UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƢƠNG
LƢU KIỀU PHƢƠNG DUNG
ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
THOẠT KỲ THỦY CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
PHÚ THỌ, 2018
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƢƠNG
LƢU KIỀU PHƢƠNG DUNG
ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT
THOẠT KỲ THỦY CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Quách Thị Bình Thọ
PHÚ THỌ, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tơi tự tìm hiểu, phân tích
một cách trung thực, khách quan. Các kết quả này chưa từng được công bố
trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả
Lƣu Kiều Phƣơng Dung
ii
LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin trân trọng cảm ơn Ban Giám Hiệu, Trung tâm đào
tạo sau đại học, các Khoa, Phòng của Trường Đại học Hùng Vương đã tạo
điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Đặc biệt tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cơ giáo TS Qch Thị Bình Thọ đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng tác giả xin bày tỏ lịng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đồng
nghiệp và các học viên cùng lớp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình
thực hiện đề tài nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện luận văn này, bản thân tôi đã rất cố gắng
song không tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong những ý kiến đóng
góp của tất cả các thầy, cơ giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả
Lƣu Kiều Phƣơng Dung
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .............................................................. 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 6
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................... 6
7. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................... 7
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT .................................................................... 8
1.1. Điểm nhìn và điểm nhìn trần thuật.............................................................. 8
1.1.1. Những quan niệm về điểm nhìn ............................................................... 8
1.1.2. Quan niệm về điểm nhìn trần thuật của luận văn................................... 14
1.2. Ngôn ngữ kể chuyện ................................................................................. 21
1.2.1. Phương thức kể chuyện (PTKC) ............................................................ 21
1.2.2. Ngôn ngữ người kể chuyện .................................................................... 22
1.2.3. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................. 23
1.3. Vấn đề lời nói nghệ thuật .......................................................................... 25
1.3.1. Lời nói nghệ thuật và ngơn ngữ nghệ thuật ........................................... 25
1.3.2. Phạm vi hoạt động và chức năng cơ bản của lời nói nghệ thuật ............ 25
1.3.3. Các thành phần và đặc trưng của lời nói nghệ thuật trong tiểu thuyết .. 26
1.4. Mối quan hệ giữa điểm nhìn trần thuật với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ ở
các phương thức kể và kết cấu lời nói nghệ thuật ............................................ 28
1.4.1. Điểm nhìn và đặc điểm sử dụng ngơn ngữ ở các phương thức kể......... 29
1.4.2. Điểm nhìn và kết cấu lời nói nghệ thuật ................................................ 30
Tiểu kết chương 1............................................................................................. 31
iv
Chƣơng 2. CÁC LOẠI ĐIỂM NHÌN TRONG THOẠT KỲ THỦY CỦA
NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG .......................................................................... 32
2.1. Điểm nhìn người kể chuyện ...................................................................... 32
2.1.1. Người kể chuyện ngơi thứ ba: điểm nhìn khách quan về thế giới ......... 32
2.1.2. Sự đan cài các điểm nhìn qua người kể chuyện ..................................... 38
2.2. Điểm nhìn nhân vật ................................................................................... 40
2.2.1. Điểm nhìn bên trong............................................................................... 40
2.2.2. Điểm nhìn bên ngồi .............................................................................. 42
2.2.3. Sự vận động của các điểm nhìn trần thuật ............................................. 43
2.3. Những chiều kích không - thời gian trong Thoạt kỳ thủy ......................... 49
2.3.1. Khơng gian nghệ thuật và điểm nhìn khơng gian .................................. 50
2.3.2. Điểm nhìn thời gian nghệ thuật .............................................................. 52
2.3.3. Sự đan xen của các điểm nhìn khơng - thời gian ................................... 54
Tiểu kết chương 2............................................................................................. 55
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRONG THOẠT
KỲ THỦY CỦA NGUYỄN BÌNH PHƢƠNG .............................................. 56
3.1. Phương thức kể chuyện trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy .......................... 56
3.2. Các thành phần lời nói nghệ thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy .......... 61
3.3. Giọng điệu kể chuyện trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy ............................. 66
3.4. Đặc điểm sử dụng ngôn từ ở các phương thức kể trong Thoạt kỳ thủy .... 68
3.5. Mối quan hệ tương tác giữa các thành phần trong cấu trúc lời nói nghệ
thuật với điểm nhìn, giọng điệu trong Thoạt kỳ thủy ....................................... 70
Tiểu kết chương 3............................................................................................. 72
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 75
v
BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ĐN: Điểm nhìn
NKC: Người kể chuyện
NTĐH: Người tiêu điểm hóa
NTĐTĐH: Nhân tố được tiêu điểm hóa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thực tế, mọi lời nói đều biểu hiện điểm nhìn. Điểm nhìn là một vấn
đề quan trọng trong nói năng giao tiếp hàng ngày cũng như trong giao tiếp nghệ
thuật, đặc biệt là trong các tác phẩm văn chương. Nó thể hiện khả năng trình bày
và kĩ thuật kể chuyện của nhà văn. Điểm nhìn được biểu hiện qua ngơn ngữ,
cách sử dụng ngơn ngữ trong tác phẩm, và có vai trò quan trọng trong đối với
hành vi kể chuyện, phương thức kể chuyện, sự tiếp nhận của người nghe – người
đọc. Cho nên, điểm nhìn sẽ giúp cho việc hiểu và lý giải một phát ngôn, một văn
bản tự sự được thấu đáo. Điểm nhìn dễ cảm nhận nhưng lý thuyết về điểm nhìn
trong văn học và trong ngơn ngữ học lại là một vấn đề phức tạp, khó đưa ra định
nghĩa và phân định một cách rạch ròi.
