Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hình tượng nhân vật dã sử trong trong truyện ngắn của vũ hạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 99 trang )

UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

TRẦN LỆ DUNG

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT DÃ SỬ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA VŨ HẠNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số: 8220120

Phú Thọ, 2018


UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

TRẦN LỆ DUNG

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT DÃ SỬ
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA VŨ HẠNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chuyên ngành : Lý luận văn học
Mã số: 8220120

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Xuân Huy


Phú Thọ, 2018


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan : Luận văn tốt nghiệp với đề tài Hình tượng nhân vật
dã sử trong truyện ngắn của Vũ Hạnh là cơng trình nghiên cứu của cá nhân
tôi, các số liệu, dẫn chứng đƣa ra là trung thực. Kết quả nghiên cứu này
không trùng với bất cứ cơng trình nào đã cơng bố trƣớc đó.
Tơi xin chịu mọi trách nhiệm với lời cam đoan của mình !

Việt Trì, ngày ……tháng……năm 2018.
Tác giả luận văn

Trần Lệ Dung


ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn Thạc sỹ Ngữ văn “ Hình tƣợng nhân vật dã
sử trong truyện ngắn của Vũ Hạnh” tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của nhiều
thầy cô giáo.
Xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Xuân Huy- thầy đã trực tiếp tận
tình hƣớng dẫn, cũng nhƣ cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết cho
luận văn này.
Xin đƣợc cảm ơn các thầy cô lãnh đạo trƣờng Đại học Hùng Vƣơng,

khoa Khoa học xã hội và nhân văn đã tạo điều kiện cho tôi hồn thành tốt
cơng việc nghiên cứu khoa học của mình.

Tác giả luận văn

Trần Lệ Dung


iii

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .......................................................... 1
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: ....................................................................... 2
1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 11
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 11
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 11
1.6. Đóng góp của đề tài.................................................................................. 13
1.7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 13
CHƢƠNG 1. NHÂN VẬT DÃ SỬ VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA
VŨ HẠNH....................................................................................................... 14
1.1. Nhân vật dã sử .......................................................................................... 14
1.1.1. Quan niệm về nhân vật trong tác phẩm văn học ................................... 14
1.1.2. Nhân vật dã sử ....................................................................................... 14
1.2. Quan niệm nghệ thuật của Vũ Hạnh ........................................................ 19
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời ..................................................... 19
1.2.2. Quan niệm về sáng tác văn học............................................................. 22
1.3. Khái quát về truyện ngắn của Vũ Hạnh .................................................. 24
1.3.1. Tìm hiểu chung về thể loại truyện ngắn................................................ 24
1.3.2. Nhân vật dã sử trong truyện ngắn của Vũ Hạnh ................................... 26

Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 28
CHƢƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT DÃ SỬ TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA VŨ HẠNH ............................................................................................. 30
2.1. Nhân vật bi kịch ....................................................................................... 30
2.1.1. Bi kịch của sự đổ vỡ .............................................................................. 30
2.1.2. Bi kịch của sự không hoàn hảo ............................................................. 33
2.1.3. Bi kịch của sự dang dở .......................................................................... 35


iv

2.2. Nhân vật lầm lạc....................................................................................... 37
2.2.1. Lầm lạc trong nhận thức ....................................................................... 37
2.2.2. Lầm lạc trong hành động....................................................................... 40
2.3. Cảm quan thẩm mỹ của Vũ Hạnh khi xây dựng hình tƣợng nhân vật dã
sử ..................................................................................................................... 44
2.3.1. Cảm quan lãng mạn ............................................................................... 44
2.3.2. Cảm quan hiện thực .............................................................................. 47
2.3.3. Sự kết hợp các sắc thái trong cảm quan thẩm mĩ của Vũ Hạnh ........... 49
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 51
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT
DÃ SỬ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA VŨ HẠNH ................................... 52
3.1.Tổ chức điểm nhìn trần thuật để làm tăng tính dã sử................................ 52
3.1.1. Điểm nhìn từ nhân vật ........................................................................... 52
3.1.2. Điểm nhìn từ ngƣời kể chuyện.............................................................. 54
3.2. Tổ chức chi tiết, sự kiện, tình huống kiểu truyện cổ................................ 57
3.2.1.Tổ chức phối kết chi tiết quá khứ - hiện tại - tƣơng lai ......................... 57
3.2.2.Tổ chức sự kiện ( cốt truyện) ................................................................. 62
3.2.3.Tổ chức tình huống truyện ..................................................................... 65
3.3. Không gian và thời gian huyền thoại hóa nhân vật dã sử ........................ 71

3.3.1. Khơng gian huyền thoại ........................................................................ 72
3.3.2. Thời gian huyền thoại ........................................................................... 75
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 80
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 84
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
1.1.1. Hồn cảnh xã hội và văn hóa của đơ thị miền Nam 1954 - 1975
Văn xuôi đô thị miền Nam thời kì từ 1954 đến 1975 tồn tại trong bối
cảnh hết sức đặc biệt: Chiến tranh kéo dài, công cuộc kháng chiến gian khổ để
thống nhất đất nƣớc và sự va chạm của hai nền văn hóa Đơng – Tây. Lực
lƣợng sáng tác đơng đảo nhƣng phân hóa thành nhiều xu hƣớng khác nhau.
Và nhƣ một tất yếu, từ trong đời sống sôi sục của quần chúng, “Phong
trào bảo vệ văn hóa dân tộc” đƣợc hình thành và ngày càng phát triển. Ngày
9/10/1966, tại hội trƣờng Quốc gia âm nhạc, 112 Nguyễn Du- Sài Gòn, Ban
chấp hành Trung ƣơng Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc đã chính thức ra
mắt cơng chúng. Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc thực sự trở thành một
làn sóng văn hóa đi sâu vào mọi ngả đƣờng của đời sống và tác động đến đội
ngũ nhà văn và các sáng tác văn chƣơng của họ. Trong đó, Vũ Hạnh là cái tên
sáng giá nhất.
1.1.2. Tác giả Vũ Hạnh
Vũ Hạnh (tên thật là Nguyễn Đức Dũng) sinh năm 1926, tại Quảng Nam.
Ngƣời ta biết đến Vũ Hạnh với các bút danh nhƣ Cơ Phƣơng Thảo, Ngun
Phủ, Minh Hữu, Hồng Thành Kì…, làm việc không mệt mỏi trên lĩnh vực
văn học nghệ thuật, mà ngƣời ta cịn biết đến ơng nhƣ một nhà cách mạng

giàu lịng u nƣớc, dũng cảm, khơn khéo hoạt động trong lịng địch.
Trong q trình đấu tranh gian khổ ấy, Vũ Hạnh không chỉ nổi tiếng với
những sáng tác nhƣ: Người chủ tiệm (kịch), Vượt thác (tập truyện ngắn,
1963), Ngôi trường đi xuống (tập truyện, 1966), Lửa rừng ( tiểu thuyết,
1966), Con chó hào hùng ( truyện, 1973), …mà còn nổi tiếng với những tiểu
luận: Đọc lại Truyện Kiều ( 1960), Tìm hiểu văn nghệ ( 1970)…


