BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
TRẦN THỊ THIẾT
CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN
TRONG ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ VÀ SĂN CÁ THẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Phú Thọ, năm 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
TRẦN THỊ THIẾT
CON NGƯỜI VÀ THIÊN NHIÊN
TRONG ÔNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ VÀ SĂN CÁ THẦN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Phƣơng Chi
PGS.TS Phùng Ngọc Kiên
Phú Thọ, năm 2021
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai cơng bố trong bất cứ cơng
trình nào khác.
Tác giả luận văn
Trần Thị Thiết
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài “Con ngƣời và thiên nhiên trong Ông già và biển cả
và Săn cá thần” tôi đã nhận đƣợc nhiều sự giúp đỡ vô cùng quý báu của các tập thể
và cá nhân.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Phƣơng Chi, PGS.TS
Phùng Ngọc Kiên, Viện nghiên cứu văn học – những ngƣời thầy đã tận tình hƣớng
dẫn tơi trong q trình học tập và triển khai luận văn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng cùng tập thể các thầy
cô khoa Khoa học Xã hội Văn hóa và Du lịch và các thầy cơ trong Tổ bộ môn Lý
luận văn học, Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin phép bày tỏ sự biết ơn đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè,
đồng nghiệp đã ln động viên, giúp đỡ để tơi có đƣợc cơng trình này.
Phú Thọ, ngày tháng 6 năm 2021
Học viên
Trần Thị Thiết
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................................2
3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................5
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.........................................................................................7
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn ..............................................................................................7
Chƣơng 1: GIỚI THUYẾT CHUNG ..........................................................................8
1.1. Cơ sở lí thuyết ......................................................................................................8
1.1.1. Các phƣơng pháp chính trong Văn học so sánh ................................................8
1.1.2. Mơ hình đặt cạnh nhau trong văn học so sánh ................................................10
1.2. Nhà văn Ernest Hemingway và nhà văn Đặng Thiều Quang ............................12
1.2.1. Nhà văn Ernest Hemingway: ..........................................................................12
1.2.2. Nhà văn Đặng Thiều Quang: ..........................................................................14
1.3. Tác phẩm Ông già và biển cả và Săn cá thần: ...................................................16
1.3.2. Tác phẩm “Săn cá thần” ..................................................................................18
Chƣơng 2. SỰ THỐNG TRỊ CỦA CON NGƢỜI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
THIÊN NHIÊN .........................................................................................................22
2.1. Thiên nhiên là nguồn lợi vật chất:......................................................................22
2.2. Con ngƣời tự tin về sự hiểu biết của mình đối với lồi vật ................................26
2.3. Thiên nhiên là nơi để con ngƣời thể hiện sức mạnh ..........................................32
Chƣơng 3. SỰ THẤT BẠI CỦA CON NGƢỜI TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI
THIÊN NHIÊN .........................................................................................................44
3.1. Sức mạnh của tự nhiên .......................................................................................44
3.2. Sự bí ẩn của thiên nhiên .....................................................................................53
3.3. Con ngƣời bị thiên nhiên trừng phạt ..................................................................56
iv
3.4. Con ngƣời nhận thức về sức mạnh hữu hạn của mình trong quan hệ với thiên
nhiên ..........................................................................................................................63
KẾT LUẬN ...............................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................80
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con ngƣời đã thay đổi cảnh quan từ khi bắt đầu nền văn minh, thông qua các
hoạt động nông nghiệp, khai thác rừng, xây đập, hoặc thông qua các con đƣờng,
hầm mỏ, đƣờng hầm, khu định cƣ và các thực tiễn khác dẫn đến sự biến đổi của tự
nhiên và môi trƣờng. Với sự bành trƣớng của châu Âu vào Thế giới mới và các lục
địa khác, những biến đổi này đã trở thành phạm vi tồn cầu. Chính điều này đã dẫn
đến sự gia tăng các hoạt động thƣơng mại, hệ thống giao thông lớn hơn và cho phép
tăng dân số chƣa từng có. Các lĩnh vực nơng nghiệp, cơng nghiệp và cơng nghệ phát
triển nhanh chóng dẫn tới nhu cầu sử dụng nguyên, nhiên liệu ngày càng nhiều, việc
khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên càng đƣợc mở rộng. Sự khai thác mỏ quặng,
việc khai thác rừng, san lấp đất đã làm phá huỷ cảnh quan tự nhiên, đất đai, rừng,
động vật và sự đa dạng sinh học, khiến nhiều loài bị tuyệt chủng. Tác động này của
con ngƣời đối với thiên nhiên đƣợc tăng cƣờng triệt để trong cuộc Cách mạng Công
nghiệp và gần đây hơn là trong Cuộc đại tốc của những năm 1950 dẫn đến sự phát
triển của cơng nghệ hạt nhân và thƣơng mại tồn cầu hóa.