Xác định rõ khái niệm điểm nhìn thơng qua những biểu hiện về mặt ngơn
từ chính là xác định rõ về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ ở mọi loại truyện kể lại là sự
phản ánh đặc điểm của điểm nhìn trong mỗi loại truyện kể đó. Trong sự vận
động khơng ngừng của tiểu thuyết, điểm nhìn trần thuật là phương diện bộc lộ
sự đổi mới của tư tưởng nhà văn trong tác phẩm. Bởi tiểu thuyết được xem là thể
loại ưu việt nhất trong cách khám phá hiện thực đời sống ở nhiều mặt, nhiều
tầng bậc. Vì thế, tiểu thuyết chính là mảnh đất nghệ thuật mà nhà văn thể hiện rõ
nét điểm nhìn thơng qua tác phẩm.
Nguyễn Bình Phương là một trong những cây bút có nhiều ý thức cách tân
trong sáng tạo tiểu thuyết. Ở sáng tác của nhà văn này, người ta nhận thấy sự
vận động mạnh mẽ của vô thức, của ý thức bản ngã cũng như ý thức nghiêm
ngặt về cuộc sống. Tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy là sự thể nghiệm ban đầu nhưng
đã tạo được nhiều dấu ấn trong bối cảnh chung của tiểu thuyết Việt Nam thời kì
đổi mới. Điểm nổi bật trong tiểu thuyết này là tác giả đã thiết lập được những
điểm nhìn đa dạng, khơng đơn nhất trong cùng một sự kiện ở những vị trí khác
2
nhau, góp phần quan trọng vào nghệ thuật trần thuật, đặc biệt là cách tân trong
cách viết. Vấn đề này đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song chủ yếu
tập trung mơ tả đặc điểm các điểm nhìn mà chưa gắn nó với phương thức trần
thuật, đặc biệt chưa lí giải nguyên lí của việc tổ chức điểm nhìn ấy. Do vậy khi
nghiên cứu điểm nhìn trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình
Phương, khơng chỉ cho ta thấy rõ hơn những cố gắng cách tân nghệ thuật của tác
giả, mà cịn nhìn nhận sự vận động của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương nói
riêng, như một trường hợp để nhận diện khái quát sự vận động của tiểu thuyết
Việt Nam thời kì sau Đổi mới.
Nghiên cứu Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của
Nguyễn Bình Phương chúng tơi cũng hướng tới thao tác nghiên cứu sâu một
chủ đề, nhìn nhận nó trong mối tương quan với ý thức sáng tạo và quan niệm
thẩm mĩ của nhà văn; nhìn nhận tác phẩm trong mối quan hệ với đời sống, văn
hóa Việt vốn đang có nhiều biến động phức tạp.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu điểm nhìn trần thuật trong ngơn ngữ học và văn học
trên thế giới chỉ thực sự bắt đầu từ những năm đầu của thế kỷ XX trong những
cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết. Chẳng hạn như M.Bakhtin với Những vấn
đề thi pháp tiểu thuyết Doxtoiepxki [4] và cuốn Những vấn đề Lí luận và thi
pháp tiểu thuyết [3]; Ju.Lotman với Cấu trúc văn bản nghệ thuật [19] … Những
cơng trình này có đề cập đến điểm nhìn trần thuật như là một vấn đề của thi pháp
học, tuy nhiên khái niệm điểm nhìn chưa được xác định một cách thống nhất.
Ở Việt Nam, có một số cơng trình đề cập đến điểm nhìn trần thuật nhưng
mới chỉ nghiên cứu ở mức độ khái quát, khái niệm điểm nhìn trần thuật chưa
thực sự cụ thể và nhất quán. Trong cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 [6] của
tác giả Đỗ Hữu Châu; cuốn Logic và tiếng việt [7] của tác giả Nguyễn Đức Dân
đã đưa ra những kiến giải quan trọng về ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp. Đề
cập đến điểm nhìn trong truyện kể và văn xi tự sự từ góc độ thi pháp có cuốn
3
Những vấn đề thi pháp của truyện [14] của tác giả Nguyễn Thái Hịa; cuốn Giáo
trình dẫn luận thi pháp học [27] của tác giả Trần Đình Sử…Các cơng trình này
giúp cho người viết có những định hướng trong việc tìm hiểu và thực hiện đề tài.
Những năm gần đây, các nhà phê bình, nghiên cứu rất quan tâm đến
Nguyễn Bình Phương và các tác phẩm của ơng. Nhưng với nhiều độc giả thì cái
tên Nguyễn Bình Phương vẫn cịn xa lạ. Nguyễn Bình Phương sinh năm 1965, ở
Thái Nguyên. Ông học trường viết văn Nguyễn Du năm 1989 và hiện nay đang
là biên tập viên NXB Quân Đội. Có thể nói, Nguyễn Bình Phương được coi là
nhà văn, nhà thơ để lại nhiều dấu ấn đặc biệt trong văn học Việt Nam đương đại.
Sáng tác từ khi còn rất trẻ, với cả hai thể loại tiểu thuyết và thơ, tác giả đều có
những đóng góp riêng rất đáng ghi nhận. Trình làng từ năm 1991 với tiểu thuyết
Bả giời, Nguyễn Bình Phương khiến cơng chúng khơng ngừng ngẫm ngợi về
nhân sinh thế thái. Đặc biệt là Những đứa trẻ chết già (1994), Người đi vắng
(1999), Trí nhớ suy tàn (2000) và gần đây nhất là Thoạt kỳ thủy (2005), Ngồi
(2006). Ngồi ra, nhiều truyện ngắn cịn được tác giả đăng trên các báo, các
trang web văn học. Những thử nghiệm mới lạ về mặt hình thức, sự trộn hịa
nhiều luồng tư duy mới trong các tác phẩm đã xác định một phong cách riêng
biệt của Nguyễn Bình Phương.
