơ, khơng thích hợp cho thực vật tăng trưởng. Hai loại địa hình này khiến cho
cư dân hai khu vực phải sống bằng hai nghề khác nhau. Nếu cư dân phương Tây
sớm phát triển chăn ni thì cư dân phương Đơng lại có nhiều thuận lợi cho việc
trồng trọt, từ đó tạo ra hai loại hình văn hóa tương ứng: loại hình văn hóa gốc du
mục và loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp. Thuộc loại hình văn hóa gốc nơng
nghiệp, người phương Đơng phải phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, từ đó hình thành ý
thức tơn trọng tự nhiên, ước muốn sống hịa bình với thiên nhiên. Tư tưởng văn hóa
phương Đơng đề cập nhiều tới mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó,
trong đó nổi bật nhất phải kể đến tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo.
Phật giáo ra đời từ thế kỉ thứ VI trước công nguyên với tư tưởng nhân sinh
sâu sắc, đưa ra nhiều quan niệm về cuộc sống của con người, trong đó có mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên. Tư tưởng bao trùm của đạo Phật là từ bi, bác ái, bởi
sâu xa, đạo Phật cho rằng mọi sinh vật đều có sinh mệnh ngang nhau. Sinh mệnh
con người cũng giống như sinh mệnh muôn thú, cũng giống như sinh mệnh mn
lồi cỏ cây, hoa lá… Bởi thế, con người khơng nên sát sinh, hãy từ bỏ lịng ham
muốn vật chất, hãy trân trọng mọi sự sống trong cuộc đời dù là nhỏ nhất. Đạo Phật
cũng giải thích về sự tồn tại của con người. Đó là sự hình thành từ các yếu tố tự
nhiên, là sự kết hợp của các yếu tố vật chất gồm lửa, đất, nước, khí. Chính bởi vậy,
con người cũng chỉ là một sinh vật trong giới tự nhiên, giữa con người và tự nhiên
có sự tương hỗ lẫn nhau. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là quan hệ bình
đẳng. Từ đó, Phật giáo khuyên con người hãy đối xử với vạn vật, cây cỏ, giới vô
sinh như con người với con người, hãy biết yêu môi trường xung quanh, không sát
sinh. Đồng thời, Phật giáo cũng chỉ ra con đường để con người bảo vệ môi trường
14
và đảm bảo cuộc sống của mình, đó là lối sống cộng sinh. Con người hãy giống như
những con ong, chỉ lấy phấn hoa làm mật mà không mất đi vẻ đẹp, hương thơm của
bông hoa.
Cùng với Phật giáo, Nho giáo cũng hình thành một ý thức sinh thái giàu tính
nhân văn. Nguyễn Tài Đơng trong bài viết Nền tảng Nho giáo của xã hội hài hòa
(2009) cho rằng Nho giáo đã kế thừa tư tưởng “thiên địa nhân hợp nhất” trong Kinh
Dịch để nói về mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên. Các nhà nho
cho rằng, con người là tiểu vũ trụ, ở đó con người là một bộ phận hữu cơ của vũ trụ,
sánh ngang với trời đất, đối xứng với trời đất, đồng nhất với vũ trụ, có cùng bản thể
- bản thể vật lý - tâm linh, tương đồng, liên thơng, hồ điệu với vũ trụ. Ngay Đổng
Trọng Thư cũng cho rằng trời sinh ra người, trời dựa theo cấu tạo của bản thân mà
sáng tạo ra người thì cứ lấy người mà xét trời. Vũ trụ cũng như con người là đồng
cấu, giống nhau về cấu tạo và quy luật vận hành, dù ở dạng vật chất hữu hình hay
vật chất vơ hình, năng lượng hay thơng tin, vật lý hay tâm linh. Con người sinh ra từ
vũ trụ, trong môi trường vũ trụ, chịu ảnh hưởng cũa vũ trụ không chỉ ở mặt hữu
hình, vật lý, mà cịn ở dạng năng lượng, thơng tin, vật chất vơ hình. Con người cũng
chịu ảnh hưởng từ các môi trường thiên nhiên, tạo nên nhịp điệu sinh học, chu kỳ
sống từng ngày, từng năm; đồng thời con người cũng đa dạng về mặt tự nhiên,
nhưng cũng tương đồng về tính chất, mỗi người tương đồng với một sao (hành
tinh), hoặc cầm tinh một con vật (trong 12 con giáp), hoặc tương ứng với các chất
thủy, mộc, thổ, hỏa, kim, như một quá trình tương sinh, tương khắc, tương hỗ,
tương hòa, tương thành, tương phản mà tạo thành các cá tính, số phận khác
nhau...[11].