Những sự phát triển này đã khiến các nhà khoa học nhƣ Paul Crutzen,
Eugene Stoermer, Will Steffen, Jan Zalasiewicz, Reinhold Leinfelder, và những
ngƣời khác gọi thời đại của chúng ta bằng một cái tên mới, tên Anthropocene. Đó là
thời đại con ngƣời lấy mình trung tâm cho mọi hành xử đối với thiên nhiên. Từ đó
dẫn đến những thay đổi theo chiều phá hủy đối với các hệ sinh thái, môi trƣờng,
thảm động - thực vật của trái đất.
Văn học đã góp phần cảnh tỉnh con ngƣời về những biến đổi này và thể hiện
sự cảnh tỉnh đó trong cả chủ đề và cấu trúc của văn bản. Nó trình bày các biến đổi
mơi trƣờng trong một ánh sáng tích cực, trung tính hoặc tiêu cực thơng qua quan
điểm của các nhân vật hƣ cấu, ngƣời kể chuyện và các nhân vật kịch tính tham gia
với họ, hoặc phê duyệt hoặc phê bình. Thơng qua văn học, độc giả có thể tham gia
vào các cuộc đàm phán này và chia sẻ số phận của các nhân vật hƣ cấu đƣợc tiếp
2
xúc với những biến đổi của phong cảnh hoặc, trong một số trƣờng hợp, đang tích
cực tham gia vào việc thúc đẩy họ.
Văn học, đặc biệt là văn học sinh thái đã cảnh tỉnh con ngƣời về sự thất bại
của họ trong việc làm chủ thế giới tự nhiên và lấy mình làm trung tâm thế giới.
Hai tác phẩm đƣợc lựa chọn của đề tài là Ông già và biển cả (1952) của nhà
văn Mĩ Ernest Hemingway (1899 – 1961) và Săn cá thần (2013) của nhà văn Việt
Nam Đặng Thiều Quang (1974) đều tập trung vào cuộc vật lộn giữa con ngƣời và
thiên nhiên. Hai tác phẩm này thuộc hai truyền thống văn học và văn hóa khác
nhau. Vì thế, việc khám phá hai tác phẩm trong sự đối sánh làm phát lộ những ý
nghĩa mới trong mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên.
Từ những lí do trên tôi chọn đề tài Con người và thiên nhiên trong “Ông
già và biển cả” và “Săn cá thần”. Đề tài này góp phần chứng tỏ giá trị của văn học
trong việc tham gia các vấn đề nóng hổi của thời đại. Đó là vấn đề con ngƣời xác
định lại vị trí của mình trong quan hệ với mơi trƣờng và tự nhiên.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Ra đời từ năm 1952, Ông già và biển cả của Ernest Hemingway đã nhanh
chóng trở nên nổi tiếng. Cho đến nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về tác
phẩm này ở nhiều phƣơng diện khác nhau.
Trong lời mở đầu cuốn sách dịch Ông già và biển cả, nhà văn Huy Phƣơng
đã viết: “Với một số nội dung tƣởng chừng nhƣ đơn giản, thiên tiểu thuyết đã nêu
lên đƣợc những nét rất sâu sắc và cảm động về sức mạnh và khát vọng của con
ngƣời”
Trong cuốn Ernest Hemingway - Núi băng và Hiệp sĩ, nhà xuất bản Giáo
dục, năm 1999 của GS. Lê Huy Bắc cũng đề cập đến một vấn đề có liên quan đến
đề tài của chúng tơi đang khai thác. Trong phần Núi băng dài gần 20 trang, tác giả
Lê Huy Bắc đã phân tích nguyên lí Tảng băng trơi của Hemingway và sự vận dụng
ngun lí qua các bình diện: đối thoại, độc thoại, nhân vật …
Khi bàn về Ông già và biển cả, Lê Nguyên Cẩn cũng có lời bình: “Ơng già
nhỏ bé ấy đƣợc đặt vào biển cả mênh mông. Nhƣng cái mênh mông này lại mang lại
3
cái đơn điệu bởi sự trống vắng của nó…”, đó là vấn đề mối liên hệ giữa ông già và
biển cả.