Đã có rất nhiều nhà phê bình nghiên cứu quan tâm đến tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương. Các nghiên cứu có thể là chuyên luận, luận văn, bài
báo… với phạm vi quan tâm khá rộng: về một kiểu tư duy mới (Một lối đi riêng
của Nguyễn Bình Phương - Hồng Ngun Vũ; Tiểu thuyết hiện đại - Sự hội ngộ
các tư duy tiểu thuyết hiện đại trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương - Nguyễn
Phước Bảo Nhân); về các đặc trưng nghệ thuật như yếu tố kì ảo, nghệ thuật tự
sự (tác giả Ngọc Anh với Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương; Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương - Hồng
Thị Thùy Linh)…
4
Riêng Thoạt kỳ thủy - trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều cơng trình
khoa học. Tác giả Thụy Khê (Thoạt kỳ thủy trong vùng đất Cậm Cam hoang vu
của Nguyễn Bình Phương) đã đề cập đến những đặc sắc cả nội dung lẫn hình
thức trong tác phẩm. Tác giả nhấn mạnh yếu tố “khó đọc”, “khác thường” ở
hành văn và cấu trúc truyện, đồng thời cho rằng đây là “một bài thơ đẫm máu và
nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn hoặc, viết về hành trình của một cộng
đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn khơng biết mình đang đi dần đến toàn phần
điên loạn” [43].
Đoàn Cầm Thi trong Sáng tạo văn học: giữa mơ và điên (Đọc Thoạt kỳ thủy
của Nguyễn Bình Phương) quan tâm đến đời sống bản năng vơ thức trong tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương. Tác giả cho rằng vô thức được “xem xét trong
mối quan hệ với điên và mộng”, diễn tả bằng lối hành văn chậm, ngắn, thể hiện
tư duy khám phá, chiêm nghiệm của nhà văn.
Tương tự, Nguyễn Chí Hoan trong bài Cấp độ hiện thực và sự hão huyền
của ý thức trong Thoạt kỳ thủy đã khẳng định “Nguyễn Bình Phương là nhà văn
Việt Nam đã đẩy cuộc thăm dò vơ thức đi xa nhất” [40]. Đồn Ánh Dương khi
viết Nguyễn Bình Phương - Lục đầu giang tiểu thuyết nhấn mạnh Thoạt kỳ thủy
là tác phẩm hội tụ trọn vẹn những ưu điểm của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương. Cịn có các bài viết, báo cáo khoa học khác về Thoạt kỳ thủy, coi tác
phẩm này là hành trình khám phá, đi tìm bản thể, thức tỉnh con người khi họ
đang mê muội trong “chốn ải hoang vu bất tận của nhân quan” (Phạm Tấn Xuân
Cao, Thoạt kỳ thủy dưới góc nhìn tâm thức hiện sinh, Tạp chí Sơng Hương - số
307…).
Như vậy, qua cái nhìn tổng quan cho thấy, Tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương đã tạo được những ấn tượng mạnh đối với bạn đọc, có nhiều đóng góp
cho tiến trình đổi mới tiểu thuyết Việt Nam. Những nghiên cứu đã có chủ yếu
hướng tới phân tích, đánh giá những cách tân trong nghệ thuật Nguyễn Bình
Phương. Vấn đề điểm nhìn trần thuật cũng đã được nghiên cứu, song mới dừng
5
lại ở việc nhận diện điểm nhìn hoặc phân tích một số biểu hiện của điểm nhìn
trong Thoạt kỳ thủy. Tuy nhiên, như đã nói, việc hệ thống hóa một cách sáng rõ
về các vấn đề liên quan đến điểm nhìn trong tiểu thuyết này như sự đa dạng hóa
các loại điểm nhìn đem lại ý nghĩa gì cho tác phẩm? Mối quan hệ và sự vận
động của các loại điểm nhìn được biểu hiện như thế nào? Điểm nhìn có ý nghĩa
như thế nào đối với nghệ thuật trần thuật của truyện…? Nghiên cứu đề tài Điểm
nhìn trần thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, chúng tơi hướng
tới giải đáp các vấn đề nêu trên, đồng thời qua đó góp thêm vào nghiên cứu
Nguyễn Bình Phương cũng như tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ những nhận thức về điểm nhìn trần thuật, soi chiếu vào Thoạt
kỳ thủy, nghiên cứu này hướng tới làm nổi bật tính đa dạng hóa điểm nhìn trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương, xác định việc tạo lập điểm nhìn như một mắt
xích hữu hiệu làm nên thành cơng của tác phẩm. Nghiên cứu này cũng tìm hiểu
sự dịch chuyển điểm nhìn như một kĩ thuật tạo nên tính hiện đại của tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương, qua đó bước đầu định giá những đóng góp của Nguyễn
Bình Phương trong tiến trình đổi mới không ngừng của tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại, vận động chuyển mình với các yếu tố hậu hiện đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác lập một khung lí thuyết cho luận văn. Đó là lí thuyết về điểm nhìn
trần thuật, điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết.
- Nghiên cứu các loại điểm nhìn trần thuật ở Thoạt kỳ thủy của Nguyễn
Bình Phương, chỉ ra những nét độc đáo về tổ chức điểm nhìn nghệ thuật trong
tiểu thuyết này.
- Bước đầu tìm hiểu sự chi phối và những ảnh hưởng của điểm nhìn trần
thuật đối với phương thức kể, ngơn ngữ, cấu trúc lời nói nghệ thuật trong tiểu
thuyết Thoạt kỳ thủy.
6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ
thủy của Nguyễn Bình Phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu và khảo sát
điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương.