2

Vũ Hạnh là nhà văn mà sự nghiệp, tên tuổi đã đƣợc xác định trong văn
học Việt Nam hiện đại và đặc biệt là văn học 1954 - 1975 (ở miền Nam). Ông
cùng thời với Sơn Nam, Võ Hồng, Trang Thế Hy và nhiều nhà văn khác.
Văn xuôi Vũ Hạnh gắn liền với vùng đất Nam Trung Bộ cũng nhƣ Sơn
Nam và Bình Ngun Lộc của miền Nam.
Đã có nhiều bài viết nghiên cứu về Vũ Hạnh và tác phẩm Vũ Hạnh,
nhƣng chƣa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ và hệ
thống về thế giới hình tƣợng nhân vật dã sử trong các truyện ngắn của ơng.
1.1.3. Lí do chọn đề tài Hình tượng nhân vật dã sử trong truyện ngắn của
Vũ Hạnh nhằm:
+ Nhận thức vấn đề nhân vật văn học bằng quan điểm lịch sử, vấn đề
nhân vật dã sử trong hệ thống truyện kể của Vũ Hạnh là một cách tiếp cận
sinh động.
+ Nhân vật dã sử đƣợc tiếp cận qua hệ thống truyện kể của nhà văn góp
phần làm phong phú hơn cách tiếp cận đời sống của dòng văn học ở đơ thị Sài
Gịn, là một tiếng nói bản lĩnh trong một mơi trƣờng văn hóa khắc nghiệt.
+ Tìm hiểu đề tài này, ngồi nhiệm vụ lí thuyết căn bản, đề tài cịn góp
phần giúp cho bạn đọc nâng cao năng lực đánh giá tác phẩm văn học, nhất là
đối với tác phẩm văn xuôi – sử thi.
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:

Vũ Hạnh có các tập truyện ngắn nhƣ: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên
đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút
máu (1971), Con chó hào hùng (1974), Cơ gái Xà Niêng (1974). Sau 1975 là
các tập: Ăn Tết với một người điên (1985), Sông nước mênh mông (1995),...
Về cuộc đời Vũ Hạnh và sáng tác của ơng đã có những bài viết nhƣ:


3

Tác giả Phạm Thanh Hùng với bài viết Mảng truyện ngắn “đường rừng”
của Vũ Hạnh, tạp chí Nhà văn số 8, 2006.Tkrong cơng trình này, tác giả đã
đánh giá về chủ đề về đƣờng rừng trong truyện ngắn Vũ Hạnh, cụ thể những
truyện ngắn sau đã đƣợc đƣa vào: Tết giữa rừng, Cây đàn trong núi, Vượt
thác, Vàng tháp hời,Mùa xuân trên đỉnh non cao... Theo Phạm Thanh Hùng
“Truyện ngắn đƣờng rừng của Vũ Hạnh góp phần xứng đáng vào thành tựu
chung của văn học yêu nƣớc, cách mạng vùng đơ thị miền Nam trƣớc năm
1975... Trong hồn cảnh đặc biệt của cuộc đấu tranh, thời kì 1954 - 1965 với
sự xuất hiện của những truyện ngắn đƣờng rừng hay truyện có màu sắc hoan.g
đƣờng hƣ huyễn, có sắc thái cổ tích, lịch sử chỉ là sự lựa chọn khác nhau của
tác giả nhằm đạt hiệu quả đấu tranh cao nhất trong sự dò xét, đàn áp, sát hại
của kẻ thù” [37; 59].
Nguyễn Xuân Huy với bài viết Vũ Hạnh và sự hưng vong của văn nghệ
miền Nam trước 1975, tạp chí Nhà văn số 4, 2006, nghiên cứu khái quát về sự
nghiệp phê bình văn học của Vũ Hạnh trên nhiều phƣơng diện. Tác giả đã đi
sâu vào lĩnh vực phê bình của nhà văn với những đánh giá khách quan: Vũ
Hạnh với những nhận định về truyện, Vũ Hạnh với những nhận định về kịch,
Vũ Hạnh với những nhận định về thơ, Vũ Hạnh với các cơng trình nghiên cún
- tuyển chọn... Nguyễn Xuân Huy viết: “Có thể nói, với lĩnh vực nghiên cứu
phê bình, nhà nghiên cứu đã bỏ vào đấy nhiều tâm lực. Việc Vũ Hạnh sớm
xác định cho mình một lí tƣởng nghệ thuật chân chính đã giúp cho ơng có

đƣợc niềm tin, sự hứng khởi và lòng đam mê nghiên cứu, sáng tạo. Những bài
tổng kết tình hình văn học, những bài phê bình các cơng trình biên khảo, đánh
giá về các sáng tác mới trong suốt thời kì này của ơng, đã giúp cho chúng ta
có một cái nhìn tồn diện hơn, sâu sắc hơn về nền văn nghệ miền Nam. Từ
đó, ta có thêm cơ sở đế nhìn lại nó, nhận lại những gƣơng mặt đã góp phần
tạo nên sự đa dạng, phức tạp của nền văn nghệ nƣớc nhà” [38; 109].