Trong bài Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Hemingway của tác giả Lê
Huy Bắc đăng trên Tạp chí văn học số 7, năm 1995 cũng bàn đến nhân vật Santiago
trong tác phẩm Ông già và biển cả: Lão không quan tâm đến chuyện ăn uống nhọc
nhằn…chỉ quyết tâm bắt cho bằng đƣợc con cá xứng đáng với khả năng của mình…
hành động ấy của ơng lão nhƣ một nhằm khẳng định sự tồn tại” [44]. Bởi lẽ, với
dân chài, khơng đánh đƣợc cá có nghĩa là đã chết. Việc ông lão chiến thắng đƣa ra
một thông điệp: Con ngƣời có thể bị tiêu diệt nhƣng khơng thể bị khuất phục.
Trong bài Ông già và biển cả in trên Tạp chí văn học nƣớc ngồi số 3, năm
1999, tác giả Lê Huy Bắc đã nhận xét: “Là kiệt tác quyết định giải Nobel, Ông già
và biển cả chứa đựng vô số mối quan hệ. Tập trung lại tôi thấy nổi bật nhất là quan
hệ giữa ông già và biển cả…”[26].
Có thể thấy đa số các tài liệu, bài viết và các cơng trình nghiên cứu trên đều
tập trung nghiên cứu về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm Ông già và biển cả. Có
những bài đã đề cập đến một vài khía cạnh liên quan đến đề tài của chúng tôi đang
nghiên cứu nhƣ: quan hệ giữa ông già và biển cả, sự khẳng định sức mạnh của con
ngƣời trƣớc thiên nhiên trong tác phẩm… Nhƣng phần lớn các cơng trình đều tập
trung thể hiện sức mạnh và sự hiểu biết của con ngƣời trƣớc tự nhiên.
Cũng có một số cơng trình nghiên cứu về tác phẩm Ơng già và biển cả tập
trung vào vấn đề mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên và một số công trình có
phân tích tiểu thuyết Săn cá thần của Đặng Thiều Quang từ góc độ phê bình sinh
thái.
Trong sách giáo viên Ngữ văn lớp 12 (Phần văn học nƣớc ngoài – lí luận văn
học – Nhà xuất bản Giáo dục, 1998), PGS.TS Đặng Anh Đào khi bàn đến tác phẩm
Ông già và biển cả cũng đã đề cập đến mối quan hệ giữa biển cả với ông già, biển
cả - khung cảnh kì vĩ tƣơng ứng với mơi trƣờng sáng tạo của con ngƣời.
Trong cơng trình nghiên cứu mang tên Ernest Hemingway – Ông già và biển
cả do GS Lê Huy Bắc chủ biên đã tập hợp nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu
bàn về tác phẩm Ông già và biển cả. Trong đó nhà nghiên cứu Phùng Văn Tửu đã
4
chỉ rõ: “Tác phẩm miêu tả cuộc vật lộn gay gắt của con ngƣời với thiên nhiên đầy
chân thực, từ đó nâng lên tầng ý nghĩa thứ hai, nêu bật lên cái quyết liệt, tàn bạo của
đời sống và khả năng chống trả của con ngƣời” [24;149] và “không loại trừ khả
năng nhà văn muốn viết một tác phẩm để thử thách xem nghệ thuật độc thoại nội
tâm dƣới ngòi bút của mình có thể tung hồnh đến đâu…”[24;145].
Trong bài báo Ông già và biển cả của Lê Phong đăng trên Tạp chí văn học
năm 1962 cũng đã đƣa ra ý kiến, bàn luận về tác phẩm này nhƣ sau: “Vấn đề chủ
yếu đặt ra trong thiên truyện là vấn đề đấu tranh giữa con ngƣời và thiên
nhiên”[23;118].
Hay trong bài Nghệ thuật tiểu thuyết Hemingway của Lê Đình Cúc, in trên
Tạp chí văn học số 2 năm 1985 cũng đã có phát hiện những lớp nghĩa mới khá bất
ngờ, táo bạo của Ông già và biển cả nhƣ: Santiago và tôn giáo, kinh thánh, Santiago
và chiến tranh, Santiago và vấn đề sinh thái mơi trƣờng.
Trong bài viết Ơng già và biển cả đăng trên Tạp chí Châu Mĩ ngày nay, số 3,
năm 1998, nhà nghiên cứu Huy Liên đã nhận định: “Hoàn cảnh thách thức gay gắt
và khốc liệt làm nổi bật sức mạnh tinh thần vô song của nhân vật. Câu chuyện vừa
bắt đầu nhân vật đã đƣợc đặt trong một tình huống cực hạn…”, và theo Huy Liên
“quan hệ giữa nhân vật và thế giới tự nhiên là quan hệ phức tạp, vừa hài hòa, vừa
mâu thuẫn” [54,55].
