Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hài hước nghịch dị trong truyện ngắn nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 91 trang )

i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn thạc sĩ với đề tài “Hài hước nghịch dị trong truyện
ngắn Nam Cao’’ là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi, không sao chép của bất
cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Tâm


ii
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
đến TS Phạm Tuấn Anh, người thầy đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tơi
trong q trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể các thầy cô giáo khoa Ngữ văn – Trường Đại
học Hùng Vương đã tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn trường THPT Chuyên Hùng Vương – cơ quan nơi tôi
công tác, cảm ơn các đồng nghiệp và bạn bè đã luôn bên cạnh giúp đỡ, tạo điều
kiện tốt nhất để tơi hồn thành nhiệm vụ công tác, học tập và nghiên cứu.
Xin gửi lời tri ân đến gia đình, người thân đã ln là điểm tựa vững chắc để tơi
hồn thành luận văn này.
Việt Trì, tháng 10 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Tâm



iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu...................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ................................................................................. 3
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 8
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 9
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. VỊ TRÍ CỦA CÁI HÀI TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO10
1.1. Quan niệm về “cái hài” ...................................................................................... 10
1.2. Cái hài trong văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XX ................................................ 11
1.3. Cái hài trong hệ thống giá trị thẩm mĩ của truyện ngắn Nam Cao .................... 21
1.3.1.Cái hài và cái bi ................................................................................................ 21
1.3.2.Cái hài và cái cảm thương ................................................................................ 26
1.3.3. Sắc thái thẩm mĩ của cái hài trong hệ thống giá trị thẩm mĩ của Nam Cao .... 28
CHƯƠNG 2. QUAN NIỆM HÀI HƯỚC TRONGTRUYỆN NGẮN NAM
CAO ............................................................................................................. 35
2.1. Quan niệm về cái hài hước (humor)................................................................... 35
2.2. Quan niệm về hài hước nghịch dị\ ..................................................................... 37
2.2.1. Cái nghịch dị (Grotesque) ............................................................................... 37
2.2.2. Hài hước nghịch dị .......................................................................................... 41
2.3. Các kiểu xung đột – tình huống hài hước .......................................................... 41
2.3.1. Xung đột mục đích – kết quả .......................................................................... 42
2.3.2. Xung đột thực chất – biểu hiện ....................................................................... 45


iv
2.3.3. Bi hài ............................................................................................................... 47
CHƯƠNG 3. NHÂN VẬT HÀI HƯỚC NGHỊCH DỊ TRONG TRUYỆN

NGẮN NAM CAO ....................................................................................... 53
3.1.Nhân vật xấu xí, dị biệt về nhân dạng ................................................................. 53
3.2. Nhân vật méo mó, lệch lạc về nhân cách, tâm hồn ............................................ 63
3.3. Hài hước nghịch dị – “tính dục” ........................................................................ 73
KẾT LUẬN.................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 83


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
1.1. Giai đoạn 1930 – 1945 có thể xem là một trong những thời kỳ phát triển mạnh
mẽ và đa dạng nhất của văn học dân tộc với sự ra đời của nhiều trào lưu gắn liền với
những tên tuổi lớn. Nếu trong văn xi lãng mạn có Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch
Lam, Nguyễn Tuân; Thơ mới có Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên... thì dịng văn học hiện thực phê phán chúng ta có Nguyễn
Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngơ Tất Tố, Nam Cao. Đây là những cây bút mà sự
nghiệp văn chương của họ là lời mời gọi không ngừng sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại.
Nam Cao(1917 – 1951) là một trong số những nhà văn tiêu biểu nhất của văn
xuôi Việt Nam hiện đại. Ông xuất hiện trên văn đàn văn học khi mà trào lưu hiện
thực chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Mặc dù là người đến muộn
nhưng ông đã tìm được cho mình một lối đi riêng. Nếu như các nhà văn Nguyễn
Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố đều tập trung phản ánh những mâu
thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác của Nam Cao lại đi sâu thể hiện xung đột trong
thế giới nội tâm của nhân vật. Mặc dù cuộc đời cầm bút không dài nhưng nhà văn
Nam Cao đã dành tặng cho đời một sự nghiệp sáng tác phong phú vượt qua sự khắc
nghiệt của thời gian để tỏa sáng. Trong sự nghiệp của mình, Nam Cao thành cơng
nhất ở thể loại truyện ngắn. Truyện ngắn của ông giàu về tư tưởng, xuất sắc về nghệ
thuật nên luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu và công

chúng u văn học. Vì vậy, nó là một di sản vơ cùng q báu cần được giới thiệu,
tìm hiểu và nghiên cứu thấu đáo.
1.2. Cái hài là một đặc tính vốn có của đời sống và là một phạm trù mĩ học thu hút
sự lí giải của nhiều độc giả. Cái hài xuất hiện trong văn học Việt nam ngay từ buổi
sơ khai, được thể hiện qua nhiều dạng thức phong phú và thăng trầm theo những
biến thiên của các hình thái xã hội khác nhau. Giai đoạn trước 1945, cái hài từng là
phạm trù thẩm mĩ quan trọng làm nên sự đa dạng của văn học dân tộc. Văn xuôi
trào phúng đầu thế kỉ XX xuất hiện hai cây bút tiêu biểu là Nguyễn Công Hoan và


2
Vũ Trọng Phụng. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã cho thấy trong sáng tác của họ,
cái hài như nhu cầu tự nhiên của đời sống, mang tính chất nhiều chiều, lưỡng hợp.
Cái hài trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường được nhấn mạnh ở sắc thái
châm biếm, đả kích. “Ơng thích bốp chát, đánh vỗ ngay vào mặt đối phương. Tiếng
cười đả kích của Nguyễn Cơng Hoan, vì thế, thường là những địn đơn giản và ác
liệt”[29;130]. Nguyễn Cơng Hoan tiếp nối dịng trào phúng của Nguyễn Khuyến,
Tú Xương, ơng nhìn đời như một tấn tuồng, nhân vật diễn trị là những gì thuộc về
con đẻ thời Tây. Trần Văn Hiếu trong bài Chất trí tuệ của tiếng cười và óc châm
chọc tinh quái của Nguyễn Công Hoan khẳng định: “Tác phẩm của ông được xem
như một mảng màu không thể thay thế trên bức tranh trào phúng... của văn học thời
kỳ 1930 – 1945”[18;459]. Cịn Vũ Trọng Phụng, có một thời, cái hài trong văn
chương của ông không được đánh giá cao. Bởi theo Phong Lê trong bài Tìm hiểu
lịch sử cái gọi là vấn đề Vũ Trọng Phụng giải thích rằng: “nó chạm vào chỗ thiêng
nhất, nhạy cảm nhất trong quan niệm nghệ thuật, vốn gắn rất chặt với quan niệm
chính trị và quan niệm đạo đức ở xứ ta”[24;4]. Hoàng Ngọc Hiến trong bài Dị ứng
với cái rởm – một phương diện của trào phúng Vũ Trọng Phụng đã khẳng định: “Số
đỏ là một tác phẩm trào phúng hài hước”, bởi ơng đã thể hiện được “Tình cảm hài
hước chế giễu những gì đáng khinh ghét, đồng thời làm dịu đi những tình cảm
khinh ghét...”[24;11]. Dưới con mắt của Vũ Trọng Phụng, đời là tấn đại hài kịch mà

kẻ đạo diễn chính là số mệnh. Số mệnh đạo diễn tất cả cho nên bất kì ai cũng đều có
thể trở thành diễn viên hề, dù họ ở địa vị xã hội nào. Trong Số đỏ, “đời là toàn bộ xã
hội tư sản thành thị láo nháo buổi Âu hóa. Ở đó, khơng chỉ một cá nhân làm trò,
diễn trò mà dường như tất cả đều trở thành con rối múa may quay cuồng những trị
vơ nghĩa lý do sự giật dây của định mệnh”[18;12]. So với Nguyễn Cơng Hoan, cách
nhìn đời của Vũ Trọng Phụng sâu hơn, triết lý hơn, khái quát hơn.
Bên cạnh Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng , tiếng cười trong sáng tác
của nhà văn Nam Cao cũng đem lại cho người đọc một cái nhìn mới về sự vận động
của thẩm mĩ hiện đại trong văn học Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn trước 1945.
Trong bài viết Những biến hóa của chất nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao, tác