Đây là tiểu thuyết thể hiện rõ nét nhất sự đổi mới về điểm nhìn trần thuật trong
tiểu thuyết mà giai đoạn văn học trước chưa thấy.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp một số phương pháp và thủ pháp nghiên cứu để
thực hiện các nội dung nghiên cứu đã đặt ra, cụ thể là:
- Phương pháp phân tích diễn ngơn: vận dụng phương pháp này, người viết
phân tích các loại điểm nhìn, đặc điểm và vai trị của các loại điểm nhìn trần
thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng để làm rõ các loại điểm
nhìn cũng như sự sáng tạo của nhà văn từ các chi tiết trong cách kể chuyện, cách
sử dụng ngôn ngữ …
- Phương pháp so sánh hệ thống và so sánh loại hình: nhằm chỉ ra những
đổi mới trong tổ chức điểm nhìn trần thuật của Nguyễn Bình Phương.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu sâu vấn đề điểm nhìn trần thuật trong tiểu
thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương. Do đó, đóng góp của luận văn
thể hiện ở sự phát hiện các loại điểm nhìn, phân tích các phương thức tổ chức
điểm nhìn, chỉ ra những nét độc đáo trong tư duy tiểu thuyết của nhà văn. Kết
quả nghiên cứu cũng sẽ góp phần làm sáng rõ những đóng góp có giá trị của nhà
văn Nguyễn Bình Phương trong cách tân nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết Việt
7
Nam đương đại. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên Ngữ văn,
học viên cao học chuyên ngành văn học Việt Nam, Lí luận văn học và những
người quan tâm đến tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc luận văn bao gồm: mở đầu, nội dung, kết luận, tài liệu tham khảo
và phụ lục. Riêng phần nội dung được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Các loại điểm nhìn trong Thoạt kỳ thủy Nguyễn Bình Phương.
Chương 3: Phương thức tổ chức điểm nhìn ở tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của
Nguyễn Bình Phương.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Điểm nhìn và điểm nhìn trần thuật
Trong sáng tạo nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng, điểm nhìn là
một yếu tố vơ cùng quan trọng. Nó tham gia trực tiếp vào q trình phản ánh của
tác phẩm qua các góc nhìn khác nhau. Tổ chức điểm nhìn gắn liền với mức độ
thâm nhập vào cuộc sống của nhà văn, thể hiện những chiều kích khám phá đời
sống. Trong nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tiểu thuyết, điểm nhìn được xác định
như một kĩ thuật tạo nên tính sinh động của tác phẩm, đồng thời cho thấy tính đa
dạng của cuộc sống hiện tồn, nơi mà tiểu thuyết phản ánh.
Điểm nhìn chính là cơ sở ban đầu để xây dựng cấu trúc tác phẩm, bởi một
điều tất yếu, tác giả cần một điểm nhìn để quan sát thế giới. Việc lựa chọn
điểm nhìn có ý nghĩa quan trọng trong kiến giải cách thức tiếp cận đời sống
của nhà văn. Nó xác định điểm “tiêu cự hóa”(chữ dùng của G.Genette) của
chính người kể chuyện với đối tượng kể và hiện thực đời sống được hư cấu
trong tác phẩm. Vì vậy, việc vận dụng các điểm nhìn góp phần tạo nên sự hấp
dẫn và tính sinh động cho tác phẩm. Không thể hiểu được sâu sắc tác phẩm văn
học hoặc một lời nói nếu ta khơng tìm hiểu điểm nhìn. Tuy nhiên, trong ngơn
ngữ và văn học điểm nhìn khơng phải đã được tìm hiểu một cách cặn kẽ và có
hệ thống.
1.1.1. Những quan niệm về điểm nhìn
1.1.1.1. Điểm nhìn trong ngơn ngữ học
Đi từ ngữ pháp học truyền thống, chúng ta nhận thấy vấn đề điểm nhìn trần
thuật chưa có được một khái niệm một định nghĩa nào, ta chỉ có thể nhận biết
được biểu hiện của điểm nhìn thơng qua sự lựa chọn cách dùng hình thức của
ngơn ngữ xuất phát từ một định hướng nào đó được quy định chặt chẽ trong các
quy tắc dùng: thời, thể, thức.
9
Phải đến tận các cơng trình nghiên cứu về ngữ dụng học thì điểm nhìn mới
được biểu hiện một cách cụ thể và rõ ràng hơn nhưng vẫn chưa có được khái
niệm về điểm nhìn. Khi nghiên cứu ngơn ngữ trong tác phẩm văn chương là
nghiên cứu ngôn ngữ theo quan điểm của người dùng. Đó là thứ ngơn ngữ được
xây dựng, được sáng tạo ra trong hoàn cảnh giao tiếp đặc biệt: giữa tác giả với
độc giả, giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật và người kể chuyện. Và để
sáng tạo nên một tác phẩm văn học, ta phải nắm chắc các quy tắc về kết học và
nghĩa học, đó là điều quan trọng đặc biệt đối với các tác giả và họ phải biết vận
dụng linh hoạt các kiến thức về ngữ dụng học. Vì đó là phương tiện hữu hiệu để
tạo ra giá trị thẩm mĩ và hiệu lực giao tiếp cao nhất cho tác phẩm. Đó cũng là
yêu cầu đối với người nghiên cứu điểm nhìn trong tác phẩm.
Trong cách nhìn nhận như vậy, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ một số vấn đề
cơ bản của ngữ dụng học, là cơ sở nghiên cứu điểm nhìn trần thuật của luận văn.
