Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Định kiến giới trong ca dao việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA DU LỊCH
--------------------------------

PHÙNG THỊ VÂN ANH

ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Ngữ văn

Phú Thọ, năm 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA DU LỊCH
--------------------------------

PHÙNG THỊ VÂN ANH

ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Ngữ văn

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng

Phú thọ, năm 2020


i



LỜI CAM KẾT
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm đạo đức trong học thuật. Tôi
cam kết nghiên cứu này là do tôi thực hiện đảm bảo trung thực, không vi phạm
yêu cầu về đạo đức trong học thuật.
Tác giả

Nhận xét của GVHD


ii

LỜI CẢM ƠN
Với tấm lịng kính trọng và biết ơn, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Lãnh đạo Trường Đại Học Hùng Vương, Lãnh đạo Khoa Khoa học Xã hội và Văn
Hóa Du Lịch, các thầy giáo, cơ giáo trong khoa đã giúp em trang bị kiến thức, tạo
điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học tập và thực hiện khóa luận.
Đặc biệt tơi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo, TS.Nguyễn Thị
Thúy Hằng - Người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tơi trong suốt q trình
nghiên cứu và thực hiện khóa luận.
Để hồn thành khóa luận này, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành
đến Ban giám hiệu, các thầy giáo, cơ giáo cùng tồn thể các em học sinh trường
THPT Việt Trì đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong suốt
q trình thực tập để tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Trong suốt quá trình thực hiện khóa luận, tơi nhận được sự quan tâm, sự động
viên, tạo mọi thuận lợi cả về vật chất và tinh thần của gia đình và bạn bè. Thơng
qua đây, tơi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những tấm lịng và sự giúp đỡ q
báu đó.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Phú Thọ, ngày 30 tháng 05, năm 2020

Tác giả

Phùng Thị Vân Anh


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM KẾT.................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................................ii
MỤC LỤC..........................................................................................................................iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết đề tài ........................................................................................................ 1
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................... 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 6
4. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 7
7. Đóng góp của khóa luận ................................................................................................ 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬNCỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................... 9
1.1. Khái quát về giới, định kiến, định kiến giới.............................................................. 9
1.1.1. Thuật ngữ giới, định kiến, định kiến giới............................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm và biểu hiện của định kiến giới............................................................13
1.2. Nho giáo và vấn đề “định kiến” trong cái nhìn về giới nữ ....................................17
1.2.1. Nho giáo và ảnh hưởng tích cực của Nho giáo trong xã hội Việt Nam ............17
1.2.2. Từ mặt trái đến cái nhìn mang tính định kiến về giới nữ trong xã hội Việt .....19
1.3. Khái quát về ca dao Việt Nam .................................................................................23
1.3.1. Thuật ngữ ca dao ....................................................................................................23
1.3.2. Những phương diện nội dung chủ yếu của ca dao..............................................23
1.3.3. Ý nghĩa xã hội của ca dao......................................................................................29

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................38
CHƯƠNG 2. ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG ........................................................................................39
2.1. Định kiến về dung tướng (ngoại hình) ....................................................................39
2.2. Định kiến về phẩm chất người mẹ, người vợ trong gia đình ................................41
2.2.1. Người phụ nữ với “Tam tòng”..............................................................................41


iv

2.2.2. Người Phụ nữ với “Tứ đức”..................................................................................43
2.3. Định kiến về vị thế, năng lực, vai trò xã hội của người phụ nữ ............................48
2.3.1. Người phụ nữ khơng có quyền lựa chọn, không được chủ động trong cuộc sống.
............................................................................................................................................48
2.3.2. Người phụ nữ tự coi mình là vật thể được cho, gả, bán .....................................51
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................................54
CHƯƠNG 3. ĐỊNH KIẾN GIỚI TRONG CA DAO VIỆT NAM NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT..................................................................................55
3.1. Định kiến giới thể hiện qua nghệ thuật so sánh. .....................................................55
3.1.1. Tô đậm thân phận bé nhỏ, hẩm hiu, nổi trôi. .......................................................55
3.1.2. Thể hiện bi kịch của người phụ nữ trong tình yêu. .............................................58
3.1.3. Khẳng định giá trị của bản thân ............................................................................59
3.2. Định kiến giới thể hiện qua nghệ thuật ẩn dụ .........................................................60
3.2.1. Hình tượng “con cị” - ẩn dụ của những nhọc nhằn song kiêu hãnh.................60
3.2.2. Hình tượng “con bống” - ẩn dụ về phẩm hạnh....................................................63
3.2.3. Hình tượng con “con cuốc” - ẩn dụ của thân phận đắng cay. ............................64
3.3. Định kiến giới thể hiện qua nghệ thuật Phóng đại .................................................66
3.3.1. Lối nói phóng đại thể hiện tâm trạng đau đớn của người con gái trong tình yêu
............................................................................................................................................66
3.3.2. Lối nói phóng đại để gây cười, giảm bớt áp lực định kiến cho nữ giới ............68

3.4. Định kiến giới thể hiện qua ngơn từ ........................................................................71
3.4.1. Hình thức sử dụng ngơn ngữ đối thoại và độc thoại ...........................................71
3.4.2.Ngôn từ ca dao mang tính khẩu ngữ .....................................................................72
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................................76
PHẦN KẾT LUẬN ..........................................................................................................77
1. Kết luận .........................................................................................................................77
2. Kiến nghị .......................................................................................................................78
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................79


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
1.1. Giới và định kiến giới đang là vấn đề luôn được quan tâm trong xã hội từ xưa
đến nay. Sự tồn tại của định kiến giới có từ rất lâu, định kiến giới đã xuất hiện và
tồn tại trong lịch sử loài người từ xa xưa, trong hầu hết các nền văn hố, nó ăn sâu
vào tư tưởng, tiềm thức, len lỏi vào mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Mặc dù thực
tế xã hội đã có nhiều đổi thay, tuy nhiên định kiến giới khơng hề mất đi mà cịn
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Định kiến giới gây ra những hậu quả
nặng nề đối với sự phát triển xã hội như: kéo lùi sự tiến bộ của lồi người, là
ngun nhân của bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử theo giới, đặc biệt đối với
phụ nữ, làm giảm sự phát triển năng lực của người phụ nữ, giảm sự tham gia đóng
góp của họ vào nền kinh tế, chính trị, xã hội, gia đình, là nguyên nhân sâu xa của
bạo lực đối với phụ nữ, tệ bn bán phụ nữ, bóc lột tình dục đối với phụ nữ và trẻ
em gái, làm tổn thương nghiêm trọng đến tâm lý của họ,.... Chính vì vậy, định
kiến giới gây áp lực cho cả nam lẫn nữ, đặc biệt là phụ nữ. Định kiến giới tạo ra
những giới hạn khó vượt qua và hình thành hố sâu ngăn cách giữa nam và nữ bằng
sự khác biệt trong cách nhìn nhận, đánh giá, ứng xử và thậm chí cả hưởng thụ. Sự
bất bình đẳng này đã chi phối việc trao quyền cho phụ nữ dẫn đến hạn chế vai trò