Bài viết “Muối của rừng” (Nguyễn Huy Thiệp) trong so sánh với “Ơng già
và biển cả” (Ernest Hemingway) từ góc nhìn sinh thái của Phan Thị Thu Hiền đăng
trên Tạp chí Khoa học của Đại học Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh số 7, năm
2019 cũng đề cập đến mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên đƣợc nói đến trong
hai tác phẩm. Ông già và biển cả cũng nhƣ Muối của rừng đều mang đến những
thông điệp sâu sắc về quan hệ “sống và cùng chung sống” giữa con ngƣời với tự
nhiên nhƣ đảm bảo cho hạnh phúc nhân loại và sự sống trên Trái Đất. Trong khi
tiểu thuyết của Hemingway thể hiện mong muốn tìm kiếm điểm cân bằng nội tâm
giữa tơn trọng, hịa nhập với tự nhiên và chinh phục tự nhiên, truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp suy tƣ về mối đe dọa khủng hoảng sinh thái, những tƣơng tác
5
giữa tiến hóa văn minh và quan hệ đạo đức của con ngƣời với môi trƣờng sống của
họ.
Xuất bản năm 2013, Săn cá thần của Đặng Thiều Quang đƣợc bạn đọc biết
đến khá nhiều, nhƣng lại chƣa có nhiều bài viết hay các cơng trình nghiên cứu về
nó. Trong khả năng hạn hẹp của mình, chúng tơi mới tìm ra đƣợc một số rất ít bài
viết có đề cập đến tác phẩm.
Trong cơng trình nghiên cứu Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ
góc nhìn phê bình sinh thái của Nguyễn Thùy Trang cũng có đề cập đến mối quan
hệ giữa con ngƣời với thiên nhiên trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 –
2014. Tiểu thuyết Săn cá thần của Đặng Thiều Quang cũng đƣợc nhắc đến trên
phƣơng diện phƣơng thức kết nối với tự nhiên của con ngƣời thông qua độc thoại,
suy tƣởng, tự vấn của con ngƣời và cả tự nhiên. Từ hậu giải cấu trúc trong phê bình
sinh thái để nỗ lực về mặt lý luận nhằm xây dựng những quy tắc, chuẩn mực định
hƣớng con ngƣời tiến hành xóa bỏ quan niệm “nhân loại trung tâm”, thiết lập mối
quan hệ tƣơng giao mới với tự nhiên.
Nhƣ vậy, có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề con ngƣời và thiên
nhiên trong Ông già và biển cả của Hemingway, Săn cá thần của Đặng Thiều
Quang cũng đã đƣợc quan tâm trên phƣơng diện phƣơng thức kết nối giữa con
ngƣời và tự nhiên. Tuy nhiên chƣa có cơng trình nào đối sánh hai tác phẩm này với
nhau. Đối sánh hai tác phẩm không chỉ là một cách thức khai thác sâu thêm giá trị
của hai tiểu thuyết trong hai nền văn học khác nhau. Đó cịn là cách thức để nhìn rõ
hơn quan niệm của một tác giả Việt và một tác giả nƣớc ngồi trong cái nhìn về
sinh thái cũng nhƣ mối quan hệ của nó với con ngƣời. Vì lẽ đó, chúng tơi mạnh dạn
bƣớc đầu có cái nhìn đối sánh khi tìm hiểu Con ngƣời và thiên nhiên trong Ơng
già và biển cả và Săn cá thần.
3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài khảo sát tìm ra điểm tƣơng đồng và khác biệt trong nội hàm về mối
quan hệ con ngƣời và thiên nhiên trong Ông già và biển cả và Săn cá thần. Đồng
6
thời tìm ra điểm tƣơng đồng và khác biệt trong cách thể hiện mối quan hệ con ngƣời
và thiên nhiên ở trong hai tác phẩm.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng của đề tài là con ngƣời và thiên nhiên trong Ông già và biển cả và
Săn cá thần.
7
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hai tiểu thuyết: Ông già và biển cả của
Ernest Hemingway (1952), Lê Huy Bắc dịch của Nhà xuất bản Văn học và Săn cá
thần của Đặng Thiều Quang (2013), nhà xuất bản Thời đại.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích văn bản văn học theo đặc trưng thể loại
Đề tài đọc văn bản hai tác phẩm, tìm hiểu các ý nghĩa nội dung – mối quan
hệ giữa con ngƣời và thiên nhiên - đƣợc thể hiện qua các hình thức nghệ thuật
(ngơn ngữ, hình ảnh,…).