- Trong cơng trình Đại cương ngơn ngữ học (tập 2) [6], tác giả Đỗ Hữu
Châu khi nghiên cứu về các phạm trù nhân xưng, phạm trù chỉ xuất không gian
và thời gian đã đưa ra những gợi ý, những định hướng hết sức quan trọng trong
việc xác định điểm nhìn trần thuật. Cụ thể là:
* Phạm trù nhân xƣng
Phạm trù nhân xưng thuộc quan hệ giao tiếp ngay trong cuộc giao tiếp đang
diễn ra với điểm gốc là lời nói. Quan hệ vai giao tiếp là cốt lõi của việc xưng hô:
ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai là các ngôi tham dự vào hoạt động giao tiếp, thực
sự là phạm trù xưng hô. Ngôi thứ ba để chỉ hiện thực được nói đến, khơng tham
gia vào cuộc giao tiếp và là hiện thực mà cả người nói và người nghe đều đã
biết. Hệ thống xưng hơ vừa có chức năng chiếu vật vai giao tiếp, vừa thể hiện
quan hệ liên cá nhân. Vì thế mà nghĩa của biểu thực vật dùng để xưng hô là cơ
sở để hiểu được nghĩa của diễn ngôn. Căn cứ vào một số đặc điểm xưng hơ của
người Việt mà bạn đọc có thể nhận ra được quyền uy và thân hữu của người nói
trong cuộc giao tiếp. Và đặc biệt trong tác phẩm văn chương, các cuộc giao tiếp
10
giữa các nhân vật thường bị chi phối bởi ngữ cảnh và phép lịch sự. Do vậy, các
cuộc giao tiếp giữa các vai thường có sự thay đổi các từ xưng hơ. Và qua các từ
xưng hơ ta có thể nhận biết được tính chất, mối quan hệ nguyên nhân giữa các
nhân vật.
* Phạm trù chỉ xuất không gian và thời gian
Chỉ xuất không gian và thời gian là phương thức chiếu vật bằng cách chỉ ra
sự vật theo vị trí của nó trong khơng gian và thời gian. Muốn quy chiếu sự vật
theo phương thức chỉ xuất thì phải định vị nó theo một điểm mốc và theo một
phương thức định tính từ điểm mốc đó.
Điểm gốc về khơng gian: là vị trí khơng gian của người nói trong giao tiếp.
Khi nói, người nói ở chỗ nào thì chỗ ấy là điểm gốc để định vị vật được nói tới
và phân biệt với các vật khác.
Điểm gốc về thời gian: là thời điểm nói năng của người nói, “quá khứ” hay
“tương lai” của sự vật là so với thời điểm đó. Trong các ngơn ngữ biến hình,
thời gian được thể hiện trong hình thái của động từ cho nên căn cứ vào hình thái
của động từ để định vị thời gian.
Đó là chỉ xuất khơng gian – thời gian chủ quan, chỉ xuất không gian – thời
gian chủ quan lấy ba điểm gốc: tôi, ở đây và bây giờ để định vị khi sử dụng biểu
thức chiếu vật. Còn chỉ xuất không gian – thời gian khách quan là định vị lấy
thời gian lịch sử làm điểm gốc. Đó là thời gian của sự việc, sự kiện.
Đây là những phạm trù quan trọng giúp cho việc xác định điểm nhìn của
người nói, người kể chuyện và người tiêu điểm hóa.
- Trong cuốn Logic và Tiếng việt [7] của tác giả Nguyễn Đức Dân, chúng
tơi lại có được những cách nhận định quý báu. Điểm nhìn được xem như một vị
trí gốc về khơng gian để định vị hiện thực “trong phát ngôn, con người thường
dùng phương cách lấy một vật nào đó làm chuẩn, làm trung tâm và thường dùng
chính mình làm trung tâm. Nói cách khác, sự phát ngơn cịn phụ thuộc vào điểm
nhìn mà người nói đặt ra’’ [7, 340].
11
Ví dụ 1: a. Hoa ở trong sân
b. Hoa ở ngồi sân
Ở câu (1a) là cách nói được xác lập căn cứ vào vị trí của người nói so với
Hoa, cũng tức là so với cái sân khi người nói ở một không gian rộng mở hơn so
với không gian của Hoa nên thực hiện phát ngôn (1a).
Ở câu (1b) cũng là cách nói được xác lập căn cứ vào vị trí của người nói so
với Hoa và cái sân. Nhưng khi đó người nói lại ở một khơng gian hẹp hơn so với
khơng gian của Hoa.
Người nói có thể phát ngơn theo điểm nhìn của người nghe.
Ví dụ 2: Quyển sách để trên chiếc ghế sau bàn ấy.
Ở ví dụ 2, từ “sau” được dùng theo điểm nhìn của người nghe.
Người nói có thể tự đặt mình vào một điểm nhìn nào đó.
Ví dụ 3: Trên trời mây trắng như bơng
Ở dưới cánh đồng bơng trắng như mây.
Ở ví dụ 3, dưới đất nhìn lên trời người nói tự đặt mình ở trên cao, hình
dung như ngồi trên cao nhìn xuống dưới cánh đồng. Với cách nói này phản ánh
cách so sánh vị trí điểm nhìn của người nói so với đối tượng được đề cập.
Ngoài ra, việc nghiên cứu lí thuyết về ngữ dụng học, chúng tơi cịn có được
những đánh giá, nhận định quan trọng cho việc tìm hiểu điểm nhìn trong tiểu
thuyết khi ngữ dụng học đưa ra lí thuyết về lập luận và hiện tượng đa thanh.
Lập luận: là quá trình sử dụng, tổ chức những lí lẽ, dẫn chứng nhằm hướng
người đọc, người nghe đến một kết luận nào đó.