của người phụ nữ trong việc tham gia các hoạt động xã hội trong khi họ có rất
nhiều tiềm năng. Không chỉ trong môi trường xã hội, định kiến giới cịn tồn tại
trong các mối quan hệ gia đình, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của nữ giới.
Việc phân công lao động cũng bị ảnh hưởng bởi định kiến giới. Cho rằng, việc
của đàn bà, rửa bát, quét nhà, nuôi con, chợ búa…là những việc đàn ông không
thể và không được động tay bởi đàn ông cần làm những việc lớn lao hơn. Vì vậy,
một lần nữa, gánh nặng định kiến lại đè lên vai người phụ nữ. Sự bất bình đẳng
ấy đến nay vẫn cịn tồn tại và thậm chí cịn nặng nề hơn bởi phụ nữ ngày nay,
ngồi cơng việc nội trợ họ cịn phải lao động kiếm sống và tham gia các công
việc xã hội


2

1.2. Việc đấu tranh xóa bỏ định kiến giới đã và đang được thực hiện. Trên thế
giới, trong thời gian qua ở phạm vi toàn cầu, các tổ chức quốc tế đã có những biện
pháp để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới: Ngày 18/12/1979, Cơng ước về xố
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ CEDAW được Liên Hợp Quốc
phê chuẩn. Đến ngày 3/9/1981, Cơng ước CEDAW bắt đầu có hiệu lực như một
hiệp ước quốc tế. Hội nghị phụ nữ Quốc tế lần thứ IV của Liên Hợp Quốc được
tổ chức tại Bắc Kinh (Trung Quốc) năm 1995 nhằm mục đích đẩy mạnh sự tiến
bộ và tạo quyền cho phụ nữ trên toàn thế giới. Tháng 6/2000, khoá họp đặc biệt
lần thứ XXIII của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tại New York, Mỹ tiếp tục đặt ra
mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ trong thế kỷ XXI. Những tư tưởng chống định
kiến giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ đã trở thành trách nhiệm và lương tâm của các
quốc gia trên thế giới vì sự tiến bộ của nhân loại.
Ở Việt Nam: từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay,
Đảng và Nhà nước ta đã chú ý đến vấn đề bình đẳng giới, xố bỏ định kiến giới,
thể hiện ở việc ban hành các luật bình đẳng ngay từ trong hiến pháp đầu tiên năm
1946, là nước thứ 6 trên thế giới ký công ước CEDAW (ngày 29/7/1980). Tuy

nhiên, đứng từ góc độ lý luận, trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây vấn đề bình
đẳng giới mới bắt đầu được quan tâm và phải đến Nghị quyết thứ 23 của Đảng
(3/2003) thì vấn đề này mới được đưa vào thực tiễn và mang ý nghĩa khoa học
giới. Năm 2019, tại hội nghị “Tổng kết 10 năm thi hành pháp luật bình đẳng giới
và lễ ký kết chương trình phối hợp cơng tác giữa bộ lao động – Thương binh và
xã hội và trung ương hội lien hiệp phụ nữ Việt Nam” Bộ đưa ra nghị quyết sẽ
thực hiện lồng ghép giới vào các hoạt động, chương trình, dự án, đề án của ngành,
đơn vị, địa phương. Phấn đấu đến năm 2030 hoàn thiện hệ thống chính sách về
bình đẳng giới và triển khai cung cấp các dịch vụ cơng về bình đẳng giới trên
phạm vi toàn quốc.
Những đấu tranh này đã khá triệt để và ngày một mạnh mẽ hơn.Bên cạnh
những kết quả tích cực, trên thực tế, Luật Bình đẳng giới cũng bộc lộ một số hạn
chế, bất cập. Nổi lên là các quy định trong Luật cịn chung chung, mang tính định
hướng, khó triển khai trong thực tiễn, có quy định đến nay vẫn chưa thể hướng


3

dẫn thi hành; Chưa có sự thống nhất giữa Luật Bình đẳng giới và các luật chuyên
ngành. Hơn nữa, điều này chưa hẳn được thấm nhuần và trở thành suy nghĩ của
mọi thế hệ, vì vậy đâu đó vẫn diễn ra, vẫn tồn tại định kiến này trong xã hội Việt
Nam hiện đại.
1.3. Định kiến giới là một nội dung tồn tại như một hệ ý thức xã hội trong
ca dao Việt Nam. Một phần nó giúp ta hình dung được xã hội Việt Nam một giai
đoạn xa xưa, một phần là tiếng nói cảnh báo về những nhận thức đã được tồn tại
hàng nghìn năm mà chưa hẳn đã thực sự thay đổi. Ở đâu ta cũng có thể tìm thấy
tư tưởng mang định kiến giới.Và ca daoViệt Nam là một trong những hình thức
chứa đựng định kiến giới. Ca dao là một bộ phận của văn học dân gian Việt Nam,
phản ánh nền văn hoá dân tộc. Trong kho tàng văn học dân gian đồ sộ ấy, có một
số lượng nhất định các câu ca dao hàm chứa những nội dung định kiến giới, phản

ánh tư tưởng, quan niệm, hay những ứng xử giới của nhân dân ta. Trải qua biết
bao nhiêu thế hệ, các câu ca dao đó vẫn được lưu truyền cho đến ngày nay, trong
các chương trình sách giáo khoa, các tạp chí, trong cuộc sống hàng ngày, trong
các phương tiện truyền thông đại chúng…Nhưng thực tế là trong nhiều trường
hợp ta chấp nhận những định kiến giới đó một cách đương nhiên.
1.4. Ca dao lưu truyền trong dân gian hêt sức tự nhiên. Ca dao thấm vào
tâm hồn con người khơng gị bó, cơng thức. Ca dao được đưa vào chương trình
các cấp học với những giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật. Những nhắc nhở về
định kiến giới trong ca dao cần được nhìn nhận một cách tỉnh táo, có ý thức hơn
nhằm tạo ra cái nhìn đối sánh cần thiết về sự phát triển của xã hội cũng như nêu
cao tinh thần đấu tranh cho lẽ cơng bằng của bình đẳng giới. Ngày nay, khi vai
trò của người phụ nữ đã thay đổi trong gia đình và xã hội thì những định kiến giới,
những khuôn mẫu về giới xưa không cịn phù hợp, thậm chí cịn là vật cản chống
lại những nỗ lực vượt thoát số phận và khẳng định năng lực bản thân của người
phụnữ.
Vì những lý do trên, chúng ta cần có những biện pháp để hạn chế và tiến
tới xố bỏ định kiến giới. Chúng tơi chọn đề tài: “Định kiến giới trong ca dao
Việt Nam” mong muốn tìm hiểu thực trạng định kiến giới qua ca dao Việt Nam,