4

Châu Anh với bài viết Vài nét về tác giả tác phẩm Vũ Hạnh, tạp chí Gia
đình, số 15, 1998 có chú ý tổng kết về Vũ Hạnh[2]
Nguyễn Thanh Du trong bài viết Nhà văn Vũ Hạnh trong lịng đơ thị Sài
Gịn (1954 - 1975), tạp chí Văn, 2003, có đƣa ra các nhận định về những
truyện ngắn tiêu biểu của Vũ Hạnh. Nguyễn Thanh Du xác định: “Truyện
ngắn của Vũ Hạnh phản ánh đa dạng, nhiều sắc màu khác nhau của cuộc sống
nhân dân... Trong truyện ngắn, ông đã thể hiện đƣợc tƣ tƣởng yêu nƣớc - cách
mạng và đồng thời ông cũng lấy tƣ tƣởng yêu nƣớc cách mạng làm cảm hứng
sáng tạo nghệ thuật của mình” [9; 17].
Thanh Lê trong bài viết Vũ Hạnh - nhà văn trí tuệ và cách mạng, báo
Thế hệ trẻ, sổ 20 tháng 12, 1999 viết: “Hai mƣơi năm sống trong vùng Mỹ ngụy tạm chiếm, anh luôn dùng cây bút của mình để đấu tranh cơng khai
chống văn hố của địch ở vùng Sài Gòn Gia Định. Vũ Hạnh đã trở thành cây
bút nòng cốt của tờ báo Tin Văn do anh làm Tống thƣ ký. Trong những thành
công của anh, đáng chú ý nhất trên lĩnh vực phê bình có cuốn: Đọc lại Truyện
Kiều đến nay vẫn còn nguyên giá trị”. Tác giả nhận xét: “Vũ Hạnh đã mở ra
trƣớc mắt chúng ta những điều mới lạ của cái đẹp” [ 49; 20].
Trong bài viết Về khuynh hướng phê bình chịu ảnh hưởng quan diêm
Mác- xỉt ở đô thị miền Nam, báo Văn nghệ, số 109 Bộ mới 13-5-2010, Trần
Hoài Anh đã đánh giá sự nghiệp phê bình của Vũ Hạnh: “Có thể nói, những
bài phê bình của Vũ Hạnh đều thống nhất trên quan điểm đấu tranh chống văn

học phi nhân bản, phi dân tộc, đề cao lòng yêu nƣớc, tinh thần tự hào, ý thức
trách nhiệm của ngƣời cầm bút trƣớc cuộc sống và trƣớc vận mệnh dân tộc.
Cảm hứng chủ đạo này đã ám ảnh suốt hành trình sáng tạo của nhà văn,
khơng những ở lĩnh vực lý luận - phê bình mà cả trong lĩnh vực sáng tác”,
“Có thể khẳng định Vũ Hạnh là một trong những gƣơng mặt tiêu biểu không
chỉ cho khuynh hƣớng phê bình chịu ảnh hƣởng quan điểm Mác-xít mà cịn là


5

gƣơng mặt phê bình tiêu biểu của lý luận - phê bình văn học ở đơ thị miền
Nam trƣớc đây cũng nhƣ của nền lý luận - phê bình văn học dân tộc hôm nay”
[3; 13].
Ngô Thị Kim Cúc, trong Nhà văn Vũ Hạnh - Libero trong cuộc bảo vệ
văn hóa dân tộc, báo Thanh niên, số 321 năm 2002 cho biết thêm, Vũ Hạnh:
“Là ngƣời rất quen tên với bạn đọc phía Nam trƣớc 1975 với những Bút máu,
Người Việt cao quý, Lửa rừng, Chất ngọc, Người chồng thời đại..., là một nhà
giáo ảnh hƣởng trên nhiều thế hệ học trị u nƣớc, một trí thức đối lập với
chính quyền Sài Gòn... hầu hết sách viết trƣớc 1975 đều có nội dung phản
kháng” [7; 9]
Trần Hữu Tá trong tác phẩm Nhìn lại một chặng đường văn học đã qua,
riêng trong phần tuyển chọn tác phẩm của các cây bút có xu hƣớng “tiến bộ,
u nƣớc” ở vùng đơ thị miền Nam, đã đƣa ra đến 60 tác giả văn xi trong
đó có Vũ Hạnh[72]
Sự phát triển của “Phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc” đã chứng kiến sự
bứt phá của những nhà văn nhƣ Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Vũ Hạnh, Lữ
Phƣơng…Những tên tuổi này đã có những đóng góp khơng nhỏ vào việc xây
dựng một cơ sở lí luận và tạo nên sự tác động lớn đến thực trạng văn học lúc
bấy giờ. Trong đó, Vũ Hạnh là cái tên tiêu biểu.
Vũ Hạnh là một nhà văn gần gũi, nhiều ngƣời biết, nhiều ngƣời đọc, yêu

thích và say mê tác phẩm của ông (chủ yếu là độc giả miền Nam). Có nhiều
bài viết và cơng trình nghiên cứu về Vũ Hạnh. Căn cứ vào những tƣ liệu thu
thập đƣợc, chúng tơi phân chia q trình nghiên cứu về nhà văn thành hai giai
đoạn nhƣ sau:
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về Vũ Hạnh ở miền Bắc giai đoạn trước 1975
Khi nhận định về tác giả Vũ Hạnh, các nghiên cứu văn học miền Bắc đã
nhìn ơng bằng cái nhìn khách quan nhƣng cũng đầy khích lệ. Đa số họ đều


6

thấy giữa “ rừng văn nghệ” miền Nam vẫn có những “cây to” vƣơn cao lên
đón ánh sáng mặt trời, mặc dù dƣới chân nó là “đêm tối và bùn lầy nhơ
nhớp”. Vũ Hạnh đƣợc xem nhƣ một cây bút hiếm hoi đã dám nói lên tiếng nói
thẳng thắn đánh thẳng vào “xã hội” văn nghệ đô thị miền Nam.
Ngƣời đầu tiên nhận thấy sự khỏe khoắn của ngòi bút Vũ Hạnh là Đặng
Thai Mai. Theo Đặng Thai Mai, Vũ Hạnh là một trong những cây bút phê
bình có chất lƣợng đầu tiên ở miền Nam này [55]
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về Vũ Hạnh ở miền Nam giai đoạn trước 1975
Tƣ tƣởng tiến bộ trong văn học miền Nam đã đƣợc nhiều nhà văn vun
đắp, xây dựng. Từ những ngƣời coi văn nghệ là vũ khí nhƣ Lữ Phƣơng,
Nguyễn Trọng Văn đến những tác giả vừa sáng tác vừa phê bình nhƣ Đồn
Thêm, Nguyễn Ngu Í, từ những ngƣời vừa biểu diễn vừa sáng tác nhƣ Vũ
Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng ... đều nói về ý thức dân tộc với một niềm
tin tha thiết. Trong hồn cảnh đó, Vũ Hạnh xuất hiện nhƣ một điểm sáng tƣ
tƣởng.
Ngƣời ủng hộ tƣ tƣởng của Vũ Hạnh nhiều nhất và ngƣời kế tục ông
chiến đấu chống lại văn học nô dịch, suy đồi chính là Lữ Phƣơng. Lữ Phƣơng
đề cao thái độ khách quan trong văn nghệ và tƣ tƣởng văn nghệ dân tộc của
Vũ Hạnh. Lữ Phƣơng coi Vũ Hạnh là một bậc đàn anh trong văn giới, một

ngƣời “mở đƣờng đáng tin cậy” [ 65].
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về Vũ Hạnh trong cả nước sau 1975:
Đáng kể nhất là luận án PTS của Trần Hữu Tá “Khuynh hướng văn học
yêu nước tiến bộ trong các thành thị miền Nam giai đoạn 19954- 1975” nhà
nghiên cứu đã đề cập đến nhà văn Vũ Hạnh nhƣ một trong các nhà văn tiến bộ
miền Nam trƣớc 1975. Giáo sƣ Nguyễn Huệ Chi đánh giá đây chính là một điểm
thành cơng của luận án.