Hiện tượng đa thanh: là hiện tượng các nhân vật tự thể hiện mình mà không
được đánh giá theo quan điểm của tác giả. Do đó, trong tác phẩm xuất hiện sự
xung đột của các giọng, các quan điểm. Ý nghĩa nghệ thuật thực sự của tác
phẩm chính là ở sự xung đột của các giọng, các quan điểm ấy. Còn giọng của tác
giả khi thì được đồng hướng, khi thì nghịch hướng với những giọng đó và quan
12
điểm đó. Với đặc trưng riêng của thể loại, ngơn ngữ trong tiểu thuyết đòi hỏi sự
đa tầng về ý nghĩa, giàu cảm xúc. Trong tiểu thuyết, đối thoại là một tính năng
hữu hiệu và trở thành bản chất của thể loại. Đối thoại cho phép tác giả đồng thời
thể hiện nhiều quan niệm khác nhau, nhiều cái nhìn đa chiều, đặc biệt là điều
kiện để thể hiện đầy đủ quan điểm của nhân vật. Chính nhân vật tiểu thuyết làm
nên tính hiện thời của câu chuyện và tạo lập các điểm nhìn khác nhau. Cũng
trong tiểu thuyết, điểm nhìn của tác giả nhiều khi chỉ mang tính chất đối chiếu
với các điểm nhìn khác, mặc dù chính những điểm nhìn ấy là con đẻ của nhà
văn. Điều này sẽ tạo nên tính đa thanh, đa nghĩa trong ngơn ngữ tiểu thuyết. Và
hiện tượng đa thanh được các tác giả sử dụng để tạo ra giá trị đích thực cho tiểu
thuyết (theo lí thuyết đa thanh của O.Ducrot) [7,18].
Trên đây là vấn đề cốt yếu của ngữ dụng học giúp làm sáng tỏ vai trị của
điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết. Tuy nhiên, khi phân tích các hiện tượng
ngơn ngữ của tác phẩm văn học theo phương pháp ngữ dụng học, ta cần phải
hiểu được vai trò thống hợp của ngữ dụng học một cách biện chứng và linh hoạt.
Nghĩa là “ngay trong kết học, trong nghĩa học đã có sự chi phối của các quy tắc
ngữ dụng học và các quy tắc ngữ dụng học phải nương tựa vào các sự kiện, các
quy tắc kết học mà biểu hiện mà phát huy tác dụng” [6, 58].
1.1.1.2. Điểm nhìn trong phong cách học
Vấn đề điểm nhìn trong những năm gần đây đã được phong cách học chú ý
đến, giúp cho các nhà nghiên cứu tìm thấy một hướng tiếp cận mới cho việc giải
mã các tác phẩm văn học khi tìm hiểu về phong cách nhà văn.
Đỗ Việt Hùng và Nguyễn Thị Ngân Hoa viết trong cuốn Phân tích phong
cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cho rằng: “Mối quan hệ thứ hai biểu
hiện tính cấu trúc, tính hệ thống của ngôn ngữ nghệ thuật là mối quan hệ với
chủ thể sáng tạo với hình tượng tác giả”[16]. Và hình tượng tác giả chính là
cấu trúc lời nói của cá nhân xuyên thấm cơ cấu của tác phẩm nghệ thuật, xác
định mối liên hệ tác động qua lại giữa tất cả các yếu tố của nó. Nhưng cấu trúc
13
lời nói của hình tượng tác giả khơng bị hạn chế trong khuân khổ của lời nói của
tác giả thật sự chỉ thật sự có lời nói của người kể, người tường thuật, của nhân
vật. Trong tác phẩm tự sự “mối quan hệ này tác động đến điểm nhìn trần thuật,
kết cấu lời nói và giọng điệu trần thuật của tác phẩm. Điểm nhìn trần thuật có
thể di động trong từng phần của tác phẩm, tạo nên sự biến đổi về giọng kể và
ngôn ngữ kể chuyện” [16, 123].
Trong báo cáo “Điểm nhìn trong lời nói giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật
trong chuyện” tác giả Nguyễn Thái Hịa đã chỉ ra sự khác biệt giữa điểm nhìn
trong lời nói giao tiếp và điểm nhìn nghệ thuật trong truyện. Tác giả nhấn mạnh:
điểm nhìn trong lời nói giao tiếp là “tọa độ của hai trục lời nói hiển ngơn với
hành vi giao tiếp và do thao tác suy ý người nhận có thể tiếp nhận được” [15,
86]; cịn điểm nhìn nghệ thuật “là điểm xuất phát của một cấu trúc nghệ thuật” ;
là “một cấu trúc tiềm ẩn được người đọc tiếp nhận bằng thao tác suy ý từ các
mối quan hệ phức hợp giữa người kể và văn bản, giữa văn bản và người đọc văn
bản, giữa người kể và người đọc hàm ẩn” [15, 96].
Tóm lại, điểm nhìn trần thuật trong phong cách học có một số điểm như
sau: 1/Điểm nhìn là vị trí, là xuất phát điểm từ cấu trúc sâu của văn bản nghệ
thuật. 2/Điểm nhìn được xác định bằng thao tác suy ý đặt trong các mối quan hệ
với người kể - văn bản - người đọc.
1.1.1.3. Điểm nhìn trong thi pháp học
Nói một cách tổng quát, ĐN là một vấn đề, một khía cạnh được thi pháp
học đề cập đến nhiều, được bàn luận nhiều nhưng chủ yếu là trong những cơng
trình nghiên cứu về tiểu thuyết.
M. Bahhtin trong cuốn Lý luận và thi pháp tiểu thuyết cho rằng: “Cùng với
tất cả những điều được kể, chính bản thân người kể chuyện và lời nói của nó đã
đi sâu và tầm nhìn của tác giả. Chúng ta ước đoán được những điểm nhấn của
tác giả ở chủ đề truyện cũng như ở bản thân truyện kể và ở hình tượng người kể
chuyện được bộc lộ trong q trình thuật truyện. Khơng cảm thấy cái chiều thứ
14
hai ấy, chiều của những ý chỉ và “trọng âm” của tác giả - tức là không hiểu tác
phẩm” [3, 121].
Về vấn đề điểm nhìn, các tác phẩm như: Herry Jame, Fieedman, Todorov,
Gennette, Vinogradov cũng rất quan tâm. Có tác giả định nghĩa về điểm nhìn
q rộng, có tác giả lại đề xuất các tên gọi khác của điểm nhìn: tiêu cự trần
thuật, điểm quan sát, nhãn quan… nhưng đều nhấn mạnh: ĐN là một vấn đề
then chốt của kết cấu tác phẩm và đóng vai trị quan trọng trong việc giải mã văn
bản nghệ thuật.