4

nghiên cứu rõ hơn về giá trị của ca dao. Trên cơ sở đó, có những cách đánh giá,
nhìn nhận khoa học về vấn đề giới, đề xuất một số kiến nghị nhằm giảm thiểu
những tác động tiêu cực của định kiến giới trong giai đoạn hiện nay và để đấu
tranh vì một xã hội bình đẳng giới.Tìm hiểu nội dung định kiến giới cũng là cách
thức tìm hiểu giá trị văn hóa, tư tưởng, giá trị lịch sử, triết học, tâm lí học của ca
dao…
2. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Khái lược những nghiên cứu về định kiến giới

Lịch sử nghiên cứu về giới và định kiến giới có từ những năm 70, 80 của
thế kỷ XX. Khi đó các phong trào nữ quyền trên thế giới phát triển mạnh mẽ dẫn
đến cuộc đấu tranh bình đẳng giới, diễn ra trên một phạm vi rộng lớn. Các nhà
khoa học đã đi tìm giải pháp cho những bài toán về định kiến giới. Ở Việt Nam
từ xưa đến nay người phụ nữ ln đóng vai trị nhất mực quan trọng trong gia đình
và xã hội, thế nhưng họ vẫn bị định kiến, bị phân biệt đối xử.
Ngay từ khi đất nước ta cịn là nơ lệ và là thuộc địa của thực dân Pháp,
trong tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ln đấu tranh cho sự
bình đẳng giới giữa nam và nữ. Thời điểm đó Bác Hồ đã lên tiếng tố cáo chế độ
thực dânphong kiến đã chà đạp và làm nhục người phụ nữ. Tại hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, năm 1946 đã khẳng định: “Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa”
(điều 6) và “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (điều 9). Tuy
nhiên, việc làm thay đổi định kiến về giới không phải là một điều dễ dàng. Vấn
đề này vẫn luôn được nhà nước ta quan tâm và cho đến sau năm 1946, nhà nước
ta cũng mới có những hiến pháp đề cập đến quyền bình đẳng nam - nữ. Cho đến
năm 2007 thì luật bình đẳng giới của nước ta mới chính thức ban hành. Xét ở góc
độ tâm lý học thì các nghiên cứu lý luận và thực tiễn về định kiến giới ở nước ta
đến nay chưa nhiều, có thể nêu ra một số nghiên cứu sau:
- Đầu tiên phải kể tới cơng trình “Định kiến giới và các hình thức khắc
phục” của tác giả Trần Thị Vân Anh, in trên báo khoa học về phụ nữ - số 5/2000.
Đã đưa ra khái niệm, nguyên nhân, các hình thức khắc phục định kiến giới trên


5

cơ sở lý thuyết. Các kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: Những định kiến giới với
người phụ nữ đã làm cho họ trở nên tự ti, tự đánh giá thấp về khả năng của mình,
họ thường nghĩ rằng mình kém hơn nam giới, tự coi thường bản thân mình [3,
tr.3-10].

- Thứ hai phải kể đến cơng trình “Một sự duy trì định kiến giới về vai trị
của nữ và nam trên báo hiện nay”, tác giả Trần Thị Minh Đức, Đỗ Hồng , in trên
tạp chí Tâm lý học, số 6/2004. Đã đề cập tới một số vấn đề lý luận liên quan đến
định kiến giới, các hình thức biểu hiện của định kiến giới trên phương diện lý luận
và thực tiễn ở nước ta. Bên cạnh đó họ đã phân tích và chứng minh sự duy trì các
khn mẫu giới truyền thống về vị trí, vai trị, năng lực, tính cách, đại vị của người
phụ nữ, nam giới trong gia đình và xã hội trên các báo in hiện nay. Các tác giả
cũng đưa ra một số các giải pháp để tránh tình trạng vơ hình chung, báo in lại trở
thành một công cụ tuyên truyền và duy trì định kiến giới [5, tr.14-18].
- Tiếp theo đó là cơng trình nghiên cứu của Trần Thị Minh Đức, Hồng Thị
Xuân Dung, Đỗ Hoàng - “Định kiến giới và phân biệt đối xử theo giới” (lý thuyết
và thực tiễn), NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2006. Đã đề cập tới một số vấn đề
lý luận lien quan đến định kiến giới, các hình thức biểu hiện của định kiến giới
trên phương diện lý luận và thực tiễn ở nước ta.
2.2. Những nghiên cứu về định kiến giới trong ca dao
Ca dao đã và đang được nhiều người quan tâm từ hai góc độ: Lý luận và nghiên
cứu ứng dụng. Cho đến nay đã có khơng ít cơng trình với tính chất và quy mơ
khác nhau đã nghiên cứu về ca dao. Tuy nghiên để nghiên cứu về định kiến giới
trong ca dao Việt Nam thì khơng nhiều. Có thể kể đến một cơng trình tiêu biểu
duy nhất là: Cơng trình nghiên cứu “Định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành
ngữ Việt Nam”của tác giả Nguyễn Thị Thịnh, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội,
2008. Cơng trình đã chỉ ra cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, những biểu hiện
cơ bản của định kiến giới trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ Việt Nam.Tác giả cũng
đã đưa ra cái nhìn về định kiến như sau: “Định kiến là sự nhìn nhận, phán xét,
đánh giá mang tính tiêu cực và bất hợp lý được hình thành trên cơ sở những nhận
thức thiếu căn cứ, phiến diện, một chiều mà chủ thể mang định kiến áp đặt thành