7

Mấy năm gần đây, Trần Hồi Anh đã cơng bố một số cơng trình nghiên
cứu trong đó tác giả cho rằng Vũ Hạnh là một tác giả tiêu biểu, đại diện cho
khuynh hƣớng văn học ảnh hƣởng tƣ tƣởng Mac xit. [3]
Năm 1998, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh cho ra đời quyển “Địa chí
văn hóa thành phố Hồ Chí Minh” do Trần Văn Giàu và Trần Bạch Đằng chủ
biên. Sách đã dành hẳn một chƣơng để nói về Văn học u nước cơng khai ở
Sài Gịn trong ba mươi năm cách mạng và kháng chiến do các tác giả Tầm
Vu, Nguyên Thanh, Viễn Phƣơng, Hồ Sĩ Hiệp, Trần Hữu Tá đồng biên soạn.
Vũ Hạnh đƣợc nhắc đến nhƣ một nhà văn tiêu biểu cùng với các cây bút yêu
nƣớc, những trí thức, những nghệ sĩ cao niên nhƣ Trần Tuấn Khải, Nguyễn Hiến
Lê, các nhà thơ Hà Kiều, Phƣơng Đài, Phong Sơn, các nhà văn Nguyễn Văn
Xuân, Phan Du, Sơn Nam…[16]
Năm 2000, trong cuốn Nhìn lại một chặng đường văn học của tác giả
Trần Hữu Tá (Nxb Tp.HCM); Vũ Hạnh đƣợc giới thiệu là “nhà văn đáng kính
trọng trong cả về tài năng và nhân cách” [73].
Năm 2013, luận án tiến sỹ của giảng viên Đại học Hùng Vƣơng- Phú Thọ:
Nguyễn Xuân Huy đã trình bày rất đầy đủ, chính xác, khoa học về sự nghiệp
văn chƣơng của Vũ Hạnh. Có thể coi đây là một trong những tài liệu có giá trị
nhất tính đến thời điểm này [43].

Ngồi ra cịn phải kể đến:
Châu Anh với bài viết “Vài nét về tác giả, tác phẩm” (viết về Vũ Hạnh)
nhân kỉ niệm Sài Gòn 300 năm (1998) đã giới thiệu những nét cơ bản về tác giả
Vũ Hạnh và văn chƣơng của ơng [2].
Đó là tác giả Phạm Xuân Thông - Hội văn nghệ Ninh Thuận với bài viết
:“Nhà văn Vũ Hạnh - chia đôi nhuận bút”, đăng trên Nguyệt san “Văn nghệ
Dân tộc và miền núi” ngày 13/ 09/ 1998 . Ở bài viết này tác giả kể lại chuyện Vũ
Hạnh đã viết phóng sự nhiều kì đăng trên tạp chí Cơng An thành phố Hồ Chí


8

Minh với nhan đề “Hoa Lan Nhung” dựa trên sự thật về ngƣời đàn ơng có tên là
Chamare Rá sống cách biệt với cộng đồng 18 năm nhƣ thế nào. Khi đƣợc nhận
hai triệu tiền nhuận bút Vũ Hạnh đã đến biếu ơng Rá một triệu ra sao. Từ đó tác
giả ca ngợi tấm lòng hào hiệp của Vũ Hạnh [77]
Rồi đến bài báo “Đọc Người Việt cao quý càng hiểu thêm tấm lòng nhà văn
Vũ Hạnh” của Đặng Minh Hân - công tác tại Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh
Đồng Nai- đăng trên tờ báo “Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số 67, ngày
21/ 12/ 1992 ). Trong bài viết này tác giả ca ngợi ý nghĩa của tập sách khi nó
đƣợc tái bản, khẳng định giá trị của tác phẩm và tấm lòng của Vũ Hạnh [17].
Thanh Lê với hai bài viết “ Vũ Hạnh - nhà văn trí tuệ và cách mạng”, “ Vũ
Hạnh - cây bút tài năng, tràn đầy sức sống” đăng trên báo “Thế hệ trẻ” số 20,
tháng 12 năm 1999 và báo Cơng an thành phố Hồ Chí Minh. Thanh Lê đã nói về
ấn tƣợng của tác giả khi gặp Vũ Hạnh: đó là con ngƣời mà cuộc đời riêng đã
mang định hƣớng xã hội: yêu nƣớc, trung thành với nhiệm vụ và nhân phẩm của
mình. Cịn trong sáng tác thì Vũ Hạnh có những đóng góp mới cho nền văn học
vì thái độ lao động quên mình [49].
Ngày 10/1/2017 Tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đã giới
thiệu Bộ sách Vũ Hạnh tuyển tập vừa đƣợc Giải Vàng của “Giải thƣởng Sách

hay – 2016”. Vũ Hạnh là nhà văn cách mạng, sống hoạt động và sáng tác tại
miền Nam thời chống Mỹ. Khi văn hóa Mỹ xâm nhập, ông đã đi đầu phong
trào bảo vệ văn hóa dân tộc. Bằng các sáng tác nhƣ Bút máu, tiểu luận Người
Việt cao quý… ông đã đấu tranh chống lại làn sóng văn hóa nơ dịch. Tuyển
tập này chọn lọc những tác phẩm tiêu biểu của ông và những bài báo nói về tác
giả, tác phẩm Vũ Hạnh [Phụ lục]
Tập 1 của tuyển tập gần 600 trang, chia làm 3 phần: Phần 1 Hồi ký (tiêu
biểu là Một chặng đường bút mực); Phần 2 truyện ngắn (độc đáo với Bút máu,
Chất ngọc, Vượt thác…); Phần 3 kịch (tiêu biểu là Người nữ tỳ, Đôi mắt dịu