Ở Việt Nam cũng đã có một số tác giả đề cập đến điểm nhìn trong các cơng
tình nghiên cứu về văn học và thi pháp học. Trong Tiểu thuyết Pháp hiện đại
những tìm tịi và đổi mới, tác giả Phùng Văn Tửu cho rằng điểm nhìn là kĩ thuật
nhà văn “chọn chỗ đứng để nhìn và kể”. Trong các cơng trình nghiên cứu của
tác giả Trần Đình Sử, ta thấy khái niệm ĐN được xác định ở nhiều khía cạnh:
“Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngơn, trình bày, miêu tả phù hợp với
cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của tác giả” [29, 149]. Tác giả Trần Đình Sử
cịn cho rằng việc định hướng của điểm nhìn trong văn bản và hệ thống điểm
nhìn văn bản chỉ là hình thức thể hiện điểm nhìn trên cấp độ văn hóa nghệ thuật.
Điểm nhìn trần thuật giúp người đọc tìm hiểu cấu trúc của tác phẩm, chỉ ra cách
cảm thụ, cách miêu tả cũng như tư tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm.
Những gợi ý trên là cơ sở giúp cho người nghiên cứu xác định vấn đề điểm nhìn
trần thuật một cách rõ ràng cụ thể.
1.1.2. Quan niệm về điểm nhìn trần thuật của luận văn
Từ các quan niệm trên về ĐN trần thuật được nhìn nhận ở các góc độ khác
nhau, sự tiếp thu những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước và trên cơ
sở học tập và vận dụng có sáng tạo lý thuyết về điểm nhìn. Ở luận văn này,
chúng tơi tiếp thu và sử dụng lý thuyết về điểm nhìn trần thuật theo quan điểm
của TS. Nguyễn Thị Thu Thủy, để từ đó đi sâu và làm sáng tỏ một số vấn đề cơ
bản của điểm nhìn trần thuật như sau:
15
1.1.2.1. Khái niệm điểm nhìn
“Điểm nhìn là vị trí, xuất phát điểm mà từ đó hiện thực được quan sát và
được kể lại”[32, 60].
Theo nghĩa rộng, vị trí, xuất phát điểm là vị trí, xuất phát điểm về khơng
gian, thời gian; về khoảng cách quyền uy và thân hữu; về tâm lý, xúc cảm; về
nhận thức, văn hóa, đạo đức, ý thức hệ…
Vị trí khơng gian thời gian chính là vị trí gốc về khơng gian, thời gian của
chủ thể để định vị hiện thực. Vị trí này được thể hiện ở khoảng cách và hướng
nhìn trong khơng gian, chiều và khoảng cách thời gian.
Trong khơng gian, chủ thể có thể ở khoảng cách: gần – xa; hướng nhìn:
trên – dưới, trước – sau, trong – ngồi. Đây là khơng gian được sắp xếp theo con
người với sự vật, là sự khái quát từ quan hệ không gian hai người: coi một sự vật
như là người thứ hai, coi hai sự vật như là hai đối tượng hội thoại. Vì vậy các sự
vật xung quanh đều được dùng tham gia vào định vị không gian.
Về thời gian, chiều của thời gian có hai chiều: quay về quá khứ và hướng
tới tương lai, còn thời điểm hiện tại là tọa độ để xác định chiều thời gian,
khoảng cách thời gian: nhanh - chậm, ngắn - dài…
- Vị trí và khoảng cách về quyền uy và thân hữu:
Trong xã hội con người khác nhau về địa vị. Cái gọi là địa vị xã hội có thể
do tuổi tác, nghề nghiệp, chức quyền…mà có. Theo trục quyền uy thì khi giao
tiếp vị thế của người giao tiếp sẽ được giữ nguyên trong quá trình giao tiếp
khơng thể thay đổi vị thế. Theo trục khoảng cách thân hữu các nhân vật có thể
xa cách hoặc gần gũi nhau. Và trong giao tiếp qua thương lượng khoảng cách
này có thể thay đổi.Trong văn chương, tính thân hữu cao hay thấp được thể hiện
trong thái độ của nhà văn đối với nhân vật
Về quyền uy, có ba mức độ đánh giá quan hệ quyền uy : quyền lực cao,
quyền lực thấp, quyền lực ngang bằng. Nhưng trong thực tế quyền lực và thân
16
hữu phản ánh đúng vị thế và quan hệ thân hữu của con người. Còn trong tác
phẩm văn học quyền uy đã bị khúc xạ theo con mắt, quan niệm của nhà văn và
đơi khi khơng hồn tồn được phản ánh chân thực.
Xuất phát điểm về tâm lý, về xúc cảm:
Trong một hành động nào đó được thực hiện, con người không tránh khỏi
sự phụ thuộc vào trạng thái tâm lý, xúc cảm của mình: vui, buồn, u, ghét… do
đó chủ thể thường bị chi phối bởi cảm xúc chủ quan của cá nhân hoặc cảm xúc
khách quan không mang tính cá nhân khi thực hiện hành động.
Xuất phát điểm về nhận thức, về văn hóa, đạo đức, ý thức hệ:
Những đặc điểm về nhận thức, về văn hóa, đạo đức, ý thức hệ cũng là
những nhân tố tác động đến cảm nhận, quan sát, đánh giá về đối tượng và về thế
giới được miêu tả. Người có kiến thức về văn hóa, có hiểu biết sâu rộng, có ý
thức đạo đức, có tư tưởng lạnh mạnh sẽ phản ánh đúng bản chất về đối tượng, về
thế giới một cách sinh động và hấp dẫn. Còn ngược lại sẽ trở thành những điểm
mù trong quan sát về đối tượng, về thế giới được phản ánh.