6


thuộc tính của đối tượng bị định kiến” [9, tr.23]. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ nghiên
cứu định kiến giới ở một số khía cạnh như: Ngoại hình, tính cách, năng lực để làm
rõ định kiến của xã hội đối với người phụ nữ chứ chưa hề đi sâu tìm hiểu riêng về
định kiến giới trong ca dao.
Như vậy, nghiên cứu về “Định kiến giới trong ca dao Việt Nam” còn rất
hạn chế và mới chỉ được đề cập trên cơ sở lý luận. Cơng trình nghiên cứu trên
chính là thành quả để tôi tiếp tục nghiên cứu. Với đề tài này tơi mong muốn được
tìm hiểu những định kiến giới đối với người phụ nữ được thể hiện qua ca dao Việt
Nam thông qua nội dung và nghệ thuật. Trên cơ sở đó, để có thể đề ra được những
giải pháp, kiến nghị trong quá trình tuyên truyền , giáo dục cho học sinh, sinh
viên… để nhằm giảm thiểu những tác động của định kiến giới và kìm hãm sự phát
triển năng lực của giới nữ.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là định kiến giới thể hiện trong ca daoViệt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong khn khổ có hạn nên luận văn chỉ nghiên cứu định kiến giới đối
với nữ giới, không nghiên cứu định kiến đối với nam giới.
- Phạm vi ngữ liệu khảo sát là tập Ca dao dân ca Việt Nam chọn lọc, nhà
xuất bản Văn Học, 2014 và tập Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt nam, nhà xuất bản
Văn học, 2017. Đối với những phân tích, đối sánh cần thiết, ngữ liệu có thể được
mở rộng đến các bài ca dao được in trong các bộ sưu tập khác, tuy nhiên, sẽ được
chú thích nguồn đầy đủ.
4. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi hướng đến mục tiêu sau:
- Khai thác định kiến về giới (giới nữ) trong ca dao Việt Nam
- Thấy được giá trị của ca dao Việt Nam từ góc nhìn văn hóa.



7

- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp trong quá trình tun truyền, giáo dục
nhằm xóa bỏ những định kiến giới lạc hậu cản trở sự phát triển của người phụ nữ
trong xã hội hiện đại.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hố một số vấn đề lí luận về định kiến giới (khái niệm, đặc
điểm…); Khái quát về ca dao Việt Nam.
- Nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của định kiến giới được phản ánh trong
ca dao Việt Nam dưới hình thức nội dung và nghệ thuật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt những vấn đề đặt ra, tôi tiến hành nghiên cứu dựa trên sự vận
dụng, kết hợp những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp văn hóa học: là tập hợp các phương thức, thao tác và biện
pháp được sử dụng để phân tích văn hóa, ở mức độ nhất định, tạo nên đối tượng
của nghiên cứu văn hóa;
- Phương pháp xã hội học: Là phương pháp tiếp cận chính để nhìn nhận
quan niệm xã hội về vị thế, vai trò của người phụ nữ, đồng thời cũng là công cụ
quy chiếu đánh giá, đối sánh, lí giải định kiến về người phụ nữ trong một giai
đoạn lịch sử nhất định.
- Phương pháp liên ngành: Là nghiên cứu liên khoa học, là sự kết hợp các
mơn học, các ngành học với nhau”. Đó là sự tổng hợp tri thức của nhiều lĩnh vực
và nhiều ngành học, là quá trình liên kết, thiết lập các mối quan hệ qua lại, quy
định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa những phương pháp và quy trình của nhiều
chuyên gia khác nhau. Bởi vậy, nghiên cứu liên ngành khác với tiếp cận chuyên
ngành là sử dụng các phương pháp và quy trình của nhiều chuyên ngành một cách
riêng biệt, độc lập.
- Phương pháp nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại: Là phương
pháp có vai trị hết sức quan trọng trong hệ thống lý thuyết và thực tiễn văn học.
Về mặt lý thuyết, nghiên cứu quá trình hình thành, phát triển và sự tương tác của

các thể loại văn học cũng đồng nghĩa với việc nghiên cứu lịch sử văn học. Về phía


8

thực tiễn, thể loại chính là diện mạo, sức sống của một giai đoạn văn học, hay
rộng hơn là một nền văn học
- Phương pháp thống kê: Là một hệ thống các phương pháp (thu thập, tổng
hợp, trình bày số liệu và tính tốn các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu) nhằm
phục vụ cho q trình phân tích, dự đoán và ra quyết định. Thống kê được chia ra
làm 2 lĩnh vực, đó là: thống kê mơ tả và thống kê suy luận
- Các thao tác phân tích, tổng hợp: Là phương pháp nghiên cứu phân tích
và xem xét lại những thành quả thực tiễn trong quá khứ để rút ra kết luận bổ ích
cho thực tiễn và khoa học
7. Đóng góp của khóa luận
- Về mặt lý thuyết, khóa luận góp phần nghiên cứu, hệ thống hóa những cơ
sở lý luận về định kiến giới, những biểu hiện của định kiến giới trong ca dao qua
nội dung và nghệ thuật.
- Bên cạnh đó đề xuất một số kiến nghị đối với hoạt động giáo dục trong
nhà trường, truyền thông trong cộng đồng và xã hội nhằm giảm bớt, tiến tới xóa
bỏ định kiến giới trong đời sống xã hội nước ta, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn
của người phụ nữ trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
8. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung khóa luận
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Định kiến giới trong ca dao Việt Nam - Nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Định kiến giới trong ca dao Việt Nam- Nhìn từ phương diện nghệ
thuật



9

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬNCỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về giới, định kiến, định kiến giới
1.1.1. Thuật ngữ giới, định kiến, định kiến giới
1.1.1.1. Giới
Giới là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu trên nhiều
phương diện. Tùy từng góc độ tiếp cận khác nhau, có rất nhiều định nghĩa khác
nhau về giới:
Cuốn “Những khái niệm cơ bản về giới và vấn đề giới ở Việt Nam” của tác
giả Trần Thị Quế (chủ biên), Trung tâm nghiên cứu về giới, môi trường và phát
triển bền vững, NXB thống kê, Hà Nội, 1999 định nghĩa về giới như sau: “Giới là
các qan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương qan về địa lý xã hội của phụ nữ
và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Nói cách khác, nói đến giới là nói
đến sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới từ góc độ xã hội” [12, tr.15]
Theo các nhà xã hội học, giới là để chỉ sự phân biệt về mặt xã hội và văn
hóa. Các nhà hân học xã hội cũng phân biệt, khái niệm giới là sản phẩm của văn
hóa liên quan đến những quan niệm và hành vi được xem là phù hợp với mỗi giới
tính.
Như vậy, từ những nhận định trên tơi có thể rút ra định nghĩa như sau: Giới
là để chỉ đặc điểm, vị trí, vai trị của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã
hội. Những khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ là không thể thay đổi được.
Những đặc điểm có thể hốn đổi cho nhau giữa nam và nữ được coi là thuộc về
khía cạnh.
1.1.1.2. Định kiến
Theo Từ điển Bách khoa Tồn thư Việt Nam, định kiến là: “Xu thế tâm lí
(tâm thế) tiêu cực đối với một nhóm xã hội, một cá nhân hay một sự vật, là hiện
tượng nhất định có tính chất định hình, khó thay đổi bằng những thơng tin, nhận

thức duy lí. Có các loại định kiến về chính trị, triết học, tơn giáo, văn hố, xã hội,
quan hệ cá nhân... Nguồn gốc định kiến rất phức tạp nhưng thường hình thành