9

hiền). Tập 2 của tuyển tập hơn 800 trang, gồm các phần: Phần 4 Truyện dài
(với tác phẩm điển hình là Cô gái Xà Niêng); Phần 5 tiểu luận – phê bình (với
Người Việt cao q; Văn hóa và mạo hóa; các bài bình luận tác phẩm, tác giả
văn học nhƣ Truyện Kiều – Nguyễn Du, Tú Xương, Nhất Linh, Khái Hưng…);
Phần cuối là các bài báo viết về tác phẩm và tác giả Vũ Hạnh.
Vũ Hạnh đã trở thành một cái tên quen thuộc của làng văn, làng báo Sài
Gịn trƣớc năm 1975, ơng đƣợc ví nhƣ một biểu tƣợng của tinh thần yêu
nƣớc, bảo vệ văn hóa dân tộc. Từ điển thuật ngữ Văn học (NXB Khoa học xã
hội năm 2000) đánh giá ông là “một cây bút nòng cốt, tâm huyết trong dòng
văn học yêu nƣớc và cách mạng vùng tạm chiếm” [62; 30].
Trong buổi gặp mặt, giao lƣu với độc giả tại thành phố Hồ Chí Minh khi
ra mắt “Tuyển tập Vũ Hạnh”, PGS.TS Nguyễn Hồng Vinh nhận xét: – Vũ
Hạnh là một nhà văn đa tài, vừa viết tiểu thuyết, truyện ngắn, vừa viết nghiên
cứu, lý luận, phê bình… mà thể loại nào ngịi bút Vũ Hạnh cũng đều tỏ ra
sung sức, sắc sảo.
Còn theo soạn giả Lê Hữu Thành thì: – Xuyên suốt 20 năm với các bút
hiệu Vũ Hạnh, Cô Phương Thảo, Thiên Phú, Hồng Thiên Lý…, Vũ Hạnh đã

ln “chiến đấu” bằng các bài báo, truyện ngắn, quyển sách kịp thời ứng phó
với nhiều sự kiện: chống bọn bồi bút thì có Bút máu (đã được dịch sang tiếng
Nga); khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời năm 1960, Vũ Hạnh
chào mừng ngay bằng tác phẩm Lửa rừng (Chuyện nàng Y Kla) dày trên 300
trang; khi quân Mỹ đổ qn vào miền Nam thì có Người Việt cao q khơi
dậy lòng tự hào dân tộc…
Nhiều cây viết của thế hệ sau ông tâm sự rằng: – Chúng tôi rất ngƣỡng
mộ nhà văn Vũ Hạnh, từ thuở thiếu niên đã đƣợc đọc tập truyện Bút máu,
chúng tôi đã khát khao đƣợc gặp nhà văn Vũ Hạnh. Bây giờ, chúng tôi cũng
đƣợc xã hội công nhận là “nhà văn”, là đồng nghiệp của ông, khi đƣợc tiếp


10

xúc, trị chuyện cùng ơng, chúng tơi càng cảm phục sâu sắc, đặc biệt là thái độ
chân thành, trân trọng, cao quý nhà văn dành cho các tác giả nữ, ông luôn
khuyến khích, động viên nhà văn nữ sáng tác. Chúng tơi đã từng nghĩ, rất cần
có một khóa học để bồi dƣỡng “văn đức” trong giới cầm bút hiện nay, lấy nhà
văn Vũ Hạnh làm điển hình học tập, trong bối cảnh đất nƣớc hiện nay, rất cần
lan tỏa những giá trị, những di sản mà những nhà văn suốt đời dấn thân vì
cộng đồng nhƣ Vũ Hạnh để lại đến thế hệ trẻ hôm nay.
Trƣởng Ban Tuyên giáo Thành ủy TP. Hồ Chí Minh – Thân Thị Thƣ đã
có nhận định nhƣ sau: – Từ tƣ tƣởng đến hành động, nhà văn Vũ Hạnh đã bút
chiến, luận chiến không mệt mỏi trên văn đàn, giữa báo giới, trƣớc cơng
chúng.
Ngồi những bài phỏng vấn, các bài báo giới thiệu về nhà văn Vũ Hạnh;
những cơng trình nghiên cứu về Vũ Hạnh ở giai đoạn sau 1975 cũng nhiều và
đầy đủ hơn giai đoạn trƣớc. Khơng chỉ vị trí của Vũ Hạnh đƣợc khẳng định
bằng kiến thức văn học sử, mà giá trị văn chƣơng ông cũng đƣợc khám phá từ
nhiều góc độ, với nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau.

Tuy nhiên, vấn đề nhân vật trong tác phẩm của Vũ Hạnh , đặc biệt là
nhân vật dã sử trong các truyện ngắn, chỉ mới đƣợc nhắc đến rải rác trong một
số bài viết và cơng trình nghiên cứu, chƣa có sự khảo sát hệ thống và chuyên
sâu. Đây cũng là cơ hội cho ngƣời thực hiện đề tài này đƣợc bổ sung thêm và
tìm hiểu kỹ hơn.
Ngồi ra cịn một vài bài viết khác đăng trên một vài tờ báo điện tử,
chẳng hạn của Phạm Hồng Việt, Đọc lại Vũ Hạnh, 2010, trên
.
Các nghiên cứu về Vũ Hạnh và sự nghiệp sáng tác của ơng cịn rất ít ỏi,
về thể loại truyện ngắn của Vũ Hạnh lại càng ít hơn. Chính vì vậy, trên cơ sở
tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu đi trƣớc,


11

chúng tôi sẽ đi sâu hơn, chỉ ra những nét mới mẻ, những đóng góp của truyện
ngắn Vũ Hạnh trên phƣơng diện hình tƣợng nhân vật dã sử .
1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Vũ Hạnh là một tên tuổi lớn trong văn học hiện đại đô thị miền Nam
1954- 1975, một chiến sĩ cách mạng trong lòng địch. Thực hiện đề tài này,
luận văn hƣớng tới các mục tiêu và nhiệm vụ sau:
1.3.1. Hiểu và đánh giá về nhân vật dã sử .
1.3.2. Qua nghiên cứu các truyện ngắn của Vũ Hạnh, chúng tơi tìm hiểu
cách tổ chức hình tƣợng nhân vật dã sử trong các tác phẩm của ơng.
1.3.3. Phân tích sự độc đáo trong kiểu nhân vật dã sử trong truyện ngắn
của Vũ Hạnh.
1. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Kiểu loại nhân vật dã sử trong truyện ngắn của Vũ Hạnh viết trƣớc 1975.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu

Cụ thể, chúng tơi tập trung tìm hiểu các truyện Chất ngọc, Vượt thác
đến Con chó hào hùng, Bút máu và một số truyện ngắn khác đƣợc Vũ Hạnh
sáng tác trong khoảng thời gian từ 1958 đến 1974, đƣợc in thành sách sau đó.
Chúng tơi khơng tính đến những truyện ngắn đƣợc in lẻ trên các báo hay tạp
chí, các tiểu thuyết, các bài viết đã in hoặc chƣa in của Vũ Hạnh.
Trong các truyện đã thống kê, chúng tôi chỉ nghiên cứu chuyên sâu về
hình tƣợng nhân vật dã sử trong các tác phẩm.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
1.5.1. Phương pháp lịch sử
Đây là phƣơng pháp nghiên cứu vừa có tính thực tiễn vừa có giá trị
phƣơng pháp luận.Sự hình thành văn nghiệp của Vũ Hạnh đều chịu sự tác


12

động sâu sắc của những biến cố lịch sử. Nghiên cứu Vũ Hạnh nói riêng và văn
học đơ thị miền Nam nói chung nếu khơng đứng trên quan điểm lịch sử sẽ dễ sa
vào phiến diện, lạc hậu. Vì vậy, coi trọng quan điểm lịch sử cũng là để chúng ta
đảm bảo nguyên tắc nhận thức đối tƣợng theo hƣớng khoa học, hiện đại.
1.5.2. Phương pháp văn hóa học
Phƣơng pháp này sẽ giúp chúng ta thấy rõ sự phát triển của văn hóa tƣ
tƣởng trong sự tiếp biến và ảnh hƣởng, trong sự đa tạp và thừa hƣởng của các
hệ tƣ tƣởng chính thống và phi chính thống, trong sự phồn tạp của các kiểu
phong tục, các kiểu lối sống, các loại nhân vật… tất cả sẽ đƣợc nhìn nhận trong
sự sinh động vốn có của nó.
Hơn nữa, việc sử dụng phƣơng pháp văn hóa học cịn có ý nghĩa lớn là
xác định tính chân thực và tính dân tộc của văn hóa, văn nghệ miền Nam nói
chung và truyện ngắn của Vũ Hạnh nói riêng trên quan điểm và những giá trị
dân tộc- hiện đại.
1.5.3. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:

- Phƣơng pháp nghiên cứu thi pháp: Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là một phạm trù rất quan trọng.
Theo đó, “Văn học nghệ thuật là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính
chất quan niệm rất cụ thể” và “Hình tƣợng nghệ thuật một khi đã hình thành
là mang tính chất quan niệm, ngay cả vơ thức cũng là quan niệm về cái vô
thức. Nhà văn không thể miêu tả đối tƣợng mà khơng có quan niệm về đối
tƣợng [5; 23].
1.5.4. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Nói chuyện với chuyên gia, nhà văn: Qua những cuộc trò chuyện với
chuyên gia và bản thân nhà văn giúp chúng tôi có cái nhìn tồn diện về tác giả
Vũ Hạnh và nhân vật dã sử trong truyện ngắn của ông.


13

1.5.5. Các thao tác phân tích, so sánh: Phân tích, so sánh là những thao tác
cơ bản của khoa nghiên cứu văn học. Những vấn đề của văn học sẽ thiếu sáng
tỏ nếu khơng đƣợc phân tích và so sánh, đối chiếu. Vũ Hạnh là một tác giả
lớn của văn học miền Nam giai đoạn 1954- 1975.
1.6. Đóng góp của đề tài
Đề tài đƣợc triển khai nghiên cứu sẽ đạt đƣợc các ý nghĩa khoa học cơ
bản sau:
- Hệ thống đƣợc loại hình nhân vật văn học và nhân vật dã sử trong hệ
thống tổ chức hình tƣợng nghệ thuật trong văn chƣơng Vũ Hạnh giai đoạn
1954 – 1975.
- Phân tích và hệ thống đƣợc cách tổ chức nhân vật dã sử trong truyện
của Vũ Hạnh.
- Đánh giá đƣợc những thành cơng của tác giả trong việc xây dựng hình
tƣợng nhân vật dã sử trong thể loại truyện ngắn.
1.7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
chính của luận văn đƣợc triển khai thành ba chƣơng:
Chương 1: Nhân vật văn học và hình tượng con người trong truyện ngắn
của Vũ Hạnh.
Chương 2. Hình tượng nhân vật dã sử từ cảm quan thẩm mỹ của Vũ
Hạnh
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật dã sử trong truyện
ngắn của Vũ Hạnh


14

CHƢƠNG 1.
NHÂN VẬT DÃ SỬ VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA
VŨ HẠNH
1.1. Nhân vật dã sử
1.1.1. Quan niệm về nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật văn học chính là một trong những quan niệm trung tâm để xem
xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hƣớng, trƣờng phái hoặc dòng
phong cách trong dòng chảy của văn học. Những nét chung về nhân vật văn
học có thể cho phép ngƣời tiếp nhận nêu lên những hiện tƣợng văn học nhƣ:
văn học về “con ngƣời thừa” (trong văn học Nga thế kỉ XIX), văn học về “thế
hệ vứt đi” (trong văn học Mĩ thế kỉ XX) …
Nhân vật văn học là con ngƣời đƣợc nhìn nhận, đƣợc soi chiếu bởi hệ
hình ý thức của chủ thể sáng tạo (nhà văn) nên luôn tiềm tàng năng lực nhận
thức bên trong. Nhƣ vậy, nhân vật là một điểm không thể thiếu khi nghiên
cứu các mối tƣơng quan trong cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm. Sự tồn tại
của nhân vật văn học, trong đó có kiểu nhân vật dã sử chẳng qua là sự phản
ánh ý thức hệ của nhà văn đã đƣợc nhận thức bằng hình tƣợng nghệ thuật sinh
động.