3
giả Vương Trí Nhàn cho rằng: “Sự nhạy cảm với những cái kỳ quặc, thích gọi tên
chúng ra, đưa bằng được chúng vào truyện, đấy là một cảm hứng nghệ thuật khơng
thể che giấu ở ngịi bút tác giả Chí Phèo”[25;455]. Dù Nam Cao viết về đề tài người
nông dân hay đề tài người trí thức tiểu tư sản nghèo, ở giai đoạn sáng tác trước hay
sau Cách mạng tháng Tám thì mỗi tác phẩm của ơng đều “chứa đựng một sự cắt
nghĩa hài hước về cuộc đời”, bởi cuộc đời thật “buồn cười”, con người thật “đáng
cười, đáng thương, đáng trọng”. Tiếng cười của Nam Cao là tiếng cười ra nước mắt
gắn với trạng huống bi kịch về phần xác của con người, đó là “cái đói và miếng ăn”.
Có thể nói, hài hước nghịch dị là sở trường của Nam Cao. Những hình tượng qi
đản trong Chí Phèo, Nửa đêm, Lang Rận ... đều gắn với bi kịch của thân phận con
người. Cái hài trong truyện ngắn Nam Cao có ý nghĩa “khai tử và tái sinh”, đã góp
phần khẳng định vị trí, tầm vóc của một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam.
1.3. Trong sáng tác văn học, truyện ngắn của Nam Cao được đánh giá cao và được
Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào giảng dạy trong chương trình Trung học Cơ sở và
Trung học Phổ thơng khá nhiều. Vì vậy, việc tìm hiểu về tác phẩm của nhà văn là
một việc làm cần thiết. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhiều
luận văn, luậnán tìm hiểu về Nam Cao nhưng có lẽ chưa có một bài nghiên cứu nào

đi sâu tìm hiểu hài hước nghịch dị trong truyện ngắn của ông. Với đề tài “Hài hước
nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao”, tơi xin góp thêm một góc nhìn về truyện
ngắn của nhà văn hiện thực xuất sắc này.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Vấn đề nghiên cứu tác giả - tác phẩm
Trọn đời Nam Cao sống trong chế độ cũ, cho đến khi qua đời năm 1951, nhà
văn chưa kịp được hưởng một sự đánh giá xứng đáng. Phải đến khi ơng mất mới có
bài viết về ông. Rồi cũng lại phải trên 10 năm, sau khi tiểu thuyết Sống mòn và hai
tập truyện ngắn được in ra thì giá trị Nam Cao mới được khẳng định. Từ chuyên
luận Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc của Hà Minh Đức năm 1961, rồi qua hai
lần làm tuyển tập Nam Cao, năm 1975 và năm 1987 giá trị Nam Cao đã dần được
định vị vững chãi.


4
Cho đến nay các cơng trình nghiên cứu về tác giả – tác phẩm của Nam Cao rất
phong phú và đa dạng, đồ sộ về số lượng và kết tinh về chất lượng. Theo Trần Đăng
Suyền, tác giả cuốn sách Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao cho biết, gần nửa thế kỷ
qua đã có hơn hai trăm cơng trình nghiên cứu lớn nhỏ về Nam Cao. Trong đó có
những bài viết của tác giả cùng thời với Nam Cao và của các học giả nổi tiếng như
Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng, Tơ Hồi, Hà Minh Đức, Phong Lê, Nguyễn Đăng
Mạnh... Bằng niềm đam mê nghiên cứu, các tác giả đã không ngừng phát hiện ra
những nét độc đáo, tài hoa trong nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao như thi pháp
truyện ngắn, nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật khắc họa tâm lí, bút pháp tự sự, lối kể
chuyện...
Năm 1952, Nguyễn Đình Thi có bài viết về Nam Cao in trong cuốn Mấy vấn đề
văn học (1956) đã nhận định: “Anh thù ghét những sách phù phiếm, nói những
chuyện rắc rối của những kẻ ăn no ngồi rồi, không biết làm gì cả. Anh nhìn rõ cái
chế độ đầy đọa và làm trụy lạc con người...”[7;44]. Trong lời giới thiệu Nam Cao
tác phẩm, tập 1 (Nhà xuất bản văn học Hà Nội, 1976), Hà Minh Đức đã đánh giá

sâu sắc vị trí, vai trị của nhà văn Nam Cao trong nền văn học Việt Nam. Từ một
nhà văn đang tìm đường, nhận đường, tâm hồn Nam Cao đã dần thay đổi để có một
cái nhìn đúng đắn về cuộc sống. Ơng khẳng định: “Ngịi bút Nam Cao như một con
dao trích lạnh lùng lách sâu vào cơ thể bệnh tật của xã hội, phơi bày ra không tiếc
thương trên trang giấy những ung nhọt tấy đau đang hủy hoại hoặc thầm lặng, hoặc
gấp rút cuộc sống con người. Ngòi bút Nam Cao tỉ mỉ đi vào mọi ngõ ngách của
cuộc đời ghi lấy từng chi tiết, từng hơi thở của cuộc sống, bắt sự sống hiện hình như
nó đang bị hủy hoại, giẫy giũa quằn quại ngoài kia[...] nhưng rồi tác giả khơng kìm
nén được tiếng nấc đau thương, nghẹn ngào khi thấy những con người lương thiện
bị xô đẩy vào vịng tội lỗi[...]. Nam Cao có một tâm hồn biết lắng nghe, một tiếng
nói tha thiết biết an ủi và vỗ về từ bên trong để chia sẻ lịng mình đến mọi cuộc đời
nghèo khổ”[5;7,8]. Cũng theo Hà Minh Đức, Nam Cao là nhà văn xuất sắc nhất của
chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt nam thời kì 1930 – 1945.


5
Trong sáng tác của mình, Nam Cao viết một cách say sưa, cay đắng về miếng
ăn, “miếng ăn” là “miếng nhục” vì nó đã hủy diệt nhân tính của những người nông
dân nghèo như bà cái đĩ trong Một bữa no hay Chí Phèo trong Chí Phèo...; nó kéo
cuộc sống của người tri thức ghì sát đất, nó biến những ước mơ lí tưởng, triết lí của
người tri thức thành huênh hoang, giả dối và khôi hài (Đời thừa, Trăng sáng...).
Trong cuốn Nhà văn hiện đại Việt Nam chân dung và phong cách, Nguyễn Đăng
Mạnh đánh giá: “Nếu như tác phẩm của Ngơ Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác
phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của
con người”[29;283]. Năm 1992, cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao của nhà xuất bản
Hội nhà văn đã giúp người đọc có cái nhìn tồn diện hơn về cuộc đời, con người, tài
năng và phong cách Nam Cao qua các cơng trình nghiên cứu có giá trị sâu sắc.
Trần Đăng Suyền trong bài viết Nam Cao – nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà
nhân đạo chủ nghĩa lớn thì cho rằng: “Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực
tâm lý” mà “cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực Nam Cao là chủ

nghĩa nhân đạo... Ông là nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát
vọng được phát huy đến tận độ tài năng của con người...”[27;36,42]. Trong cuốn
Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao của Trần Đăng Suyền, tái bản lần thứ 3, năm 2008
đã khẳng định mạnh mẽ hơn nữa tài năng, phong cách Nam Cao: “Thời gian càng
lùi xa, những tác phẩm của ông càng bộc lộ những tư tưởng nhân văn cao cả, ý
nghĩa hiện thực sâu sắc và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.”[41;7]. Đã hơn 60
năm trôi qua nhưng sự nghiệp của nhà văn Nam Cao vẫn được tìm hiểu và ngày
càng tỏa sáng.
Ngồi ra cịn rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học với các đề tài xung
quanh cuộc đời, con người, sự nghiệp của Nam Cao của nhiều thế hệ khác nhau,
điều đó cho thấy sức hút kì lạ của nhà văn tài năng và tâm huyết này. Càng đọc
Nam Cao, ta càng tiếp cận một chân lý: “Nam Cao là một đỉnh cao của chủ nghĩa
hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945”[41;9].