10

trong một hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể nào đó (ảnh hưởng của gia đình, của
nhóm xã hội, kinh nghiệm bản thân, sách vở...), được củng cố, định hình dần và
được biện minh là "hợp lí" trong nội tâm. Những người dễ có định là những người
hay lo âu, dao động, bảo thủ... Định kiến thường gây ra những trở lực lớn trong
giao tiếp xã hội, quan hệ giữa người với người, nhiều khi dẫn đến những mâu
thuẫn xung khắc vơ cớ”.Có thể thấy, định nghĩa trên tiếp cận vấn đề định kiến ở
tầm khái quát, và mang ý nghĩa chung, chứ không đề cập đến một dạng định kiến
cụ thể nào.
Cơng trình “Định kiến, những ghi chú về việc vận hành của những đặc tính
bị xói mịn” của Goffman (1963)- một nhà Xã hội học người Canada, được coi
như là sự khởi nguồn cho hàng loạt những nghiên cứu sau này về bản chất, căn
nguyên và hệ quả của định kiến. Theo Goffman, định kiến là những nhận thức sai
lệch về mặt xã hội về một nhóm cộng đồng cụ thể nào đó, là “thuộc tính làm tổn
hại một cách sâu sắc đến cộng đồng chịu định kiến, khiến họ bị chuyển dịch từ 1
nhóm bình thường sang nhóm kém vị thế và ít đáng tin hơn”
Dưới cái nhìn liên ngành, Ainlay và các cộng sự (1986) cho rằng việc hình
thành định kiến khơng nhất thiết chỉ diễn ra một chiều, giữa những cộng đồng có
quyền lực đối với những người có ít quyền lực hơn mà q trình này mang tính
đa chiều. Mỗi cộng đồng đều có định kiến về cộng đồng khác bất kể sự khác biệt
về địa vị xã hội, kinh tế, chính trị. Điều này có nghĩa là khơng chỉ “chúng ta” có
định kiến về “họ” mà cịn chịu định kiến từ chính “họ”. Quan điểm này được 2
anh em nhà Feagin (1996) phát triển và phân tích khi bàn về mối quan hệ chủng
tộc và tộc người. Tuy nhiên, trên thực tế, khi nói về vấn đề kì thị, cả trên bình diện
học thuật và thực tiến, khuynh hướng chủ đạo vẫn thường được hiểu theo chiều

“chúng ta” và “họ”.
Như vậy định kiến là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành, trước
khi nhận thức các dữ kiện có liên quan hoặc biết rõ những thông tin liên quan của
một sự kiện cụ thể. Từ “định kiến” thường được sử dụng để miêu tả những nếp
suy nghĩ, quan điểm thường không thuận lợi, đánh giá chủ quan đối với người
hoặc một nhóm người, bởi vì giới tính, quan điểm chính trị, quan hệ xã hội, tuổi


11

tác, tôn giáo, chủng tộc/dân tộc, ngôn ngữ, quốc tịch, hình dáng bên ngồi hay
đặc điểm cá nhân khác, từ đó dẫn đền việc phân biệt đối xử. Trong trường hợp
này, định kiến có thể đề cập đến một đánh giá tích cực hay tiêu cực của một người
dựa trên nhận thức của họ trong tư cách thành viên một nhóm hay những quan hệ
xã hội của họ, do đó có thể hình thành từ những niềm tin vơ căn cứ, và có thể bao
gồm "bất kỳ thái độ khơng hợp lý và bất thường chống lại những ảnh hưởng hợp
lý", Gordon Allport định nghĩa định kiến như là một "cảm giác, thuận lợi hay bất
lợi, đối với một người hay một vật, trước khi tiếp cận, hoặc không dựa trên kinh
nghiệm thực tế".
Thường là trong ngôn ngữ dân gian, định kiến và thành kiến thường đi
chung với nhau, và đôi khi cùng được sử dụng với ý nghĩa như nhau. Tuy nhiên
có thể phân biệt: định kiến là ý nghĩ cố định về người hay vật, xuất phát từ cách
nhìn sai lệch hoặc dựa trên cảm tính và thường xuyên có chiều hướng đánh giá
thấp; thành kiến là những định kiến (nghĩa là cái "ý kiến" đã "thành" sẵn rồi) xuất
hiện trong thời gian dài, thành nếp suy nghĩ cố chấp.
Từ đây ta có thể rút ra khái niện về định kiến đối với người phụ nữ như sau:
Định kiến xuất phát từ những suy nghĩ, cái nhìn sai lệch hoặc dựa trên cảm tính
và thường xun có chiều hướng đánh giá thấp. Định kiến của một người có thể
hình thành tiệm tiến từ mơi trường giáo dục, mơi trường sống và sinh hoạt và
quan hệ xã hội của người đó.