4.2. Phương pháp so sánh
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng nhằm tìm hiểu sự giống nhau và khác biệt
trong nội hàm cũng nhƣ hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con ngƣời và thiên
nhiên trong hai tiểu thuyết Ông già và biển cả và Săn cá thần.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đem lại một cái nhìn mới về cách thức thể hiện mối quan hệ giữa
con ngƣời và thiên nhiên trong hai tiểu thuyết ở hai nền văn học và hai thời đại khác
nhau, từ đó mở ra một hƣớng mới trong việc tiếp cận các tiểu thuyết.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Giới thuyết chung.
Chƣơng 2: Sự thống trị của con ngƣời trong mối quan hệ với thiên nhiên.
Chƣơng 3: Sự thất bại của con ngƣời trong mối quan hệ với thiên nhiên
8
Chƣơng 1: GIỚI THUYẾT CHUNG
1.1. Cơ sở lí thuyết
1.1.1. Các phương pháp chính trong Văn học so sánh
Văn học so sánh ở Việt Nam bắt đầu từ thế kỉ XX. Ngay từ khi xuất hiện, các
nhà lý luận đã không ngừng tìm tịi, học hỏi để bổ sung vào hệ thống lý thuyết,
đồng thời áp dụng vào thực tiễn để từng bƣớc thấy đƣợc những mối liên hệ giữa văn
học Việt Nam với văn học các dân tộc trên thế giới. Từ đó, họ cũng đƣa ra các nhận
định về văn học so sánh của riêng mình. Trong bài báo Văn học dịch và những vấn
đề lý luận của văn học so sánh, Trƣơng Đăng Dung đã định nghĩa về Văn học so
sánh nhƣ sau: “Văn học so sánh là một trong những ngành khoa học văn học,
nghiên cứu mối quan hệ qua lại cũng nhƣ những đặc điểm tƣơng đồng và khác biệt
giữa các nền văn học nhằm tiếp cận tiến trình văn học lớn nhất: Văn học thế
giới”[26]. Nguyễn Văn Dân, trong cuốn Lí luận văn học so sánh cũng viết: “Văn
học so sánh có thể đƣợc định nghĩa nhƣ là một bộ môn khoa học nghiên cứu các
mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc”[26].
Có thể thấy, các định nghĩa của các nhà lí luận trên đây có những chỗ khơng
hồn tồn giống nhau. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng văn học so sánh
là một bộ môn của khoa nghiên cứu văn học, một ngành khoa học độc lập tƣơng
đối, có mục đích, đối tƣợng đặc thù, có phƣơng pháp nghiên cứu riêng. Nghĩa là nó
có một cơ sở phƣơng pháp luận riêng. Nó cần đƣợc hiểu là khoa học so sánh trong
văn học nhƣ nhiều ngành khoa học khác mà không xác định trƣớc đƣờng biên. Vấn
đề không phải là so sánh các nền văn học, mà là tra vấn nền văn học bằng cách đặt
các tác phẩm vào nhóm, chuỗi, loại... để từ đó làm phát lộ những nét khác biệt của
tác phẩm, tác giả, văn bản... Nhƣ thế, tập hợp các tác phẩm không phải là một dữ
liệu nghiên cứu, mà là một chân trời/giới hạn nghiên cứu (horizon problematique)
mà nhà nghiên cứu tiến lại gần để nhận ra những giới hạn, đƣờng biên, những bƣớc
đi, những ngã tƣ - những khái niệm thƣờng đƣợc sử dụng trong nghiên cứu so sánh.
Nói cách khác, các nhà so sánh xây dựng các khơng gian mà trong đó họ nỗ lực tiến
lại những tác phẩm đƣợc thực hiện (viết/đọc/dịch) từ một nền văn hóa khác. Thế là
kẻ xa lạ trở thành đối tƣợng chính của nghiên cứu so sánh.
9
Có rất nhiều phƣơng pháp so sánh, phải kể đến 3 phƣơng pháp so sánh đại
diện của 3 trƣờng phái nghiên cứu văn học so sánh. Cụ thể:
Một là, so sánh ảnh hưởng của trƣờng phái Pháp: Trƣờng phái văn học so
sánh Pháp đi vào “nghiên cứu ảnh hƣởng” một bộ phận của lịch sử văn học nhằm
làm sáng tỏ ảnh hƣởng của nền văn học dân tộc này đối với văn học dân tộc khác,
thông qua các đại diện cụ thể với các quan hệ thực tế.