6
2.2. Vấn đề nghiên cứu hài hước nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao
Phong Lê trong bài Nam Cao nhìn từ cuối thế kỉ cho rằng: “Ở văn Nam Cao gần
như có đủ các chất liệu: hài và bi, trào phúng và chính luận, triết lí và trữ tình,
nghịch dị và nhàm tẻ, thô nhám và chất thơ...”[27;22]. Tuy nhiên, phần lớn các bài
viết, các cơng trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu về Nam Cao và sáng tác của
ông đều ở khía cạnh hiện thực và nhân đạo, cái đói và miếng ăn, cái bi kịchtrong
cuộc sống con người...; mà chưa có cơng trình nghiên cứu nào trọn vẹn về hài hước
nghịch dị trong truyện ngắn.
Nói đến chất hài trong sáng tác văn học giai đoạn 1930 – 1945 người ta nghĩ
ngay đến hai nhà văn trào phúng Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Nguyễn
Công Hoan với gần 200 truyện ngắn đặc sắc đã đưa ông đến đài vinh quang của bậc
thầy truyện ngắn nước nhà. Vũ Trọng Phụng chỉ cần nhắc đến Số đỏ cũng đủ “làm
vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải). Còn Nam Cao, từ trước tới nay chưa
ai coi ông là nhà văn trào phúng, mặc dù người ta vẫn nhận ra chất hài hước độc đáo

của ông. Theo bài viết Vài suy ngẫm về tiếng cười trong sáng tác của Nam cao
trước Cách mạng tháng Tám của Lê Nam Linh thì tiếng cười “thường đến đột ngột
và lai rai trong mạch truyện, thường làm hé ra những nụ cười không thành tiếng của
độc giả”. Và tác giả bài viết đi vào lí giải hai thủ pháp chính tạo tiếng cười trong
sáng tác Nam Cao: Một là; Để “nội tâm nhân vật lý sự”. Thủ pháp này, Nam Cao
thường dành cho người nơng dân, đó là những người nơng dân bần cùng đang dần
tha hóa, biến dạng đến thảm hại mất dần nhân cách. Viết về họ, tiếng cười bật ra ở
cách biện bạch, lí sự cùn trong cái lí sự của nội tâm nhân vật. Hai là “Phanh phui
tâm lý nhỏ nhen”. Thủ pháp này dành cho nhân vật tiểu tư sản, những con người
ln bị dày vị vì nghèo túng nhưng lại cố làm ra vẻ trang nghiêm đạo mạo. Tiếng
cười thốt ra day dứt, ngậm ngùi, “Tiếng cười ấy tạo cho Nam Cao có màu sắc hơn,
giọng văn triết lý của Nam Cao trở nên bớt khô khan hơn, nặng nề hơn: Triết lý mà
hài hước, hài hước mà triết lý thâm trầm”[9].
Bài viết Chất hài trong truyện ngắn Nam Cao của Lê Thị Đức Hạnh nhận xét:
“Tuy không phải là đặc điểm phổ biến nổi đậm như chất triết lý, nhưng chất hài ở


7
ngịi bút Nam Cao được biểu hiện kín đáo, có khi thấy ở từng truyện, từng ý hoặc
qua những hình ảnh, câu chữ... với một sắc thái riêng, là một trong những nét góp
phần tạo nên sự độc đáo của truyện ngắn Nam Cao”[27;103]. Tác giả cũng cho
rằng, đọc truyện ngắn Nam Cao dễ dàng bắt gặp ở chỗ này, chỗ khác các cung bậc
khác nhau của cái hài và “Nếu như tiếng cười của Nguyễn Cơng Hoan giịn giã, phũ
phàng, khối trá, tiếng cười của Ngơ Tất Tố dí dỏm, sâu sắc, thâm trầm, tiếng cười
của Vũ Trọng Phụng hài hước, giễu cợt sâu cay thì tiếng cười của Nam Cao thấm
lẩn, đượm vẻ bi thương, nhiều khi pha chất triết lý”[27;110]. Và chính vì điều đó
nên truyện ngắn Nam Cao dễ trầm lắng và nặng nề suy tư.
Tác giả Trần Thị Việt Trung trong bài Về các nhân vật dị dạng trong sáng tác
Nam Cao đã khẳng định: “Việc xuất hiện một loạt các nhân vật xấu xí, kỳ dị, ở
trong tác phẩm của Nam Cao là một việc làm đầy dụng ý của tác[...]. Sự bế tắc đến

mức dồn nén đã xô đẩy con người vào ngõ cụt của cuộc đời”[27;127]. Những con
người méo mó, dị dạng về tâm hồn và nhân cách ấy là những người dân lao động
hiền lành. Họ là sản phẩm của xã hội đen tối. Chính xã hội thực dân nửa phong kiến
đã biến họ từ những con người lương thiện, đẹp đẽ, cao quý thành những kẻ đần
độn, ngu ngơ bị loại bỏ ra khỏi xã hội lồi người.
Vương Trí Nhàn trong bài viết Những biến hóa của chất nghịch dị trong truyện
ngắn Nam Cao cho rằng nghịch dị là trái ngược với cái thông thường “một dạng
tồn tại của sự vật, dạng méo mó xệch xạc”. Ở truyện ngắn Nam Cao, các nhân vật
khơng có tính kỳ qi, hoang tưởng, biến hình. Sáng tác của ơng, “các nhân vật
thường khi vẫn là con người với những mong muốn tầm thường của họ, cái kỳ qi
có được miêu tả thì cũng là một thứ kỳ quái có nhiều dây dưa với những hình hài
những kích thước con người hàng ngày...chẳng qua bị lỡ tay xơ đẩy nên méo mó
xẹo xọ đi một chút mà thôi”[27;93]. Theo ông, cái kỳ dị không phải chỉ hiện ra ở
dạng dương tính mà cịn có dạng âm tính. “Và đấy cũng là một khía cạnh làm cho
chất nghịch dị này mang sắc thái riêng của con người Việt nam, xã hội Việt
Nam”[27;93]. Tác giả Bích Thu trong bài Sức sống của một sự nghiệp văn chương
thì lại cho rằng: “Với cái nhìn nghệ thuật của mình, cuộc đời hiện ra trong tác phẩm


8
Nam Cao như tự nó vốn như thế. Cái bình thường và cái khơng bình thường, chất
hiện thực và chất quái dị tồn tại bên nhau. Nhưng tính chất trái chiều ấy khơng phải
khơng có sức hút trong phong tục và trong đời sống tâm linh của con người Việt
Nam.”[7;35].
Nhìn chung, các tác giả đã ít nhiều đề cập tới cái hài hước, cái nghịch dị trong
truyện ngắn Nam Cao song chưa phải là những bài viết, bài nghiên cứu có hệ thống
và tồn diện. Chúng tơi sẽ tiếp thu và kế thừa các kết quả nghiên cứu liên quan đến
đề tài để làm rõ hơn “Hài hước nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao”
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu của đề tài

Cho đến thời điểm hiện tại khi chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài “Hài hước
nghịch dị trong truyện ngắn của Nam Cao” thì dường như chưa có một cơng trình
khoa học nào thực sự chuyên sâu về đề tài này. Luận văn nhằm làm rõ hơn một
phương diện thẩm mĩ trong thi pháp truyện ngắn Nam Cao đồng thời thấy được tài
năng của nhà văn trong nghệ thuật viết truyện .
Hài hước nghịch dị là một phạm trù khó và phức tạp. Hiện nay còn rất nhiều ý
kiến đánh giá khác nhau và ngày càng được mở rộng phong phú hơn. Nắm bắt và lí
giải hài hước nghịch dị khơng phải là vấn đề dễ dàng, tuy nhiên, chúng tôi mong
muốn với đề tài này cố gắng đi tìm hiểu nét độc đáo riêng trong truyện ngắn của nhà
văn hiện thực xuất sắc Nam Cao.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích, lí giải để làm rõ hài hước nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao
trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
- Xác định một số khái niệm: Cái hài, hài hước, nghịch dị, hài hước nghịch dị.
- Trình bày các luận điểm về hài hước nghịch dị trong truyện Nam cao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Hài hước nghịch dị trong truyện ngắn
Nam Cao.