1.1.1.3. Định kiến giới
Có thể nói, định kiến xã hội tạo nên một sự phân biệt xã hội. Đó là sự thay
đổi hình ảnh của chính mình hoặc làm méo mó, biến dạng về bản thân khiến chủ
thể mang định kiến có sự đánh giá lạc hướng về mình, tạo nên một sự phân biệt
ứng xử với người khác; hoặc đánh giá những phẩm chất hay ứng xử của người
khác tùy theo những mong đợi của chúng ta và tạo ra sự biện minh xã hội (tạo cho
chủ thể mang định kiến sự yên tâm và giúp họ tự bảo tồn, cũng như nâng cao
được giá trị của mình).
Định kiến giới cũng vậy, nó có thể làm phụ nữ hay nam giới đánh giá khơng
đúng hình ảnh bản thân mình cũng như đánh giá sai người khác. Định kiến giới


12

làm đơn giản hóa q trình nhận thức của con người về giới khác, ngăn cản hiểu
biết chính xác những người khơng cùng giới tính với mình. Có thể hiểu một cách
nôm na, định kiến giới là định kiến xã hội dựa trên cơ sở giới tính (định kiến của
xã hội đối với nam giới hoặc nữ giới). Trong một xã hội vẫn cịn tồn tại bất bình
đẳng đối với phụ nữ thì định kiến giới được hiểu ngầm ẩn là định kiến đối với phụ
nữ.Sau đây là một số khái niệm về định kiến giới được đưa ra trong các tài liệu về
giới.
- Định kiến giới là suy nghĩ mà mọi người có về những gì phụ nữ và nam
giới có khả năng và hoạt động mà họ có thể làm.
- Định kiến giới là tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, cộng đồng
cụ thể coi là thuộc tính của phụ nữ hoặc nam giới (ví dụ: nội trợ không phải việc
của đàn ông). Các định kiến giới thường không phản ánh đúng khả năng thực tế
của từng giới mà thường giới hạn những gì mà xã hội cho phép hoặc mong đợi
các cá nhân thực hiện.
- Định kiến giới là các giả định hay lòng tin được thể hiện mà khơng có
ngun nhân hay cơng lý hay nói chung là khơng có lợi và có thể dẫn đến gây hại

có thể chất lẫn tâm lý cho phụ nữ và nam giới.
- Định kiến giới là việc nhìn nhận khơng đúng về khả năng của nam giới
hoặc nữ giới; về tính cách mà nam hoặc nữ nên có; về loại hình hoạt động, nghề
nghiệp mà nam hoặc nữ có thể làm hoặc khơng thể làm.
Định kiến giới chủ yếu tác động tiêu cực tới cơ hội phát triển, thăng tiến
của nữ vì các đa phần các định kiến này là các định kiến tiêu cực đối với nữ.
Những định kiến này cũng gây ra khơng ít thiệt thòi cho phụ nữ về tinh thần, vật
chất và còn là nguyên nhân tác động tới tình trạng bạo lực gia đình. Tuy nhiên,
định kiến giới trong một số trường hợp cũng tác động tiêu cực đến nam giới như
định kiến coi nghề làm giáo viên mầm non là nghề của phụ nữ; nghề làm hộ lý
trong các bệnh viện là nghề của phụ nữ…đã cản trở và thu hẹp khả năng lựa chọn
nghề nghiệp của cả nam giới và phụ nữ. Và nó được thể hiện rõ trong ca dao Việt
Nam


13

Như vậy, định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu
cực về đặc điểm, vị trí, vai trị và năng lực của nam hoặc nữ (nhận thức, thái độ
và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về khả năng của nam và nữ, về vị trí công tác mà
nam, nữ nên đảm nhận trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, về nghề nghiệp mà
phụ nữ và nam giới nên làm, về tính cách mà phụ nữ và nam giới nên có…). Các
định kiến giới thường là không đúng, không phản ánh đúng khả năng thực tế của
từng người và thường giới hạn những gì mà xã hội cho phép hoặc mong đợi các
cá nhân thực hiện. Định kiến giới có thể khác nhau ở các vùng khác nhau, các
nước khác nhau phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống văn hoá,
phong tục, tập quán...
1.1.2. Đặc điểm và biểu hiện của định kiến giới
1.1.2.1. Đặc điểm của định kiến giới
Thứ nhất, định kiến giới được xây dựng dựa trên một số khái quát hóa về

con người và dùng để đánh giá về nam hoặc nữ giới. Mọi hành vi của con người
vô cùng phức tạp và khác nhau trong từng trường hợp nên sự khái quát hóa của ta
về con người dựa trên cơ sở giới tính của người đó. Cho nên khi dùng định kiến
giới để đánh giá về tính cách, khả năng của con người chỉ dựa trên cơ sở giới tính
thì có nhiều khả năng đánh giá đó là sai lầm.
Thứ hai, trong giao tiếp định kiến giới thường xuyên xuất hiện một cách tự
động, ngẫu nhiên mà nhiều khi chúng ta khơng kiểm sốt được. Ngay cả khi ý
thức của chúng ta cũng có xu hướng biện minh cho định kiến của mình, đặc biệt
là khi định kiến đó lại nhằm vào phụ nữ. Từ định kiến giới chúng ta có thể đánh
giá về một cá nhân dựa vào nhận biết giới tính của họ mà khơng cần tập trung đến
những khía cạnh khác của họ. Về lâu dài chúng ta dễ dàng chấp nhận những quan
điểm đó và coi rằng đó là cơ sở chắc chắn trên thực tế vì chúng ta khơng nhận
thức rằng định kiến đã góp phần tạo ra các cơ sở đó.
Thứ ba, con người thường phản ứng với người đối thoại một cách khơng
chủ ý. Vì định kiến giới là một kiểu thái độ nên không phải định kiến lúc nào được
phản ánh cơng khai trong hành động. Có nhiều trường hợp cá nhân mang định
kiến, họ nhận ra rằng mình khơng thể biểu lộ nó một cách trực tiếp, do đó có nhiều


14

lý do ngăn cản họ thực hiện điều này một cách rộng rãi. Ví dụ như các luật lệ, áp
lực xã hội, nỗi sợ hãi bị người khác đánh giá về cá nhân. Những “rào cản” này
làm cho khơng ít người phụ nữ mang định kiến và họ chỉ dám bày tỏ thái độ của
mình mà khơng thể hiện hành vi định kiến đối với đối tượng họ muốn chống đối.
Có thể thấy, định kiến giới được xem là một trong những biểu hiện của bất
bình đẳng giới. Mặt khác về chức năng định kiến giới có chức năng xác lập và
duy trì những bất bình đẳng giới trong thực tế. Định kiến giới ban đầu có thể xuất
phát từ một nhận xét hoặc quan niệm về một sự việc, hiện tượng thực tế nào đó.
Định kiến giới trở thành sâu sắc hơn khi hiện tượng thực tế đã biến đổi nhưng