Trụ cột của trƣờng phái Pháp là P.Van Tieghem (1871-1948), J. M.Carré
(1887-1958) và M.F.Guyard (1921-). Các tác giả này đã đề xƣớng việc “nghiên cứu
ảnh hƣởng”. Trong cơng trình Bàn về văn học so sánh (1931), Van Tieghem cho rằng
văn học so sánh là một phân ngành của văn học sử, có nhiệm vụ khám phá nguồn gốc
ảnh hƣởng của một tác phẩm cũng nhƣ ảnh hƣởng của nó đối với sáng tác sau đó.
Nhƣ vậy văn học so sánh là sự mở rộng kết quả của các văn học sử, liên kết các kết
quả văn học sử này lại để tạo thành một lĩnh vực độc lập, có tác dụng “bổ sung cho
văn học sử dân tộc”. Văn học so sánh phải nghiên cứu ba yếu tố: ngƣời cung cấp,
ngƣời tiếp nhận, ngƣời truyền bá. Cho đến nay chỗ mạnh của trƣờng phái Pháp là
khai phá tƣ liệu, tìm tịi nhiều con đƣờng nghiên cứu ảnh hƣởng.
Hai là, so sánh sự tương đồng của trrƣờng phái Mỹ: Trƣờng phái Văn học so
sánh Mỹ tiến hành nghiên cứu sự tƣơng đồng giữa tác phẩm văn học của hai hay
nhiều nƣớc mà khơng có quan hệ ảnh hƣởng. Đồng thời đề xƣớng việc nghiên cứu
hàng ngang, đối chiếu song song theo từng vấn đề, nhƣ đối chiếu nghiên cứu văn
học hai nƣớc trở lên về các mặt thể loại, chủ đề, phƣơng thức biểu hiện…
Trƣờng phái Mỹ nổi tiếng với các tên tuổi nhƣ René Wellek, Harry Levin,
H. Remak, A.Warren, H.J.Clements,… Họ xuất hiện với tƣ cách là ngƣời phê phán
trƣờng phái Pháp, đổi mới phƣơng hƣớng nghiên cứu Văn học so sánh.
Ba là, so sánh loại hình lịch sử của trƣờng phái Nga. Đây là cống hiến đặc
sắc của văn học so sánh Xơ viết.
Khái niệm và quan niệm về các loại hình lịch sử của văn học các dân tộc qua
các thời kỳ lịch sử khác nhau đƣợc hình thành dựa trên triết học mác-xít và học
thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội. Với tinh thần tiếp thu chọn lọc và phê phán
các thành tựu của văn học so sánh phƣơng Tây, văn học so sánh Xô viết dần dần
10
xác lập quan điểm và phƣơng pháp của mình trên cơ sở triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử với các tên tuổi đầy uy tín nhƣ: V.Zhirmunsky, D.Likhatchev,
M.Alexeev, I.Anissimov và nhiều ngƣời khác. Nổi bật là N.Conrad với tác phẩm
Phương Tây và Phương Đông, biên soạn theo quan điểm văn học so sánh Xô viết.
Dựa trên triết học mác-xít và học thuyết về các hình thái kinh tế - xã hội, từ đó hình
thành khái niệm và quan niệm về các loại hình lịch sử của văn học các dân tộc qua
các thời kỳ lịch sử khác nhau.
Bốn là, các khuynh hướng khác
Bên cạnh các trƣờng phái văn học so sánh nói trên, các trung tâm nghiên cứu
văn học nhiều nƣớc trên thế giới cũng thể hiện những khuynh hƣớng nghiên cứu với
những định hƣớng và phƣơng pháp độc đáo.
Văn học so sánh xuất hiện ở Hunggari từ cuối TK XIX. Trong những năm
1941 và 1962, Hunggari đã tổ chức những cuộc hội nghị quốc tế về văn học so
sánh. Với hoạt động của các nhà khoa học nhƣ Istvan Soter, G.M.Vajda, văn học so
sánh Hunggari có đƣợc một gƣơng mặt rõ nét: nghiên cứu văn học Hunggari trong
văn cảnh văn học châu Âu, khám phá cội nguồn châu Âu của văn học Hunggari,
đồng thời vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp, thay thế nguyên tắc ảnh
hƣởng bằng nguyên tắc tiếp nhận, làm cho văn học so sánh nƣớc này đứng vào hàng
ngũ những nƣớc hàng đầu của ngành nghiên cứu này.
Một số nƣớc nhƣ Tiệp Khắc, Rumani, Ba Lan… cũng có nhiều thành quả,
hình thành những tên tuổi có uy tín trong nghiên cứu văn học so sánh. Những năm
gần đây, ngành văn học so sánh Trung Quốc đã hồi sinh sau khi khắc phục các hậu
quả của thời kỳ cách mạng văn hóa. Là những ngƣời đi sau, các nhà văn học so
sánh Trung Quốc đã học tập, vận dụng các phƣơng pháp, quan niệm hiện đại của
văn học so sánh, khắc phục các quan niệm cũ, đồng thời họ cũng xác định cho mình
một hƣớng đi riêng. Đó là nghiên cứu so sánh văn học Trung Quốc và phƣơng Tây.