9
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát một số truyện ngắn tiêu biểu nhất của Nam Cao trước và sau
cách mạng tháng Tám 1945 ở cả hai đề tài người nơng dân và người trí thức nghèo
và một số tác phẩm, cơng trình nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
Luận văn của chúng tôi nghiên cứu hài hước nghịch dị trong truyện ngắn Nam
Cao qua các phương diện: Cái hài trong truyện ngắn Nam Cao, các kiểu xung đột
hài hước, nhân vật hài hước nghịch dị. Với đề tài “Hài hước nghịch dị trong
truyện ngắn Nam Cao”, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu của đề tài dựa trên lý

thuyết hài hước, nghịch dị của văn học hiện đại và hậu hiện đại vốn đã được công
nhận và thống nhất trong giới nghiên cứu phê bình lâu nay. Luận văn này tập trung
phân tích, đánh giá những biểu hiện phong phú và hiệu quả thẩm mĩ của hài hước
nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao để thấy được những nét riêng độc đáo trong
sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài “Hài hước nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao”, chúng tôi chủ yếu sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp so sánh: So sánh vấn đề được đề cập tới trong luận văn với những
tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam và văn học thế giới để thấy được những khám
phá riêng về cái hài hước nghịch dị trong truyện ngắn của Nam Cao.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: đưa ra những dữ kiện để phân tích, đánh giá.
Phương pháp vận dụng cách tiếp cận của thi pháp học.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Vị trí của cái hài trong truyện ngắn Nam Cao.
Chương 2 : Quan niệm hài hước trong truyện ngắn Nam Cao.
Chương 3 : Nhân vật hài hước nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao.


10
CHƢƠNG 1. VỊ TRÍ CỦA CÁI HÀI TRONG
TRUYỆN NGẮN NAM CAO
1.1. Quan niệm về “cái hài”
Cái hài là phạm trù mỹ học cơ bản. Cái hài được xem là một trong những
phương tiện biểu hiện của tình cảm thẩm mĩ trong sự đối xứng với cái bi. Biểu hiện
của cái hài rất phong phú, đa dạng. Nó vừa là phương thức của cái khơi hài vừa
được bắt nguồn từ chính cơ sở khách quan của cái khôi hài. Cái hài được chuyển tải
đến đời sống bằng công cụ sắc bén là tiếng cười. Các nhà mĩ học Hi Lạp cổ đại như
Platon, Arixtote đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về cái hài. Platon cho rằng

“Thiếu hài hước không nhận thức được cái nghiêm túc”. Arixtote quan niệm: Cái
hài trước hết phải là cái xấu, nhưng chỉ là một bộ phận của cái xấu , những cái xấu
thuộc phạm vi đạo đức nó vơ hại, hài kịch chân chính bởi vậy khơng bao gồm hình
thức chế giễu mà chỉ là một hình thức trào lộng đem lại cái cười với mục đích mua
vui. Quan điểm mĩ học của Arixtote đã chỉ ra được bản chất của cái hài đó là cái
xấu nhưng ông mới chỉ nhấn mạnh giá trị giải trí mua vui mà chưa quan tâm đến ý
nghĩa phê phán, khả năng phủ định của nó về mặt xã hội. Các nhà triết học cổ điển
Đức như Kant, Hegel cũng quan tâm đến việc lí giải cái hài. Theo Kant, cái hài là
sự mâu thuẫn giữa cái thấp hèn và cái cao cả. Hegel quan niệm hài là mâu thuẫn
giữa cái giả dối, cái có cơ sở hư ảo với cái có ý nghĩa, cái bền vững và chân lí. Từ
những phát hiện trên, ta có thể thấy cái hài được sinh ra từ mâu thuẫn, tương phản
hay khơng tương xứng. Nói cách khác: Tiếng cười cùng tác động và ý nghĩa thẩm
mĩ của nó bao giờ cũng được phát hiện và biểu hiện dưới ánh sáng của một lí tưởng
thẩm mĩ tiến bộ.
Từ điển thuật ngữ văn học của các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi đã khái quát: Cái hài là “phạm trù mỹ học phản ánh một hiện tượng phổ
biến của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra tiếng cười ở những cung bậc và sắc
thái khác nhau. Đó là sự mâu thuẫn, sự khơng tương xứng mà người ta có thể cảm
nhận về phương diện xã hội – thẩm mĩ”[13;36]. Như vậy, cái hài gắn với tiếng cười,
chứa đựng tiếng cười, cái hài là một hiện tượng gây cười. Cái hài thuộc về khách


11
thể thẩm mĩ còn cái cười lại thuộc về chủ thể thẩm mĩ. Tuy nhiên, không phải mọi
cái cười đều có quan hệ với cái hài. Cái hài cịn bao hàm một ý nghĩa xã hội sâu sắc
gắn liền với sự khẳng định lí tưởng thẩm mĩ cao cả. Giáo trình Mỹ học đại cương
(PGS -TS Nguyễn Văn Huyên chủ biên) cũng kết luận: Cái hài “là cái xấu đội lốt
cái đẹp, bị phát hiện bất ngờ và gây ra tiếng cười tích cực...”. Có thể nói, cái hài là
một trong những phẩm chất thẩm mĩ chủ đạo tạo nên đặc trưng thẩm mĩ đa dạng
của văn học. Có ba yếu tố tạo nên cái hài: Một là, bản chất mang “tính hài” của đối

tượng; hai là, sự cường điệu của “đường nét, kích thước”; Ba là, sự “sắc bén, hóm
hỉnh” của người thể hiện. Có thể nói, cái hài là một trong những phẩm chất thẩm mĩ
chủ đạo tạo nên đặc trưng thẩm mĩ đa dạng của văn học.
Trước hết, cái hài là cái xấu thuộc về đạo đức, về đời sống, về lí tưởng xã hội thể
hiện ở quan hệ thẩm mĩ. Ví dụ: như tính hay xu nịnh, gia trưởng, tham ăn, lươn lẹo
trong từng con người và cả trong các mối quan hệ xã hội. Arixtote cho rằng: Cái
xấu đã đến mức đê tiện mà ai cũng biết, khơng giấu nổi thì nó khơng cịn của tiếng
cười hài hước. Cái hài còn gắn với tiếng cười tích cực. Đó là tiếng cười dí dỏm, mỉa
mai, châm biếm một cái nhẹ nhàng nhưng lại có sức mạnh chống lại cái xấu. Trong
mĩ học hiện đại, liên quan tới yếu tố cười của cái hài, ít hay nhiều đều gắn với yếu
tố tục, cái tục. Trong rất nhiều dạng của cái hài đều có sự đan xen một cách tinh tế
tính bất ngờ pha trộn yếu tố dung tục. Người ta thường gắn cái hài với cái bộ phận
sinh dục của con người để tìm ra tiếng cười. Chẳng hạn như câu: “Trời cho cái mẽ
bên ngoài – Để che đậy cái sơ sài bên trong”(Tú Mỡ).
Trong đời sống, cái hài có nhiều loại và sự đa dạng của nó phụ thuộc vào tính
chất nhiều màu vẻ của đối tượng có thể gây cười lẫn chủ thể cười. Có hai dạng tồn
tại khách quan của nó, đó là hài hước và châm biếm.
1.2. Cái hài trong văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XX
Cái hài trong văn học Việt Nam truyền thống mang bản chất mỹ học. Chúng ta
đã biết đến tiếng cười trong trẻo của người bình dân; tiếng cười lạc quan, vui mà tếu
của Hồ Xuân Hương; tiếng cười nhẹ nhàng, thâm thúy, hóm hỉnh của Nguyễn
Khuyến; tiếng cười dữ dội, quyết liệt, sâu cay như “mảnh vỡ thủy tinh” của Tú


12
Xương và tiếng cười thâm trầm đầy chất trí tuệ của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh. Rồi đến tiếng cười trong văn xuôi hiện thực phê phán của Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố và nằm sâu trong hệ hình văn học Việt Nam
truyền thống là tiếng cười “đau đớn và u ám” của Nam Cao. Đó là một chuỗi cười
dài trong truyền thống văn học, văn hóa Việt Nam.