những niềm tin, khuôn mẫu về giới vẫn giữ nguyên, trở thành những quan niệm
hay chuẩn mực cứng nhắc.
1.1.2.2. Những hình thức biểu hiện của định kiến giới
Trong kho tàng văn học dân gian, phía sau những giá trị văn hóa là những
định kiến giới. Những giá trị văn hóa dân tộc tốt đẹp thường được lưu truyền lại
trong văn học dân gian, dưới các hình thức như ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện
cổ tích...Đằng sau những giá trị văn hóa tốt đẹp này vẫn chứa đựng những khuôn
mẫu giới và định kiến giới. Trong kho tàng ca dao Việt Nam có nhiều hình mẫu
nam giới, trong đó phụ nữ bị nhắc đến với nhiều nét tính xấu hơn nam giới như:
lẳng lơ, hay ăn vụng, không chồng mà chửa, lười nhác, không biết đẻ con, không
hiếu thuận với cha mẹ chồng...
Định kiến giới thể hiện trong mối quan hệ gia đình. Trong các câu ca dao
người ta thường ca ngợi vai trò người phụ nữ trong gia đình như biết làm “cơm
dẻo, canh ngọt”, biết chăm sóc chồng con chu tồn, lấy chồng thì phải theo
chồng…mà hiếm thấy hình ảnh người phụ nữ biết phấn đấu để đạt thành đạt ngồi
xã hội. Cũng như vậy, hình mẫu người đàn ông thấy trong các câu ca dao thường
là người biết gánh vác các việc lớn trong gia đình, có chí tiến thủ…mà hiếm thấy
người chồng biết chia sẻ với vợ trong công việc và trong các quyết định nội trợ ra
đình, nói về người phụ nữ, người ta hay nghĩ tới những “thân phận” nhỏ bé, bên
lề bởi Việt Nam là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc
vốn “trọng nam khinh nữ”, tồn tại những quan niệm bất bình đẳng như: “nam tơn


15

nữ ti” (đàn ông là trọng, đàn bà thấp kém), “nam ngoại nữ nội” (đàn ông gánh vác
những trọng trách lớn ngồi xã hội cịn nhiệm vụ của đàn bà chỉ lo việc nhà), “nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vơ” (một trai vẫn là có, mười gái vẫn là khơng)… Hình
ảnh người phụ nữ do vậy thường gắn với các cụm từ “kiếp đàn bà”, “phận đàn
bà”. Trong ca dao, khơng ít câu nói lên kiếp người, thân phận mong manh, phụ

thuộc của chị em phụ nữ
Xuất phát từ nền tảng định kiến giới là phụ nữ có thiên hướng về gia đình,
nam giới có thiên hướng về cơng việc và sự nghiệp, vì vậy có sự chênh lệch lớn
về thời gian làm việc và nghỉ ngơi của nam giới và phụ nữ trong gia đình. Các
cơng việc gia đình của người phụ nữ cũng bị xé lẻ, tiêu tốn thời gian của họ trong
khi nam giới làm việc được tập trung hơn và có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Gánh
nặng ảnh hưởng đến sức khỏe, thể chất của người phụ nữ. Đây là một điểm quan
trọng có nguồn gốc từ định kiến giới. Ở một khía cạnh khác, việc người phụ nữ
phải đảm nhần hầu hết các cơng việc trong gia đình sẽ hạn chế về mặt nhận thức
xã hội. Để lý giải hiện tượng trên, có thể chỉ ra tối thiểu ba lý do khiến người phụ
nữ tham gia làm cơng việc gia đình nhiều hơn:
- Thứ nhất, áp lực từ định kiến xã hội cho rằng “không phải việc của đàn
ông” hoặc quan niệm một người đàn ông làm các công việc nội trợ sẽ bị “mất đi
khí chất nam nhi”.
- Thứ hai, bản thân nhiều người phụ nữ cũng coi đó là “việc của nữ giới”
và khơng u cầu, thậm chí khơng đánh giá cao sự tham gia của nam giới.
- Thứ ba, nhiều trường hợp vượt qua được áp lực từ phía xã hội hoặc phía
người vợ thì nam giới khơng cịn kĩ năng làm các cơng việc trong gia đình do họ
khơng được dạy và tập luyện từ nhỏ.
Trước những lý do này, bản thân người phụ nữ thường bị đẩy xa khỏi công
việc xã hội. Khiến họ dần dần đi đến chỗ thực sự tin rằng cơng việc gia đình là
việc của phụ nữ.
Định kiến giới biểu hiện trong mối quan hệ xã hội. Định kiến xã hội về vai
trò của giới đã bó hẹp phạm vi hoạt động của phụ nữ trong khn khổ gia đình và
ngăn cản phụ nữ được tự do tham gia v thị trường lao động, mặt khác định kiến


16

giới nhìn nhận phụ nữ như những lao động khơng có kỹ năng, thiếu quyết đốn

và thiếu tham vọng. Trong khi nam giới là người có tham vọng, lại mạnh mẽ về
cả thể chất và trình độ tay nghề. Những định kiến này bắt nguồn từ việc dùng
những phẩm chất ở nam giới để áp đặt hoặc đòi hỏi đối với nữ giới mà khơng tính
đến thực tế hoặc xuất phát điểm của phụ nữ. Vì vậy, phụ nữ thường gặp nhiều
bất lợi hơn trong công việc xã hội. Số phận của người phụ nữ trong xã hội còn bọt
bèo, lênh đênh, vô định, họ không biết số phận của mình rồi sẽ ra sao, đi đâu, về
đâu khi mang theo mình một địa vị thấp bé, hèn mọn trong xã hội. chúng ta có thể
thấy được vẻ đẹp vẹn toàn và cuộc sống đầy bất hạnh của người phụ nữ ngày xưa.
Họ mượn ca dao để nói lên tiếng nói từ trong tâm khảm của mình. Hình tượng
người phụ nữ ngày xưa thật tuyệt vời, tứ đức vẹn toàn, vừa đẹp người, vửa đẹp
nết với những phẩm chất vô cùng đáng quý. Qua những câu ca ấy, chúng ta cảm
nhận được cả tiếng nói phê phán, lên án sự bất công, những hủ tục lạc hậu của xã
hội lúc bấy giờ đã đè nặng lên số phận người phụ nữ để họ phải chịu bao nhiêu
trái ngang, cay đắng.
Định kiến giới thể hiện trong quan hệ hôn nhân. Giai cấp phong kiến thống
trị Việt Nam dung triết lý Khổng mạnh, lấy luận lý Khổng Mạnh làm những sợi
dây tinh thần để trói con người ta về tình cảm. Đối với thanh niên, luân lý Khổng
Mạnh lại càng nghiệt ngã. Tuổi thanh niên là tuổi tha thiết yêu đương, nhưng đối
với tình yêu nam nữ, kỷ cương phong kiến rất độc đốn. Việc hơn nhân, việc lập
gia đình của thanh niên nam nữ thời xưa hầu hết là do cha mẹ định đoạt. Dưới chế
độ phong kiến, quyền của người cha, quyền của người làm chồng làm cho phụ nữ
rất khổ cực. Người phụ nữ khơng cịn biết gì là tự do, họ bị khn vào “tam tong,
tứ đức”. Vì số phận do người khác định đoạt, không phải tự ý mình quyết, nên
thời xưa đã có trường hợp người con gái khơng biết mặt người mình lấy, do đó có
câu ca dao tuy là trào lộng nhưng cũng rất chua xót Và thường thì trong tình u
hay trong hơn nhân thì người con gái bao giờ cũng là người bị động. Vì người xua
cho rằng đó là phẩm giá của người con gái nên ít ai thấy người con gái dám tỏ
tình hay mở lời trước một chàng trai.