1.1.2. Mơ hình đặt cạnh nhau trong văn học so sánh
Đề tài này xuất phát từ mơ hình so sánh cận kề vốn đƣợc phát triển trong
ngành văn học so sánh (the juxtapositional model of comparative literature) từ
những năm cuối thế kỉ XX. Mơ hình này nhấn mạnh “sự kết nối các văn bản thuộc
11
các nền văn hóa, nơi chốn và thời gian khác nhau; đƣa các văn bản từ ngữ cảnh này
sang một ngữ cảnh khác mà không kể tới sự gắn kết về địa lí - lịch sử và văn hóa
khác nhau của chúng”[20]...Nhƣ thế, các tác phẩm văn học đƣợc tách ra khỏi bối
cảnh truyền thống và đặt chúng vào những bối cảnh mới. Các bối cảnh mới này xuất
hiện khi tác phẩm đƣợc “đặt cạnh”, đƣợc“cắt ghép”, và đƣợc “va chạm” với những
tác phẩm khơng có sự gắn kết và tƣơng ứng với nó về địa lí, lịch sử, ngơn ngữ, văn
hóa, thể loại và về vị trí trong bức tranh văn học thế giới. Đặc trƣng của bƣớc ngoặt
này theo quan sát của Christian Moaru, đƣợc thể hiện là “các nhà văn học so sánh
hiện nay đƣợc khuyến khích hơn bao giờ hết […] trong việc thừa nhận tính năng
động, […] tính phi đồng nhất, bất hợp lí, sự xung đột hay xung khắc – của các mơ
hình thế giới.” Ông chỉ ra rằng cơ cấu mới này của ngành văn học so sánh “đang
từng bƣớc hƣớng tới một mô thức liên kết hay quan hệ đƣợc hứa hẹn trong những
kết nối xuyên - văn hóa, xuyên - địa lí đã thực sự diễn ra trên phạm vi tồn cầu cũng
nhƣ trong cả sự kề cận, sự vay mƣợn hay đổi chác.”[21].
Susan Stanford Friedman trong bài viết Tại sao không so sánh? (Why Not
Compare”), một bài viết đƣợc cho là bàn luận một cách tập trung và hệ thống nhất
về mơ hình cận kề, cho rằng, hƣớng văn học so sánh này đề xƣớng một “bộ khung
so sánh đối chiếu” và đƣợc xác định thông qua “sự tiếp giáp ngẫu nhiên, sự cách ly
mang tính phả hệ, và sự đụng độ đạo đức.” Việc so sánh hai tác phẩm xa lạ với
nhau sẽ làm phát lộ ra những ý nghĩa mới, khác với các ý nghĩa quen thuộc trƣớc đó
của tác phẩm khi chúng đứng một mình hay đƣợc so sánh với những tác phẩm khác.
Theo tổng hợp của TS. Phạm Phƣơng Chi, Friedman đã tổng hợp ba cách thức của
mơ hình đặt cạnh nhau trong văn học so sánh. Thứ nhất, đó là cách thức va chạm
nhau (collision). Đây là phƣơng thức dựa trên “việc biết đọc ra mối quan hệ” và
“việc nhận ra sự khác nhau” vốn sinh ra từ những bối cảnh lịch sử, địa lí khác biệt
và không tƣơng xứng của hai tác phẩm. Ngƣời tiến hành so sánh phải “lắng nghe,
nói, và sống với” những cộng đồng đa dạng, những suy nghĩ mới mẻ vốn sẽ xuất
hiện khi “đặt cạnh nhau một cách cực đoan” những tác phẩm khác nhau, không
xung đột nhau nhƣng khơng tƣơng thích nhau.[21]
Thứ hai, đó là cách thức “phá vỡ sự quen thuộc lẫn nhau” [reciprocal
12
defamilization]. Cách thức này này chấp nhận sự không quen thuộc hay sự xa lạ
xuất hiện trong phép so sánh, từ đó phát triển ý thức về sự cộng sinh và sự cùng tồn
tại của các nền văn học và văn hóa khác biệt. Theo Friedman, trong cách thức “phá
vỡ sự quen thuộc lẫn nhau” này, các vế trong phép so sánh đƣợc lấy từ một hệ
thống ý nghĩa lớn hơn của chúng, bản thân chúng đã đầy tiềm năng trong việc mở
cửa cho những ảnh hƣởng và phạm vi khác trong các phép lai ghép. Và ở phƣơng
thức này, các vế đƣợc so sánh sẽ “trở nên có thể nghe thấy nhau”, đối thoại đƣợc
với nhau vì chúng thừa nhận sự tồn tại của những điều khác biệt với nó. Do vậy,
cách thức này có tiềm năng trong việc tháo gỡ mối quan hệ đối lập giữa Ta và Kẻ
khác – mối quan hệ vốn sẽ duy trì các hệ thống mang tính thống trị về nhận
thức[31;758].