Rabơle, nhà nhân văn chủ nghĩa Pháp thời Phục Hưng nhận xét rằng: cười là
một đặc tính của con người. Tiếng cười thể hiện phong phú đời sống tâm hồn trí
tuệ, tình cảm của lồi người. Văn học dân gian gắn với văn hóa dân gian Forklore,
tiếng cười cất lên với nhiều cung bậc. Trong mảng ca dao hài hước, các nhân vật
xấu xí chính là đối tượng của tiếng cười. Chân dung những người phụ nữ lôi thơi,
nhếch nhác, bẩn thỉu; những người đàn ơng xấu xí, thô kệch ... được miêu tả một
cách hài hước nghịch dị. Đây là chân dung của người phụ nữ có tất cả những nét
khiếm khuyết: “Lỗ mũi mười tám gánh lơng.../ Đêm nằm thì gáy o o.../ Đi chợ thì
hay ăn quà.../Trên đầu những rác cùng rơm...”. Hiện lên trong bài ca là chân dung
biếm họa của người vợ ở hình dáng và tính cách. Người phụ nữ ấy khơng chỉ xấu xí,
bẩn thỉu mà cịn lười nhác, hay ăn q vặt. Nhưng cái xấu xí đó lại trở thành cái
hay, cái đẹp trong tình cảm yêu quý, chiều chuộng của người chồng. Thế mới biết
khi yêu cái gì cũng đẹp cũng đáng u. Ơng cha ta cịn có những câu nói về hình
tượng dị biệt của người chồng trong gia đình “Chồng gì chồng bé – Bé tẻo tèo teo –
Chân đi cà kheo”. Người chồng trong bài ca dao được vẽ bằng tiếng cười hài hước
về sự vô giá trị. Và còn nhiều câu ca dao như: “Chồng hen lấy vợ cũng hen – Đêm
nằm cò cử như kèn thổi đôi”; “chuột chù chê khỉ rằng hôi – Khỉ mới trả lời: cả họ
mày thơm!”... Tiếng cười trong ca dao Việt Nam mang thật nhiều ý nghĩa.
Đến văn học trung đại, tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương
có đầy đủ các cung bậc của tiếng cười nhân loại. Tiếng cười trong thơ bà có sự giao
thoa, hòa quyện giữa tiếng cười dân gian và văn hóa bác học. Bằng tiếng cười độc
đáo, “Bà chúa thơ Nôm” đã tạo ra một mô thức nghệ thuật về con người lệch chuẩn.
Hình ảnh các vua chúa, quân tử, văn nhân, sư sãi đã chút bỏ y phục vàng son trở về
làm con người phàm tục qua tiếng cười suồng sã. Đọc “Sư hổ mang” của Hồ Xuân


13
Hương, tiếng cười nghịch dị đã được hồi sinh: “Chẳng phải Ngơ, chẳng phải ta –
Đầu thì trọc lốc, áo không tà – Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm – vãi núp sau lưng
sáu bảy bà – Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe – Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi

ha...”[20;35,36]. Sự hài hước ở đây thật nghịch dị bởi những người tu hành nhưng
làm những việc trái với luân thường đạo lí chưa rũ bỏ được dục vọng bản năng:
hoang dâm vơ độ. Vì vậy, sự xuất hiện của “hài hước Xuân Hương đã tạo ra những
sang chấn, khiến ý thức thẩm mĩ thời trung đại thêm một nhân tố phá vỡ sự cân
bằng đã tới hạn”[1;147]. Tác giả Mai Trương Huy thì cho rằng: Tiếng cười trong
thơ Hồ Xuân Hương chứa đựng tiếng cười toàn dân và cảm hứng hiện thực phồn
thực, bình dị.
Và đến văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, “cái hài thực sự đã gia nhập chính
thức vào hệ thống thẩm mĩ đồng thời với sự thay đổi lớn lao của cái nhìn, quan
niệm nghệ thuật về thế giới, về sự sống trong tính phổ qt nhân loại”[1;148]. Ở
thời kì này, thực dân Pháp xâm lược và đặt ách đô hộ. Xã hội Âu hóa với những đặc
trưng của nó đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Những giá trị truyền
thống tốt đẹp bị lấn át. Điều này làm cho cái hài trỗi dậy mạnh mẽ, tiêu biểu là ở các
nhà văn hiện thực phê phán như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng.
Nam Cao đã tìm cho mình một lối đi riêng trong việc khám phá, phát hiện cái hài để
tạo ra những chân dung kì lạ trong văn học và trở thành những hình tượng nhân vật
bất hủ một đi khơng trở lại.
Nguyễn Cơng Hoan là “cây” trào phúng xuất sắc. Ơng có sở trường viết truyện
trào phúng theo khuynh hướng hiện thực phê phán. Từ năm 1930 – 1932 nhà văn đã
cho ra đời hơn hai mươi truyện ngắn và nhanh chóng trở thành một nhà văn sáng
giá. Nối tiếp tiếng cười hóm hỉnh trong văn học dân gian và trong thơ của Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Công Hoan viết truyện ngắn hiện thực
đậm chất hài, hóm hỉnh và sâu sắc. Đối tượng của cái hài trong truyện ngắn của ông
đa dạng, sắc độ của tiếng cười nhiều cung bậc với nghệ thuật trào phúng linh hoạt,
giàu cá tính. Văn Nguyễn Cơng Hoan được ví “như mũi tên nhằm vào một loại đối
tượng của xã hội” là “loại văn tiễn đưa tất cả những gì lỗi thời đi vào vương quốc


14
của bóng tối”[24;8]. Xuất phát từ cái nhìn cuộc đời là sân khấu hài kịch và con

người chỉ là những kẻ diễn trò, tác giả đã phơi bày được bộ mặt thật của xã hội
đương thời. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan thường xoay quanh sự đối chọi giữa
kẻ giàu và người nghèo. Kẻ giàu thì “ăn ngập mày ngập mặt”, người nghèo thì “suốt
đời đói rách”. Từ đó, nhà văn đã khám phá những cái vô lý bất công trong xã hội cũ
bằng vũ khí mn màu mn vẻ của cái hài. Nguyễn Cơng Hoan khơng có khả năng
tổ chức những “chuỗi cười dài” như trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng mà tiếng cười
của ơng được gói gọn trong những truyện rất ngắn. Bằng óc quan sát, trí tưởng
tượng và tư duy nghệ thuật của mình, nhà văn đã phát hiện ra những mẫu thuẫn trào
phúng, tình thế có tính chất hài hước. Chẳng hạn như Tinh thần thể dục là mẫu
thuẫn giữa cái vẻ mĩ miều bên ngoài giả tạo rất vui, rất thoải mái: xem bóng đá, với
thực chất bên trong của kẻ bị trị: là tai họa đối với người dân cày đầu tắt mặt tối. Đó
là mâu thuẫn hài kịch, là sự vênh váo giữa hình thức và nội dung tạo ra tiếng cười
vừa giễu cợt vừa châm biếm đả kích. Từ đó tác giả phê phán tính chất bịp bợm của
“phong trào thể dục thể thao” mà thực dân Pháp cổ động rầm rộ để đánh lạc hướng
thanh niên. Truyện ngắn “Người ngựa, ngựa người” là tình thế ối oăm của hai nạn
nhân trong xã hội thành thị xưa: anh phu xe (ngựa người) muốn kiếm thêm vài đồng
mua lon gạo cho vợ con trong đêm ba mươi thì lại phải chở khơng cơng cho gái
giang hồ ế khách (người ngựa). Câu chuyện đã tạo ra xung đột bi hài kịch, chuyện
thật như bịa tạo sự đột ngột, bất ngờ. Tiếng cười bật ra đau xót cho kiếp “ngựa
người và người ngựa”. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “nhiều tác phẩm chỉ
xây dựng chung quanh mâu thuẫn giữa cái vỏ và cái ruột của một nhân vật: vỏ thì
chí hiếu, ruột đại bất hiếu (Báo hiếu: trả nghĩa cha, Báo hiếu: trả nghĩa mẹ’), vỏ
tiết hạnh, ruột dâm ô (Một tấm gương sáng...), vỏ oai vệ, ruột lưu manh (Đồng hào
có ma...), vỏ lịch sự, sang trọng, ruột xỏ xiên, bần tiện (cái ví ấy của ai? Mất cái ví,
thằng điên...)”[29;138].
Cách kể chuyện của nhà văn Nguyễn Cơng Hoan rất vui và có duyên. Cái hài
của ông khiến kẻ thù cũng phải bật cười. Ơng ưa sử dụng thủ pháp cường điệu,
phóng đại và những liên tưởng bất ngờ để tô đậm những bức chân dung biếm họa