1.1.2.2. Các nhân tố của điểm nhìn
* Người tiêu điểm hóa (NTĐH): NTĐH có thể là người kể chuyện, có thể
là nhân vật, có thể vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật, có thể không phải là
NKC cũng không phải bất cứ nhân vật nào trong chuyện nhưng phải là người
thực hiện hành vi nhìn, hành vi quan sát, đánh giá, cảm nhận… là xuất phát
điểm để định vị giá trị của thế giới hiện thực trong truyện.
- NTĐH là NKC: đó là trường hợp NTĐH đồng thời là NKC hàm ẩn. Và
cốt truyện, tư tưởng sẽ được diễn giải từ chính điểm nhìn của NKC hàm ẩn này.
Mọi sự đánh giá, cảm nhận, quan sát đều là của NKC hàm ẩn được “khách quan
hóa” bằng cái nhìn bên ngồi.
17
- NTĐH là nhân vật: NTĐH là nhân vật ở ngơi thứ 3 trong những câu
chuyện có NKC hàm ẩn, kể theo điểm nhìn bên trong dựa vào điểm nhìn nhân
vật để kể.
- NTĐH vừa là NKC vừa là nhân vật: trong trường hợp này, những truyện
kể xuất hiện NKC hiển ngơn xưng "tơi" – kể chuyện về mình. NKC vừa mang
tiêu điểm phản ánh, vừa là chủ thể của ngôn từ được sử dụng. NTĐH thuộc thế
giới hiện thực miêu tả trong truyện.
- NTĐH không phải là NKC, cũng khơng phải bất cứ nhân vật nào trong
truyện : đó là ở trường hợp truyện kể có người kể chuyện tường minh, nhưng
NKC tường minh này không tham gia vào hành động của truyện và cũng không
phải là chủ thể cảm nhận, quan sát mà chỉ có nhiệm vụ kể chuyện. NTĐH cũng
không phải là nhân vật nào trong truyện
* Nhân tố được tiêu điểm hóa (NTĐTĐH): NTĐTĐH là nhân vật thuộc về
thế giới được miêu tả trong tác phẩm, là đối tượng được NTĐĐH nhận thức và
phản ánh.
NTĐTĐH có thể là NKC, nhân vật, NTĐH.
- NTĐTĐH là người kể chuyện. Đó là trường hợp NTĐTĐH là người kể
chuyện tường minh, tự kể về mình.
- NTĐTĐH là NTĐH. Đây là trường hợp NTĐH tự quan sát mình, tự cảm
nhận về mình , thường gặp là những tác phẩm có NKC xưng "tơi " kể về mình.
- NTĐTĐH là nhân vật.
Trong tác phẩm NTĐTĐH hầu hết là các nhân vật. Khi được nhìn từ điểm
nhìn bên trong thì những suy nghĩ, cảm nhận, cảm xúc của nhân vật NTĐTĐH
sẽ được thuật lại. Khi được nhìn từ điểm nhìn bên ngồi thì NTĐTĐH sẽ hiện
lên qua những hành vi, cử chỉ có thể nhìn thấy.
NTĐTĐH cịn có thể được hiểu rộng ra là đồ vật, con vật, thiện nhiên...
NTĐTĐH có thể là con người thực và tồn tại trong thế giới của chúng ta nhưng
18
cũng có thể là những con người chỉ tồn tại trong thế giới phát ngôn, của tâm
linh, của những giấc mơ, của những người đã chết, trí tưởng tượng của NTĐH.
* Người phát ngôn : Trong hoạt động giao tiếp nói năng điểm nhìn trần
thuật được thể hiện bằng phương tiện ngơn ngữ mà người nói chính là chủ thể của
điểm nhìn – tức là điều nói ra xuất phát từ điểm nhìn. Nhưng cũng có thể người
nói mượn điểm nhìn của người khác khi đó khơng phải là chủ thể của điểm nhìn.
Do vậy, nhờ có người phát ngơn mà điểm nhìn được người nhận lĩnh hội và cảm
nhận. Người phát ngơn chính là người bộc lộ và thể hiện điểm nhìn.
* Người nhận: Người nhận (độc giả) với tư cách là người tiếp nhận điểm
nhìn, làm cho điểm nhìn trở nên có ý nghĩa trong việc đánh giá tác phẩm và tiếp
nhận tác phẩm một cách thấu đáo.
* Tiêu điểm: Trong ngôn ngữ học, tiêu điểm được hiểu là trọng tâm thơng
tin của lời nói, được gắn với ngữ điệu.
Trong tác phẩm, ở góc độ nói và nhìn thường có hai tiêu điểm : tiêu điểm
kể chuyện và tiêu điểm quan sát.
- Tiêu điểm quan sát thuộc về hành động nhìn là vị trí được nhìn, là mục
tiêu quan sát chủ yếu. Nó thuộc về NTĐTĐH.
- Tiêu điểm kể chuyện thuộc về hành động nói, là trọng tâm thông báo của
lời kể mà NKC muốn gửi đến người nhận. Trong một lời kể chuyện gồm có hai
tiêu điểm : tiêu điểm thông tin và tiêu điểm tu từ.
* Tiêu cự: Tiêu cự là khoảng cách từ NTĐT đến NTĐTĐH. Trong tác
phẩm tự sự đó là khoảng cách từ NTĐT hoặc NKC đến nhân vật, từ NKC đến
người nhận.
* Hình thức ngơn ngữ: Trong chuyện kể hay trong lời nói, điểm nhìn
được thể hiện bằng nhiều hình thức ngơn ngữ những chủ yếu và dễ nhận biết
nhất là các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian, thời gian, các đại từ nhân xưng hoặc
cách gọi tên nhân vật, các hình thức đánh giá, bình luận...