Cũng theo Nho giáo, con người và tự nhiên không chỉ tương đồng, tương
cảm mà còn tương dữ, tức là vừa đồng nhất vừa cách biệt, có khi đối lập. Điều này
thể hiện ở quan niệm cho rằng trời có thể gây tác hại hoặc tác lợi cho con người và
ngược lại con người có thể làm cho trời nổi giận, hoặc mang lại điều lành cho con
người. Nếu con người làm sai lòng trời như việc con người làm suy thối mơi
trường, suy thối hệ sinh thái thì sẽ bị trời trừng trị, trả thù. Hoặc có quan niệm cho
15
rằng, nhà vua, quan lại mà độc ác với dân thì trời sinh ra lũ lụt, hạn hán, hoặc vua
quan chăn dân, phải đạo với dân thì trời ban phúc cho mưa thuận, gió hịa…
Các nhà nho cũng đã thấy được vai trò quan trọng của thiên nhiên đối với đời
sống con người, được thể hiện qua quan niệm của Mạnh Tử khi ơng nói về cách cai
trị. Ơng đã nói lên mối quan hệ gắn bó hữu cơ giữa con người với tự nhiên, yêu cầu
con người cũng phải nắm được quy luật của tự nhiên trong hoạt động sản xuất, hướng
dẫn nhân dân về đạo lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên đồng thời cũng thể hiện sự
nhân ái của con người đối với cây cối, loài vật. Tư tưởng trên không phân biệt con
người với con vật, cho rằng tự nhiên hịa hợp với mình, con người có đức nhân thì
khơng chỉ đức nhân ấy ở con người với nhau mà còn đối với cây cỏ, con vật.
Đạo giáo cũng đưa ra triết lí về sinh thái tự nhiên, mà tiêu biểu là Lão Tử với
cuốn Đạo đức kinh. Trong đó, Lão Tử quan niệm về đạo như một quy luật của tự
nhiên. Lão Tử cho rằng, quy luật của con người là ở đất, quy luật của đất là ở trời, quy
luật của trời là của đạo, quy luật của đạo là ở tự nhiên. Đạo được hiểu là khởi nguyên
của toàn thể vũ trụ, toàn thể trời đất, vạn vật và con người. Đạo được hiểu là quy luật
vận hành của vũ trụ, tạo nên sự thống nhất của vũ trụ. Trong quan niệm của Lão Tử,
đạo cịn được hiểu như là cái khơng chỉ tạo ra trời đất, vạn vật và con người mà nó cịn
tạo ra sự thống nhất, định hướng cho sự vận hành của vạn vật theo lẽ tự nhiên.