15
nhưng ấn tượng nhất vẫn là các nhân vật phản diện. Nhà văn từng khẳng định: “Tôi
vẽ người xấu nhạy hơn người tốt”. Các nhân vật phản diện trong sáng tác của
Nguyễn Công Hoan tuy khác nhau về tên gọi, địa vị nhưng chúng đều có một ngoại
hình béo tốt, phì nộn, đều có tính cách độc ác, xấu xa, đê tiện. Đây là chân dung
quan huyện Hinh trong Đồng hào có ma: “có lẽ vì ơng béo q, nên lỗ chân lông
căng ra, căng thẳng quá, đến nỗi râu khơng có chỗ nào lách ra ngồi được”[37;61],
hay nhà tư sản trong Báo hiếu: trả nghĩa cha: “Cái bụng phưỡn ra, nấp trong bộ
quần áo xếp nếp cứng thẳng như cái hộp”[37;61]. Ngoại hình béo tốt của một “bà”
trong truyện Phành phạch cũng được Nguyễn Công Hoan miêu tả mang đầy tính
châm biếm: “cái mặt phị, cái cổ rụt, cái thân nung núc, và “bốn chân tay ngắn chùn
chùn”. Bà nằm đó nhưng khơng ai biết đó là người mà tưởng “một đống hai ba cái
chăn bông cuộn lại với nhau, sắp đem cất đi...”. Trong truyện ngắn trào phúng
Nguyễn Cơng Hoan, nhân vật được xây dựng khơng có độ vênh giữa ngoại hình và
tính cách. Ngoại hình nào thì tính cách ấy. Đó là kiểu nhân vật loại hình. Nghệ thuật
phóng đại của Nguyễn Cơng Hoan đã “tạo nên được biết bao trận cười đậm đà
khoái chá”[29;143].Và tiếng cười như thế chính là vũ khí của cái thiện, giúp phê
phán đẩy lùi, xóa bỏ những mặt tiêu cực trong cuộc sống.
Bên cạnh Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng cũng là nhà văn trào phúng bậc
thầy trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Nói đến tiếng cười trong sáng tác của
nhà văn này, tác giả Văn Tâm trong bài Vũ Trọng Phụng trong rừng cười nhiệt đới
đã cho rằng: “Một vạt “rừng cười nhiệt đới” vụt xuất hiện với những cây cười thuộc
loại gỗ tứ thiết: Nguyễn Công Hoan, người kể chuyện tiếu lâm thời Tây cười rộ
thống khoái, Tơ Hồi cười nửa miệng ngán ngẩm, Ngơ Tất Tố cười nụ thâm nho,
Tam Lang cười khẩy nhọn hoắt, Nam Cao cười nhếch mép lạnh lùng, Tú Mỡ cười
nhấm nháy hóm hỉnh. Đồ Phồn cười nửa miệng cay độc... Và vươn cao ngọn trên
rừng cười tứ thiết ấy là cây cười loại chò cổ thụ Vũ Trọng Phụng với các giai điệu
cười có thanh điệu, tiết tấu, âm sắc, trường độ và cường độ đa dạng...”[31;93]. Sáng
tác của “ông vua phóng sự đất Bắc” có một vị trí đặc biệt. Phần lớn các tác phẩm
của ơng đều có tính hài và thành công rực rỡ nhất của nghệ thuật trào phúng là tiểu



16
thuyết Số Đỏ – một tác phẩm mà “không ai bắt chước được, không ai theo kịp
được”(Vũ Bằng – Những cây cười tiền chiến – Sài Gòn – 1971). Với tác phẩm Số
đỏ, Vũ Trọng Phụng xứng đáng là “bậc thầy trào phúng”. Ở tác phẩm này, mỗi
chương là một màn hài kịch, mỗi nhân vật là một chân dung hài hước. Nhà văn có
biệt tài khai thác những cái nghịch dị (grotesque), cái ngẫu nhiên trong cuộc sống.
Hài hước nghịch dị trong tác phẩm Số đỏ chủ yếu là sự kết hợp những cái không thể
kết hợp như bi – hài, giả – thật, đạo đức – vô đạo đức; ở kiểu hình tượng vật chất
xác thịt như hình tượng em Chã, bà phó Đoan, Xuân Tóc Đỏ; ở những nhân vật đeo
mặt nạ dù khơng có lễ hội hóa trang nào: Cơ Tuyết lẳng lơ ln đeo mặt nạ đoan
trang, bà phó Đoan dâm đãng lại đeo mặt nạ tiết hạnh khả phong. Cái hài trong tác
phẩm thể hiện ngay ở cách đặt tên nhân vật: Bà phó Đoan nhưng khơng đoan chính;
bà Văn Minh nhưng khơng văn minh, ông Typn tân tiến nửa vời; Minđơ, Mintoa
cảnh binh hạng năm hay nhiễu sách. Ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện trong
Số đỏ là thứ ngôn ngữ “đầu đường xó chợ”, thứ ngơn ngữ bị đuổi ra khỏi “salon,
sách vở”.
Trong tiểu thuyết Số đỏ, tiếng cười Vũ Trọng Phụng bật ra ở những đối tượng
cụ thể. Đối với người dân bình thường thì tiếng cười gắn với cảm quan trào lộng,
hài hước, bông lơn nhẹ nhàng. Nhà văn hài hước với sự thật thà của thầy tướng số,
bông lơn với hành động của chị hàng mía, đùa vui với sự ngớ ngẩn của vú già...
Nhưng đối với những đối tượng có tính chất tiêu điểm thì tiếng cười gầm thét, phẫn
nộ, sâu cay. Nhà văn “hạ huyệt” đối tượng bằng những ngón địn nghệ thuật “hạ
yết” điêu luyện. Vũ Trọng Phụng có thói quen tơ đậm chất hài hước nghịch dị ở
ngoại hình nhân vật, đó là những chân dung văn học với dáng vẻ tự nhiên, lệch
chuẩn. Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Vũ Trọng Phụng – nhà văn lớn, một hiện
tượng văn học phức tạp cho rằng: “Người ta bật cười trước một vẻ mặt dị hình, ở đó
có một tật xấu đã trở thành cố định, một tật xấu bị ngưng kết lại, cứng nhắc, máy
móc, đồ vật hóa trên bộ mặt vốn linh hoạt của con người. Tất cả tài nghệ của nhà kí

họa là nắm được cái tật xấu ấy mà phóng đại lên, tạo thành dị hình, dị
tướng”[28;44]. Chân dung bà Phó Đoan được miêu tả với những nét hài hước