17

1.2. Nho giáo và vấn đề “định kiến” trong cái nhìn về giới nữ
1.2.1. Nho giáo và ảnh hưởng tích cực của Nho giáo trong xã hội Việt Nam
Ở nước ta, Nho giáo đã có lịch sử rất lâu đời. Từ khi nước ta bị xâm lược
và sáp nhập vào Trung Quốc, từ đời Hán (206 trước Công nguyên đến 220 sau
Công nguyên), Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam. Sĩ Nhiếp (thế kỷ thứ II
sau công nguyên) đã được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho học ở
nước ta. Trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo cùng với
Phật giáo và Đạo giáo có vai trị quan trọng trong đời sống tinh thần nước ta. Cuối
thế kỷ XIV, Nho giáo giành được ưu thế so với Phật giáo, chi phối đời sống tinh
thần nước ta.
Tiếp nhận dịng chảy văn hóa của nhân loại, Nho giáo vào Việt Nam như
một tất yếu của lịch sử. Trong suốt q trình tồn tại, nó đã có ảnh hưởng lớn đến
mọi mặt của đời sống xã hội nước ta, trong đó, đạo đức Nho giáo có ảnh hưởng
đến đạo đức người phụ nữ Việt Nam nói chung, người phụ nữ ở nơng thơn nói
riêng ở cả hai chiều cạnh tích cực và tiêu cực. Nho giáo được du nhập vào nước
ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Trong khoảng thời gian khơng ngắn
đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo
giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trị chính yếu, nhưng nhìn chung càng về
sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại
phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong
kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở
nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo
đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn cịn.
Đạo đức Nho giáo tác động đến người phụ nữ Việt Nam, xét từ những yếu
tố tích cực, nhân văn, góp phần giáo dục lịng nhân ái, vị tha, bao dung, trọng tình
nghĩa, điều này thể hiện trong các quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người;
góp phần giáo dục ý thức tơn trọng kỷ cương, nền nếp gia đình, củng cố tinh thần
trách nhiệm với gia đình, làng xóm, cộng đồng và để ổn định trật tự xã hội… Đạo

đức Nho giáo góp phần giáo dục người phụ nữ hồn thiện vẻ đẹp hình thức và nội


18

dung với công, dung, ngôn, hạnh để đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đức
Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan
dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con
người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét
theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc
duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo
quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong
gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người
nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác
định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng
trong các quan hệ xã hội. Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu
dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những
người có chức, quyền). Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những
người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì khơng thể cai trị được nhân dân.
Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân.
Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng
vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân”
để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc
trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức.
Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của
các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người
làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa
lịng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của
vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người
cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin

u, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để
dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức,
bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm
quyền phải ln “tu, tề, trị, bình”.


19

1.2.2. Từ mặt trái đến cái nhìn mang tính định kiến về giới nữ trong xã hội Việt
1.2.2.1. Biểu hiện của cái nhìn định kiến đối với giới nữ trong xã hội Việt xưa.
Nho giáo trở thành một hệ tư tưởng thống trị một thời gian dài trong gia
đình phong kiến. Tuy nhiên, những luật định khá cứng nhắc của nó vơ hình chung
đã đẩy người phụ nữ vào bức tường khơng lối thốt. Từ xưa đến nay người đứng
đầu gia đình là người có trách nhiệm lớn lao nhất trong sự duy trì, phát triển gia
đình. Trong gia đình nhiều thế hệ, vị trí người gia trưởng thuộc về người cụ, người
ông hay người cha thuộc ngành trưởng. Tôn ti trật tự gia đình này tuân thủ các
quy định về trưởng - thứ, nam - nữ, nội - ngoại hết sức chặt chẽ tạo nên chế độ
gia trưởng tông tộc bền vững. Chính vì vậy người đứng đầu gia đình phải có đạo
đức tốt. Nho giáo coi trọng nguồn gốc con người, coi gia đình gắn chặt với họ
hàng, coi tuyệt tự, quên mất tổ tiên là tội lỗi với tổ tiên. Do đó, việc ghi chép gia
phả, cúng tế tổ tiên, họp mặt họ tộc... là việc đặc biệt quan trọng, không được bỏ
bễ.
Nho giáo đề cao chữ Hiếu, đề cao lễ nghĩa, tiết hạnh, bảo vệ gia đình, gia
tộc, tơng tộc. Con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ mất thì phải chơn cất chu
đáo, cư tang để đền đáp ân nghĩa. Trong hôn nhân, Nho giáo đề cao tình nghĩa vợ
chồng, khơng cho phép ngoại tình sau khi kết hơn. Người vợ phải biết Tam tịng,
tứ đức, ngược lại người chồng cũng khơng được lạm dụng uy quyền để hành hạ
vợ (bởi như thế là hành vi "Bất nhân, bất nghĩa").
Nho giáo đưa ra chuẩn mực về người phụ nữ, người phụ nữ trước hết phải
hiểu và làm theo “tam tòng”: “Tại gia tòng phu, xuất giá tòng phu, Phu tử tòng

tử”. Nghĩa là người phụ nữ khi cịn ở nhà thì phải nghe theo cha, người cha quyết
định vận mệnh và hạnh phúc của con gái, cịn người mẹ ln giữ vai trị thứ yếu,
bởi chính họ cũng phải phụ thuộc vào chồng. Chồng chết thì phải theo con, phải
ở vậy “tịng” con suốt đời, không được đi bước nữa. Suốt đời phải ghi nhớ đạo lý
“tam tịng” nên người phụ nữ ln là người phụ thuộc vào nam giới, bất kể người
đó là cha, là chồng hay là con trai mình. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ với những
tàn dư của nó vẫn còn tồn tại dai dẳng, biểu hiện trong cách nghĩ và hành vi lối


×