Từ quan niệm về thế giới đến quan niệm xã hội, Lão Tử cho rằng, sự vận
hành của xã hội thuận theo tự nhiên, con người phải cư xử không thái quá, không
bất cập trong quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên. Con người
phải sống theo tự nhiên, trong cuộc sống không nên thiên quá về vấn đề vật chất,
phải tiết chế lòng ham muốn, chú trọng tinh thần, lấy tâm đè nén khí, thà bỏ thân
mà giữ được đạo và đức. Lão Tử không nhắc đến thượng đế, linh hồn mà ơng chỉ
nói một cách rất chung về nguồn gốc của con người và giới tự nhiên. Vạn vật đều
bắt đầu từ đạo mà ra, cuối cùng lại trở về đạo, hòa vào đạo. Để đạt được đến cái đạo
tự nhiên đó, con người cần phải đạt được cảnh giới cao nhất của vô vi. Vô vi có thể
được hiểu là cứ để theo diễn tiến tự nhiên, không can thiệp vào tự nhiên, để con
người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa. Theo Lão Tử, tự nhiên vận
16
hành có quy luật của nó và tự nhiên cũng có tính tự điều tiết. Ơng thấy tự nhiên có
lợi chứ khơng có hại nên cứ để cho tự nhiên vận hành theo đúng quy luật của nó,
khơng nên đảo lộn trật tự của giới tự nhiên. Vô vi được ông ứng dụng trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, về xã hội, nhân sinh, tự nhiên, tu thân, thể hiện quan niệm của
Lão Tử về một cuộc sống gần gũi với thiên nhiên.
Như vậy, triết lí sinh thái phương Đơng cổ điển đã đưa ra những quan niệm
hết sức tích cực, giàu tính nhân văn về mối quan hệ giữa con người với mơi trường
tự nhiên. Triết lí của các triết gia phương Đông tạo nên một lối sống thân thiện với
mơi trường, có tác dụng tích cực đến bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn
sự đa dạng sinh học, đảm bảo sự cân bằng sinh thái. Con người muốn sống lành
mạnh, bền vững, hạnh phúc thì phải sống phù hợp với các quy luật sinh thái tự
nhiên và sinh thái xã hội, quy luật của thế giới nội tâm, phát triển được mọi tiềm
năng, tiềm lực của mình phục vụ cuộc sống của mình và xã hội. Điều này phù hợp
với mục đích mà phê bình sinh thái hướng tới, tạo cơ sở quan trọng để tìm hiểu,
khám phá các không gian môi trường sinh thái trong văn học từ cổ chí kim.
1.2.2. Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong văn học trung đại
Việt Nam
Văn học Việt Nam thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan niệm chính trị, văn hóa,
đạo đức, thẩm mĩ của con người Việt Nam trong nhiều mối quan hệ đa dạng, trong
đó không thể không kể tới mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên.
Buổi sơ khai văn học, dưới hình thức độc đáo của tư duy huyền thoại, các tác
phẩm văn học dân gian đã kể lại quá trình ơng cha ta nhận thức, cải tạo, chinh phục
thế giới tự nhiên hoang dã để xây dựng non sông đất nước tươi đẹp và tích lũy
nhiều hiểu biết phong phú, đa dạng về tự nhiên. Người nguyên thủy chưa lí giải
được tự nhiên kì bí nên ln có tâm lí ngưỡng vọng, tơn thờ tự nhiên. Thần thoại
sáng tạo nên hàng loạt các vị thần tự nhiên như thần Trụ trời, thần Núi, thần Sông,
thần Sao, thần Mặt trời… Ca dao, dân ca xuất hiện những hình ảnh tươi đẹp của
thiên nhiên Việt Nam như núi sông, đồng lúa, cánh cị, vầng trăng, dịng suối, gió
mây, cây đa, bến nước… Cảnh quan các vùng miền khác nhau của đất nước vô
17
cùng phong phú đa dạng nên hình ảnh thiên nhiên trong ca dao, dân ca của mỗi
vùng cũng có những nét đặc sắc riêng biệt.
Đến sáng tác của thơ ca thời trung đại, mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên được thể hiện mang tính thẩm mỹ, tư tưởng sâu sắc. Triết lí sinh thái phương
Đơng cổ điển đã chi phối nhiều đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật.