17
nghịch dị. Bà đã “trạc ngoại tứ tuần” mà ăn mặc “trai lơ” hơn các thiếu nữ, mặt “bự
son và phấn”, tóc “đen mà quăn quăn”, người to béo “nặng ít ra cũng bảy mươi cân”
nhưng lại mang cái khăn “nhỏ xíu và ngắn ngủi có một mẩu”. Bà Phó Đoan là một
kiểu nhân vật xác thịt, bà được phóng đại ở tính cách dâm đãng, một thứ ngứa ngáy
xác thịt no nê và vô công rồi nghề mà rửng mỡ: “Bà chính chuyên đến nỗi chồng bà
kiệt sức, cạn sức, phải trốn xuống suối vàng”[31;17]. Mặc dù đã “thủ tiết với hai đời
chồng” nhưng bà vẫn giở những trò õng ẹo, nhõng nhẽo dơ dáng, lố bịch nhất. Nghe
ai nói có chuyện hiếp dâm ở đâu thì vội vàng “– đâu, đâu?”. Tiếng cười hài hước
vang lên trước những suy nghĩ và hành động đầy dục tính của nhân vật.
Xuân Tóc Đỏ là một nhân vật hài hước, một nhân vật lố bịch mang tính chất xảo
quyệt, thủ đoạn. Xây dựng nhân vật này, Vũ Trọng Phụng đã dựa trên những nét
khác nhau của nhiều kiểu người trong xã hội cũ. Xuân là một đứa không cha, không
mẹ, ở với người bác họ nhưng vì thói xấu vơ đạo đức mà bị đánh và đuổi đi. Từ đó
Xuân trở thành trẻ lang thang bụi đời. Nó làm nhiều nghề để kiếm sống “bán phá
xa, bán nhật trình và chạy hiệu rạp hát...”, lấy “đầu đường xó chợ làm nhà”, suốt
ngày rong ruổi ngồi đường nên tóc nó đỏ như tóc Tây. Xn Tóc Đỏ là một đứa vơ
học nhưng được xã hội thực dân phong kiến bấy giờ nhào nặn đã tạo được chỗ
đứng trong gia đình ơng Văn Minh và từ đó bằng thủ đoạn của mình đã leo lên đỉnh
cao danh vọng. Hắn trở thành “sinh viên trường thuốc”, “giáo sư quần vợt”, giám
đốc hiệu Âu hóa phụ nữ tân tiến và tự xưng là “anh hùng cứu quốc”. Tài nghệ của
Vũ Trọng Phụng còn ở chỗ ông có khả năng tạo ra được những con rối, một thế giới
“bị rối hóa”, một cuộc đời “bị trị chơi hóa”, thứ trị chơi vừa tầm phào vừa nhếch
nhác vừa đầy bịp bợm. Người đọc bật cười bởi những cử chỉ, câu nói lố bịch của
các nhân vật. Cụ cố Hồng thì lúc nào cũng ơm ngực cố rặn ra vừa ho khạc vừa gắt
“Biết rồi! Khổ lắm! Nói mãi!”, cậu Phước thì ngúng nguẩy “em chã!”... Thật nực

cười!. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Tính hài hước chỉ có thể ở thế giới
con người. Nếu có một đồ vật nào đấy làm người ta buồn cười thì chẳng qua chỉ là
vì đồ vật đó gợi lên cái vẻ hài hước nào đấy của con người. Nhưng tính hài hước
của con người lại nảy sinh từ chỗ con người, vì lý do nào đấy, bỗng mất vẻ linh hoạt


18
của một sinh thể có trí tuệ, có tâm hồn, trở thành có tính đồ vật, nghĩa là máy móc,
hoạt động, ăn nói khơng thích hợp với những tình thế đã thay đổi, như những con
rối bị giật dây”[28;46]. Có thể nói, trong thế giới nhân vật độc đáo của Vũ Trọng
Phụng, ông đã xây dựng được một thế giới đông đúc với đầy đủ các kiểu người,
chen chúc, ồn ào, náo loạn trong một bối cảnh xã hội đầy thăng trầm, điên đảo.
Trong tiểu thuyết Số đỏ, ngoài bút pháp phóng đại kiểu tranh biếm họa để khắc
họa chân dung nhân vật, phát hiện mâu thuẫn giữa danh và thực, giữa hiện tượng
với bản chất để “vạch ra cái xấu bằng tiếng cười”(Lỗ Tấn), Vũ Trọng Phụng còn
xây dựng được những tình huống mang tính “hề chèo”. Chẳng hạn như đoạn miêu
tả ngày lễ khánh thành sân quần vợt của bà Phó Đoan. Sân quần là để chơi quần vợt
thế mà người ta thấy một dãy quần đủ loại của bà Phó Đoan trên “rặng lưới của cái
sân quần cịn mới ngun như một cơ gái cịn tân”, Điên người, bà Phó Đoan gọi vú
già ra mắng cho một trận, thì vú già cổ hủ cãi: “- Ai biết đâu đấy! Gọi là sân quần
thì ai chả tưởng là phơi quần”[31;129].
Bản chất mỹ học của cái cười trong Số đỏ đã vươn tới tầm của “tiếng cười toàn
dân” bởi tiếng cười của Vũ Trọng Phụng vừa mang tầm triết lý nhân sinh vừa mang
ý nghĩa thời sự.Tiếng cười trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng có nhiều cung bậc,
sắc thái. Đó là tiếng cười hài hước (Humor) mua vui với mức độ phê phán nhẹ
nhàng, tiếng cười châm biếm (Satire) vạch trần bản chất xấu xa của đối tượng phê
phán, tiếng cười mỉa mai ác độc (Sarcasiue). Tiếng cười vừa mang màu sắc dân
gian tiếp thu và sáng tạo tiếng cười dân gian chủ yếu từ truyện Trạng Lợn và hề
chèo vừa mang màu sắc phương Tây thể hiện ở cấu trúc trí tuệ của tiếng cười phức
tạp, có tính đa nghĩa. Có thể nói, Vũ Trọng Phụng là nhà văn đầu tiên ở Việt Nam

chỉ ra thực trạng vơ nghĩa và vơ lí của cái xã hội thời đơ thị hóa bằng giọng văn đậm
chất giễu nhại, châm biếm với những hình tượng mang tính nghịch dị.
Nhắc đến cái hài trong văn xuôi Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng
tháng Tám năm 1945 ta không thể qn nhà văn Ngơ Tất Tố. Ơng cũng là một trong
những đại diện tiêu biểu nhất của văn học hiện thực phê phán. Vốn là con người
mực thước chốn cửa Khổng sân Trình nhưng những sáng tác của ơng vẫn thấp


19
thống nụ cười hóm hỉnh. Ta nhận ra cảnh “Lơi thôi sĩ tử vai đeo lọ / Ậm ọe quan
trường miệng thét loa” trong Lều chõng, bức tranh về nạn xơi thịt ở nơng thơn trong
Việc làng, qua đó tác giả phơi bày những hủ tục phong kiến bắt rễ vào đời sống và
trở nên đáng cười và đáng buồn trong xã hội nông thôn ngày trước.
Chúng ta chỉ cần đi tìm hiểu đoạn trích miêu tả nghệ thuật băm thịt gà của thằng
Mới trong phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố đã thấy được nghệ thuật của cái hài
trong sáng tác của nhà văn. Chuyện tác giả được chứng kiến là cảnh tượng buổi
“chứa hàng xóm” diễn ra ở nhà một người tên là Lăng Vân, một người bạn của tác
giả. Nhà văn đã khéo léo tạo nên những tình huống kịch tính làm nổi bật sân khấu
hài. Cảnh “chứa hàng xóm” diễn ra trong hai thời điểm “gà bắt đầu gáy” và “trời đã
sáng rõ”. Trong một không gian “Trời tối đen như mực và mưa sùi sụt”, bỗng nổi
lên “tiếng người khậm khặc”, tiếng gà đập cánh “phành phạch” và kêu “quang
quác” giữa đêm khuya. Trời sáng, cảnh người kéo đến ăn cỗ mỗi lúc một đơng “già
có, trẻ có, đứng bóng có”, thậm chí có cả mấy ơng “tí nhau”, cùng những bàn chân
lấm bê bết... chùi chân vào cái ổ rơm... rồi bước xàm xạp lên chiếu”. Cảnh tượng có
tính chất nhốn nháo xơ bồ. Sân khấu hài được tác giả vén dần lên. Thằng Mới – mõ
làng – nghệ sĩ băm thịt gà xuất hiện. Hắn đội mâm cỗ đi trong mưa đến trong “tiếng
thét” của một ơng già. Mâm cỗ có xơi “độ bốn đấu gạo”, có gà “ước chừng một
người ăn cố mới hết”, có rượu “hai chai rượu đầy ăm ắp hạng chai ba phần tư lít”.
Chỉ có bấy nhiêu thôi mà theo lệnh của một “ông đàn anh” sẽ được đem ra làm cỗ
cho cả xóm hưởng, gồm “hai mươi ba cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ chứa, một cỗ cho