Do đó, nhìn nhận nhân vật văn học nói chung và kiểu nhân vật dã sử nói
riêng của Vũ Hạnh là một cách để định lại giá trị tƣ tƣởng và giá trị thẩm mĩ
trong cách tổ chức văn bản nghệ thuật của nhà văn, từ đó đánh giá lại đƣợc
những đóng góp tinh thần q giá của ơng trong đời sống văn học miền Nam
Việt Nam 1954 - 1975.
1.1.2. Nhân vật dã sử
1.1.2.1. Khái niệm nhân vật dã sử


15

Thuật ngữ dã sử khá thông dụng, gần nhƣ rất quen thuộc với mọi ngƣời.
Theo đúng nghĩa đen của nó: dã là chốn quê mùa, chốn đồng ruộng. Sử là
lịch sử.
Dẫn theo Từ điển Tiếng Việt 1992, định nghĩa dã sử là: “Lịch sử ghi
chép những chuyện lƣu truyền trong dân gian, do tƣ nhân viết, phân biệt với
chính sử”. [ 63; 112] . Ví dụ nhƣ những câu chuyện về vua Lê Lợi, về Nguyễn
Trãi...
Dã sử có thể hiểu lại truyện sử dân gian, do dân gian ghi chép lƣu truyền
chứ khơng phải do Nhà nƣớc chủ trì, giao cho các sử quan phụ trách. Nhà
nƣớc phải chép quốc sử, tài liệu ấy đƣợc gọi là chính sử. Chính sử có những
phần chính yếu gọi là cương, và những phần cụ thể, chi tiết hơn, gọi là mục.
Dẫn theo Từ điển Bách khoa Tồn thư “Chính sử chỉ chép những điều
đƣợc chế độ chấp nhận tuỳ theo từng triều đại. Có nhiều sự kiện, từng triều
đại đánh giá khác nhau, có thể bỏ đi, khơng chép hoặc chép một cách sơ lƣợc
và phê phán gay gắt, thiên lệch. Có nhân vật đƣợc tôn vinh, phải chép đầy đủ,
nội dung phong phú. Có nhân vật chỉ đƣợc ghi chép qua, để gọi là có mà thơi.
Nhiều chuyện chép vào chính sử là rất khách quan (nếu sử quan là ngƣời cơng
bằng chính trực, khơng sợ quyền uy), nhƣng nhiều chuyện vẫn khơng phản
ánh đƣợc hồn tồn sự thực. Bên cạnh loại sử chính thức nhƣ cƣơng mục, cịn

phải có những bộ sách khác ghi đầy đủ, chi tiết hơn - phần lớn ghi chuyện các
vua quan, các ơng hồng bà chúa, hoặc những trận đánh lớn, những chiến
dịch ghi đƣợc nhiều quân công. Ngƣời ta gọi những sách này là những thực
lục. Lục cũng có ít nhiều giá trị nhƣ sử, nhƣng khơng phải là sử chính thức.
Và đó cũng là những tài liệu quan phƣơng, không phải do dân ghi chép.
Nhƣng trong cuộc sống có biết bao nhiêu việc đã xảy ra, bao nhiêu nhân vật
đã hành động, bao nhiêu biến cố dâu bể thăng trầm. Các nhà làm sử dù là sử
quan, sử thần (do vua cử ra) hay là sử gia (các trí thức chun về mơn sử học)


16

dù tài giỏi, uyên bác đến đâu, cũng không thể ghi cho đầy đủ. Họ không thể
nào biết hết mọi chuyện. Ngay cả với những sự kiện trọng đại, họ cũng khơng
thể nói thẳng ra, hoặc vì quan niệm, vì kỷ luật bó buộc [ 64; 178]
Ví dụ nhƣ ai đã là cha của các ơng vua Lê Hồn, Lý Cơng Uẩn ...v.v...
thì khơng thể biết (hoặc có biết mà khơng dám nói), tất cả đành quy là do mẹ
các ông ấy đã đƣợc… giao hợp với Thần! Lại ví dụ nhƣ vua Lê Thánh Tông
dù là một bậc minh quân, nhƣng có thể là có chuyện lăng nhăng này nọ.
Khơng thể nói thẳng điều ấy sử quan đành ghi một nhận xét phê phán nhẹ
nhàng: "nữ yết thái thậm" (con gái hầu q nhiều). Dân gian khơng bằng lịng
với cách ghi chép này. Dã sử sẽ cho thấy ông vua này có khá nhiều giai
thoại... Vậy là những sự kiện, những nhân vật lịch sử, ngồi những gì họ đƣợc
chính thức ghi chép trong sách vở của nhà nƣớc, họ còn đƣợc dân gian ghi
nhận. Chuyện của họ dù đúng hay sai, song tất nhiên phải có cơ sở, phải có
cái lõi sự thực nhất định, và đƣợc những ngƣời có chứng kiến, có nghe bình
luận, có ngấm ngầm ghi nhận và khẳng định đó là sự thật. Thế rồi họ sẽ lƣu
truyền cho nhau, kể một cách tự do theo cảm quan hay do nhận thức của số
đông. Những chuyện kể ra nhƣ vậy đã thành dã sử, hay nói một cách khác là
sử dân gian.Và tất nhiên, khơng phải chỉ có chuyện trong cung đình, mà cịn

có chuyện của những ngƣời có tên tuổi, chuyện về những sự kiện quan trọng
của các triều đại, các giai đoạn. Dã sử có thể là chuyện sử của một ngƣời (cả
ngƣời có tiếng tăm và ngƣời bình thƣờng) của một làng, của một dịng họ. Có
thể những chuyện ấy có liên quan ít nhiều đến chính sử, nhƣng cũng có thể
chỉ là chuyện riêng, tầm ảnh hƣởng chỉ có trong phạm vi không gian và thời
gian hạn hẹp, nhƣng vẫn có một giá trị sử liệu nhất định, vẫn tồn tại trong ký
ức của nhiều ngƣời và nhiều thế hệ. Dã sử chỉ là những câu chuyện riêng tƣ.


17

1.1.2.2. Nhân vật dã sử trong văn học Việt Nam
Dẫn theo sách Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, đã chỉ ra rằng dã sử
là sử của tƣ gia [1; 18]. Nhƣ vậy là rất đúng.... Dã sử có đáng tin không? Dã
sử kể những chuyện thực hay là khơng thực? Điều này rất khó nói, mà phải đi
vào từng trƣờng hợp cụ thể để suy nghĩ và đoán định. Ví dụ nhƣ câu chuyện
Chúa Chổm ở nƣớc ta. Có thực lịch sử đã có ơng vua Lê Duy Bang (hay Lê
Ninh) nào đó, đã là con nợ của nhiều ngƣời, gây nên những chuyện buồn cƣời
nhƣ ta đã biết. Khơng lấy gì làm chắc, nhƣng rất khó bác bỏ. Quốc sử không
ghi, nhƣng nhân dân bao đời nay đã thừa nhận, và câu thành ngữ: Nợ như
Chúa Chổm vẫn rất quen thuộc, và cái phố Cấm Chỉ ở Hà Nội đến bây giờ
vẫn cịn đó để mãi mãi câu chuyện khơng thể mờ đi trong trí nhớ mọi ngƣời....
Lịch sử dân gian hay dã sử cũng chỉ là một tức là do dân chúng ngoài
dân gian viết ra, nhƣ đã nhắc đến khi phân tích về quan điểm lịch sử cung
đình. Những ngƣời viết dã sử hay sử liệu tƣ nhân đa số đều không muốn để
tên họ rõ ràng trên tác phẩm của mình, có lẽ là do họ ƣu tƣ về những di lụy,
vƣớng víu với những hệ quả do ảnh hƣởng của tác phẩm gây ra cho họ và cho
con cháu về sau, là những tƣ nhân hay văn gia có ý muốn biên soạn lại những
biến cố hay sự kiện có liên quan đến lịch sử do ý thích của mình hay do
những quan hệ nào khác khiến cho họ cảm thấy thôi thúc cần viết lại. Thật ra,