Trước hết, trong văn học trung đại, các nhà thơ coi thiên nhiên là một đối
tượng đặc biệt được miêu tả. Thiên nhiên gắn bó với con người, là người bạn tri âm
tri kỷ với con người. Thiên nhiên chiếm một vị trí danh dự trong văn học. Nhưng
thiên nhiên trong văn học trung đại ít được khám phá như một khách thể riêng biệt,
độc lập, với những giá trị tự thân. Con người thường gán cho thiên nhiên những
phẩm chất, thuộc tính của chính mình. Người ta tìm đến với thiên nhiên và xem
thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức. Hình tượng
thiên nhiên gắn với lí tưởng đạo đức, thẩm mĩ. Các hình tượng tùng, cúc, trúc, mai
thường tượng trưng cho nhân cách cao thượng; các đề tài ngư, tiều, canh, mục
thường thể hiện lí tưởng thanh cao, ẩn dật, khơng màng danh lợi của nhà nho. Chính
vì vậy, một bông mai trong thơ của Mãn Giác Thiền sư, một cây tùng trong thơ
Nguyễn Trãi cũng gợi lên bao ý nghĩa sâu xa về nhân sinh, lẽ sống ở đời. Các nhà
thơ, nhà văn có thể nói chuyện sinh hoạt đời thường, nhưng tuyệt nhiên đó khơng
chỉ là lối sống, cách sống thông thường mà là cả phẩm chất, khí tiết thanh bạch,
trắng trong đáng kính, như trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
(Nhàn)
Nhà thơ nhắc tới bốn mùa trong năm với những sản phẩm riêng của từng
mùa. Nhưng điều đáng nói, măng trúc gợi tiết tháo ngay thẳng, giá đỗ gợi sự trắng
trong, hồ sen, ao gợi không gian thanh mát, trong sạch. Như thế cách miêu tả đã
không chỉ cho thấy nếp sinh hoạt thuận theo tự nhiên, mùa nào thức ấy mà quan
trọng hơn gợi lên cả một nhân cách sống cao đẹp. Điều này khác với văn chương
18
hiện đại – nhìn thiên nhiên như một khách thể để khám phá, tôn trọng sự sống riêng
của tạo vật thiên nhiên.
Chính vì quan niệm này nên trong văn học trung đại, các tác giả thường
khơng tả hình xác của tạo vật mà chủ yếu gợi tả linh hồn của thiên nhiên. Thiên
nhiên trở thành ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những cảm
giác, cái không thấy của con người. Thiên nhiên là nơi gửi gắm những tư tưởng,
tình cảm hay triết lý của con người nên bút pháp miêu tả thiên nhiên chủ yếu là tả
cảnh ngụ tình. Thêm nữa, các nhà thơ trung đại thường dùng bút pháp gợi, chấm
phá là chính để tả thiên nhiên chứ khơng đi sâu vào đường nét, hình sắc tỉ mỉ, cụ
thể. Thiên nhiên gắn với khí phách, phẩm tiết của con người nên thiên nhiên được
chọn mô tả cũng là những hình ảnh tao nhã, sang trọng như phong, hoa, tuyết,
nguyệt, mai, lan, trúc, cúc…
Trong quan hệ với tự nhiên, con người tự nhận thức mình là một mảnh vỡ
của vũ trụ bao la. Bởi vậy, thiên nhiên trở thành “khuôn vàng thước ngọc” cho con
người soi chiếu. Vẻ đẹp của con người bao giờ cũng được đặt trong sự đối sánh với
thiên nhiên. Người con gái đẹp phải là “làn thu thủy, nét xuân sơn”, lông mày “lá
liễu”, “tóc mây”, “gót sen”… Người anh hùng phải “râu hùm”, “hàm én” “mày
ngài”… Thiên nhiên trở thành tiêu chí vĩnh cửu, vĩnh hằng cho con người soi mình.
Con người mang dấu ấn của thiên nhiên qua đất trời, mây nước, cỏ cây, muông
thú… với cái đạo vững bền, sâu thẳm của nó. Đây là nét khu biệt khơng thể lẫn so
với các kiểu con người trong các thời kì sau của văn học.