mày, còn mười ba cỗ làm phần”. Những chi tiết đó đã đẩy tình huống hài lên đỉnh
điểm. Đặc biệt, cảnh thằng Mới trổ tài băm thịt gà được nhà văn kể một cách hóm
hỉnh và sân khấu hài hé mở. Đầu tiên thắng Mới chia xôi, hắn “tính lẩm bẩm giây
lát” rồi đặt con dao lên mâm cỗ xôi “xắn một chiều làm sáu, một chiều làm bốn”.
Thật công bằng, hắn lấy “một miếng xôi véo ra từng tí để phụ vào các miếng kia”.
Khi chia thịt gà, hắn đúng là một nghệ sĩ kì tài, chỉ một bộ lòng gà mà thằng Mới
chia thành mười đĩa, mỗi đĩa một dúm “nhưng trong mười đĩa không đĩa nào thiếu
một thứ nào”; pha mỏ gà thành năm “miếng nào cũng dính một tí mỏ”; pha phao gà


20
thành bốn “miếng nào cũng có bầu, đầu nhọn, chẳng khác cái chũm cau chẻ tư”.
Cảnh thằng Mới băm thịt gà thành thạo đến mức điêu luyện như làm xiếc. Hắn cắt
riêng hai cái tỏi gà, hắn chỉ chém hai nhát, tức thì con gà bị tách làm hai mảnh đều
nhau, mảnh nào cũng có một nửa xương sống. Tay cầm con dao phay, hắn băm lia
lịa, không nhát nào cao không nát nào thấp, mười nhát như một và thành quả là “cái
mình con gà, hắn đã băm được 92 miếng”. Ngô Tất Tố tả miếng thịt gà do thằng
Mới băm ra gây sửng sốt cho người mới đến: “Khơng dập nát, khơng bong da, nó
giống như tập cánh con bướm bướm. Nếu để trước mơi mà thổi, có thể bay xa được
mười thước”[43;171], đến nỗi có người đem cái chức “nghệ sĩ” đặt cho “ơng Mới”.
Có thể coi đây là chi tiết lạ lùng, khôi hài nhất. Nhà văn đã tận dụng thế mạnh của
văn miêu tả, kết hợp tự sự và biểu cảm trong một giọng điệu khôi hài để tạo dựng
một bức tranh đặc tả việc làm cỗ độc đáo có một khơng hai. Qua đó cho ta thấy việc
ăn uống thành nghệ thuật đã hiện hữu lâu dài và kì cục trong nếp sinh hoạt cổ hủ
nơi làng quê cần xóa bỏ.
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng nghệ thuật châm biếm của Ngô Tất Tố rất
sắc sảo. Nụ cười của ông “không phải là sự chế giễu lạnh lẽo, vơ tình[...], mà đây là
một sự phê phán xã hội đứng trên lập trường của một trí thức u nước. Chính lập
trường đó đã tạo nên tiếng cười của Ngơ Tất Tố, có một nội dung xã hội sâu sắc,
lành mạnh, lạc quan”[14;75]. Ông sẵn sàng sử dụng mạnh mẽ những ngón địn

“đánh thẳng vào mặt đối phương” khơng e dè, kiêng nể. Có thể thấy rằng, Ngô
Tất Tố cũng là nhà văn xuất sắc trong việc tạo nên tiếng cười hài hước đầy
nghịch dị trong sáng tác của mình.
Cái hài trong văn xi Việt Nam đầu thế kỉ XX đã đạt được những thành tựu
chưa từng có với đỉnh cao của các cây bút tài năng: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố và Nam Cao (Nam Cao sẽ trình bày ở phần sau). Tiếp thu và kế
thừa truyền thống tiếng cười từ văn học dân gian vừa mang bản sắc hiện đại với
nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, các nhà văn giai đoạn này đã sáng tạo ra nhiều
tác phẩm mang tiếng cười độc đáo thể hiện khuynh hướng tư tưởng tiến bộ góp
phần khẳng định một nền văn học trào phúng đa phong cách. Mỗi nhà văn tạo cho


21
mình một giọng cười khơng thể lẫn. Nguyễn Cơng Hoan thiên về đả kích bốp chát
tinh quái với một loại người cụ thể vì nhà văn ln nhìn đời như sân khấu hài với
những tấn kịch hề. Tiếng cười Vũ Trọng Phụng thiên về khôi hài, châm biếm một
cách sắc sảo, tiếng cười bao trùm cả xã hội có giá trị phổ qt cao. Cịn tiếng cười
Ngơ Tất Tố thơng minh, hóm hỉnh trong từng câu từng chữ. Có thể nói, các nhà văn
giai đoạn 1930 – 1945 đã để lại một di sản văn xuôi trào phúng lớn cần được thế hệ
sau nghiên cứu đánh giá một cách đúng đắn và sâu sắc.
1.3. Cái hài trong hệ thống giá trị thẩm mĩ của truyện ngắn Nam Cao
1.3.1.Cái hài và cái bi
Nổi bật lên ở truyện ngắn Nam Cao trong hệ thống thẩm mĩ là cái bi và cái cảm
thương. Từ trước đến nay, khi nghiên cứu về Nam Cao người ta nói nhiều đến cái
bi. Hiểu theo nghĩa thơng thường: Bi kịch là nỗi đau khổ dai dẳng về tinh thần
khơng có cách gì giải thốt được. Cịn theo Từ điển thuật ngữ văn học thì bi kịch chỉ
xảy ra khi có “mối xung đột khơng thể điều hịa được giữa cái thiện và cái ác, cái
cao cả và cái thấp hèn... diễn ra trong một tình huống cực kỳ căng thẳng”[13;20].
Nói đến cái bi là nói đến “nỗi đau và cái chết”, nhưng nó chỉ trở thành cái bi “khi
hướng tới và khẳng định cái bất tử về mặt tinh thần của con người”[13;32].

Là “người thư kí trung thành của thời đại”, Nam Cao đã đặt ra trong sáng tác
của mình những vấn đề sâu sắc của xã hội như những cảnh đời éo le, chua chát,
những bi kịch đau đớn của con người. Ta đã từng biết đến bi kịch đói khát cùng
đường của người nơng dân trong Một bữa no, Trẻ con không biết ăn thịt chó, Địn
chồng... đến bi kịch khơng được làm người, mất đi nhân hình nhân tính trong Chí
Phèo hay bi kịch vỡ mộng của người trí thức nghèo đầy hồi bão và khát vọng, giàu
tài năng nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất trong Đời thừa, Giăng sáng. Đọc truyện
ngắn Nam Cao, người đọc luôn day dứt khôn nguôi về bi kịch của những con người
bị đẩy xuống tận sâu thẳm đáy cùng của xã hội. Từ những trang viết của Nam Cao
vang lên tiếng kêu cứu âm thầm ở thể xác và tinh thần của con người. Cái đói, chết
đói và miếng ăn đã trở thành đề tài quan trọng của nhiều cây bút lớn giai đoạn 1930
– 1945: Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao… Nhưng ở mỗi nhà văn, đề tài ấy lại


×