dã sử cũng đã đóng góp rất nhiều trong việc bổ khuyết cho chính sử, đã
giúp cho ngƣời viết sử giải quyết đƣợc rất nhiều vấn nạn trong khi nguồn
sử học chính thống khơng đủ tƣ liệu để cung cấp lời giải đáp do vấn đề
liên quan đặt ra.
Theo tác giả Vũ Ngọc Khánh và Phạm Minh Thảo trong cuốn “ Việt
Nam kho tàng dã sử” ( Nhà xuất bản văn hóa thơng tin, 2004) [ 48], nội dung
của dã sử Việt Nam xoay quanh những vấn đề nhƣ:


18

Thứ nhất : Những chuyện đời tƣ, việc tƣ của các vua quan, các tƣớng tá,
các nhân vật có tên tuổi trong lịch sử, trong văn chƣơng nƣớc nhà mà sử
khơng ghi chép đƣợc hoặc có ghi chép mà bị bỏ sót hay quên đi.
Thứ 2: Những chuyện về các địa phƣơng. Loại chuyện thƣờng đƣợc
chép nhiều trong các sách địa chí. Có chuyện về ngƣời, có chuyện về các địa
điểm, nhƣng cần chú ý nó chỉ liên quan khi có quan hệ đến các vấn đề lịch sử
mà thơi. Địa chí thƣờng chép cả những sinh hoạt văn hố, sinh hoạt xã hội,
các phong tục tập quán, các hƣơng ƣớc, sự lễ, có vấn đề là lịch sử, có vấn đề
thuộc những ngành chuyên môn khác nhƣ địa lý học, phong tục học, v.v..
Thứ 3: Trong các tập gia phả cũng là tài liệu dã sử phong phú. Nhiều
nhân vật trong các dịng họ đã có cơng tích, có sự nghiệp đáng trân trọng
nhƣng sử sách không chép đƣợc. Vậy phải có gia phả để bù vào. Gia phả
chính là dã sử.
Thứ 4: Dã sử là chuyện về ngƣời, và cũng là chuyện về các sự kiện lịch
sử. Có thể hiểu khái niệm sự kiện lịch sử một cách rộng rãi. Có những chuyện
ngoại giao, chuyện xử kiện, chuyện tranh chấp nội bộ trong cung đình, đền
miếu, trấn thành, phủ huyện v.v... Và cịn có cả những chuyện tình sử nữa.
Đặc biệt có nhiều sự kiện vốn là phải đƣợc giữ kín (nhƣ loại cung đình bí
sử) nhƣng khơng biết vì sao mà cứ đƣợc đồn đại ra ngồi, và đƣợc lƣu truyền

mãi mãi. Ngƣời bình dân vốn hay tò mò, nghe những chuyện nhƣ thế họ
thƣờng lƣu ý, rồi kể lại, cứ mỗi lần kể là mỗi lần uốn nắn, thậm chí là xun
tạc, càng xun tạc thì lại càng đƣợc thích thú lan truyền.
Kho tàng truyện dã sử là vô cùng dồi dào, phong phú, nhƣng mãi đến thế
kỷ XIII nhà nƣớc mới bắt đầu chép sử. Ba ngàn năm trƣớc đã có biết bao
nhiêu sự kiện xảy ra, nhƣng tiếc rằng ta khơng cịn lƣu giữ đƣợc một bất kì
một chi tiết nào (ngồi những truyền thuyết dân gian). Rồi trong thời trung
đại, cận đại và ngay thời kỳ hiện đại nhƣ bây giờ, cũng có rất nhiều chuyện


19

mà sách vở khơng thể chính thức ghi chép, nhƣng ngƣời dân đều biết cả. Tất
cả đều là dã sử , vì trong số ấy , có thể sẽ có nhiều chuyện có thể là sử liệu
chính thức, sẽ đƣợc cơng nhận vào một thời gian thích hợp nào đấy. Gọi đây
là một kho tàng, quả là vơ cùng chính xác.
1.2. Quan niệm nghệ thuật của Vũ Hạnh
1.2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Theo GS. Trần Đình Sử trong giáo trình Dẫn luận thi pháp học (NXB
Giáo dục, 1998) thì “Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời đƣợc hiểu là nguyên
tắc lí giải, cảm thụ và miêu tả con ngƣời trong nghệ thuật” [69; 127].
M.Go-rơ- ki nói: Văn học là nhân học. Nhƣ vậy, văn học chính là nghệ
thuật miêu tả, biểu hiện con ngƣời. Trong các thể loại văn học khác nhau, do
chức năng và hệ thống phƣơng tiện biểu hiện khác nhau, quan niệm nghệ
thuật cũng có sự khác nhau.
Trong lịch sử văn học, việc sử dụng lại các đề tài, cốt truyện, nhân vật
truyền thống là rất phổ biến nhƣng cách giải thích và cảm nhận của họ là mới,
tạo thành tiếng nói nghệ thuật mới. Cũng vẫn là con ngƣời đã biết, nhƣng
hôm qua đƣợc nhìn ở một góc độ, hơm nay nhìn sang góc độ mới cũng tạo
thành sáng tác văn học mới.

Nhƣ vậy, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là cách cắt nghĩa, lí giải về
con ngƣời trên cơ sở hấp thu các yếu tố thế giới nhất định của thời đại, tạo ra
một quan niệm của nó về thế giới và con ngƣời.
Th.s. Phạm Thị Nhƣ Thúy trong bài “Ý thức về sứ mệnh nghệ thuật và
thiên chức nhà văn trong “Bút máu” của Vũ Hạnh – đăng trên Tuần Báo Văn
Nghệ TP.HCM số 469 có viết: “Khơng có gì giúp ta chạm đến một tâm hồn
tuyệt diệu hơn là đắm mình trong văn chƣơng của tâm hồn đó […] tác giả
luôn chú ý tới khả năng tác động trở lại vô cùng mạnh mẽ của văn học đối với
cuộc sống [80; 160]. Ông cho rằng văn học “là một lĩnh vực cao quý mà sự


×