Thiên nhiên còn là nơi cứu rỗi tâm hồn con người. Cách hành xử của nhà
nho muôn đời là “dụng chi tắc hành, xả chi tắc hàng” (dùng thì ta hành đạo, khơng
dùng thì ta quy ẩn). Khi con người xã hội bất như ý họ thường đi ở ẩn, xa lánh xã
hội rối ren, loạn lạc để trở về với thiên nhiên, vơi quên nỗi buồn thế sự. Thiên nhiên
thực sự trở thành cái nơi đón đỡ con người, là nơi lánh đục tìm trong, di dưỡng tinh
thần, tìm thấy bản ngã chân thật, trong sạch của mình. Thiên nhiên ln là nguồn an
ủi. Mỗi khi tổn thương, vấp ngã, người ta lại tìm về tự nhiên như tìm về một bến bờ
tĩnh lặng để ngi quên. Thiên nhiên là người bạn lớn vĩnh hằng của con người mà
19
ở đó, những muộn phiền, day dứt, đau đớn vơi đi. Vì thế, nhà nho nhàn dật có
khuynh hướng vui với cây cỏ, chối từ con người lí trí, rũ bỏ áo khốc xã hội để hịa
mình vào thiên nhiên, xa lánh cảnh trầm luân, nhiễu nhương của thế sự. Bởi vậy, từ
Khuất Nguyên, Đào Tiềm cho đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm… do mệt mỏi
với quan trường ganh ghét, lòng người hiểm độc đã “quy khứ lai” - trở về với mây
trắng núi ngàn để xoa dịu, thanh thản. Những vần thơ của Nguyễn Trãi ca ngợi cuộc
sống thanh tĩnh nơi Côn Sơn, lấy tiếng suối thay tiếng đàn, lấy rêu phong nơi mỏm
đá thay chăn ấm đệm êm chốn nhung lụa hay những vần thơ “tìm nơi vắng vẻ” của
Nguyễn Bỉnh Khiêm đều thể hiện một tư tưởng sống khiêm nhường, ẩn dật và hòa
hợp vào “dòng sống thâm áo của thiên nhiên”. Đối với kẻ sĩ phương Đơng, có lẽ
tiền tài, danh vọng, chức tước khơng phải là mục đích của sự sống mà việc con
người trở về với cõi thiên nhiên, với bản thể của vũ trụ mới là mục đích chân chính
nhất. Phị vua giúp đời chỉ là nghĩa vụ trong chốc lát còn tâm thế họ vẫn hướng về
tự nhiên sâu thẳm trời xanh mây trắng vĩnh cửu muôn đời.
Qua những trang viết về thiên nhiên, ta có thể thấy một tình u thiên nhiên
sâu đậm, một tấm lòng tha thiết với cảnh vật. Đó là sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm
những xao động tế vi nhất của thiên nhiên, đất trời (“Dương liễu hoa thâm điểu ngữ
trì” – Sâu trong khóm hoa liễu, chim hót chậm rãi – Trần Nhân Tơng). Đó là niềm
vui sướng, tự hào gắn với nỗi nhớ thương da diết của người con xa xứ (“Dâu già lá
rụng tằm vừa chín/ Lúa sớm bơng thơm cua béo ghê” - Nguyễn Trung Ngạn). Đó là
những xúc cảm nên thơ, gắn bó với cảnh “Mục đồng, sáo vẳng, trâu về hết/ Cị
trắng từng đơi, liệng xuống đồng” (Trần Nhân Tơng). Đó là lời tự thú chân thành để
thỏa tấm lịng yêu mến, gắn bó: “Non nước cùng ta đã có duyên” (Nguyễn Trãi).
Bởi lẽ, thiên nhiên đã trở thành gia đình thương mến: “Cị nằm hạc lẩn nên bầu
bạn/ Ấp ủ cùng ta làm cái con”, thành niềm khao khát trở về: “Tùng cúc do tồn quy
vị mãn/ Lợi danh bất tiển ẩn phương chân - Tùng cúc hãy còn ta về chửa muộn/ Lợi
danh không thèm, ẩn mới đúng hơn”.
Có thể khẳng định, trong dịng chảy văn học trung đại Việt Nam nói riêng,
văn học Việt Nam nói chung, thiên nhiên ln giữ một vị trí danh dự. Tuy nhiên, do