Thứ ba là cách thức cắt dán (Collage). Phƣơng thức này, nhƣ Friedman viết,
đƣợc mƣợn từ mƣợn từ chủ nghĩa dada và thi học hiện đại đặt cạnh nhau những câu
không liên quan. Phƣơng thức này duy trì tính cụ thể riêng biệt của từng vế so sánh,
nó từ chối trật tự trên dƣới và xu hƣớng công cụ (instrumentalism), với mục tiêu là
xác nhận những khái quát mới dựa trên những điểm mà các văn bản chia sẻ với
nhau. Friedman dùng các thuật ngữ tƣơng đƣơng “cách đặt cạnh nhau về văn hóa”
hay “sự cắt dán văn hóa” để chỉ việc đặt cạnh nhau một cách cực đoan những văn
bản đến từ những khu vực văn hóa, địa lý lịch sử khác nhau. Việc đặt các văn bản
cạnh nhau, nghiên cứu tính có thể so sánh/khơng thể so sánh của chúng sẽ làm nảy
sinh các nghĩa mới cho văn bản và làm phát lộ những ngữ cảnh, bối cảnh mới về
văn bản[20].
Đề tài này đặt cạnh nhau hai tác phẩm thuộc hai nền văn hóa và hai giai đoạn
lịch sử khác biệt nhau là tiểu thuyết Săn cá thần của Đặng Quang Thiều và Ông già
và biển cả của Ernest Hemingway. Từ đó khám phá sự tƣơng đồng, sự đối thoại, sự
kế tiếp trong nội hàm và sự biểu đạt về mối quan hệ con ngƣời và thiên nhiên của
hai tác giả trong hai tác phẩm.
1.2. Nhà văn Ernest Hemingway và nhà văn Đặng Thiều Quang
1.2.1. Nhà văn Ernest Hemingway:
Ernest Hemingway là một nhà văn nổi tiếng của nền văn học Mĩ. Ông sinh
13
ngày 21 tháng 7 năm 1899 tại thị trấn Oak Pak, Illinois - một vùng ngoại ô nƣớc Mĩ
trong một gia đình trung lƣu. Cha mẹ Hemingway là những ngƣời có ảnh hƣởng rất
lớn đối với ơng. Nếu tiết điệu ngôn từ của nhà văn sau này chịu nhiều ảnh hƣởng từ
những giai điệu tiết tấu trong những bản nhạc của ngƣời mẹ thì lịng u thiên
nhiên, thú vui săn bắn nhƣng khơng đam mê giết chóc và một lịng quả cảm tuyệt
vời của Hemingway lại đƣợc khơi dậy từ ngƣời cha. Hemingway cũng chịu nhiều
ảnh hƣởng từ cha cách giải thích sự vật, hiện tƣợng một cách cực kỳ đơn giản và
hấp dẫn, điều này tạo nên dấu ấn riêng trong phong cách tự sự Hemingway.
Ngay từ khi còn học ở trƣờng trung học, Hemingway đã bắt đầu viết văn và
tham gia vào các hoạt động báo chí của trƣờng. Năm 1917, ơng rời trƣờng trung
học. Thay vì đi học đại học, ơng tới thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo
The Kansas City Star. Vốn là ngƣời ƣa thích mạo hiểm nên nghề phóng viên khơng
hấp dẫn ơng đƣợc lâu. Hemingway rời tịa báo, tình nguyện đăng ký vào Hội hồng
thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nƣớc Ý làm tài xế xe cứu thƣơng. Đến năm 1919,
Hemingway trở về Hoa Kỳ. Tại đây ông đƣợc đón tiếp nhƣ một vị anh hùng song
ơng cảm thấy khơng thể nào hồ nhập vào khơng khí nơi đây. Năm 1920, ông đến
Chicago và cộng tác với tờ báo nổi tiếng “Diễn đàn Chicago”. Tháng 12 – 1921,
ông sang Pháp và có dịp tiếp xúc với nhiều văn nghệ sĩ Pari nhƣ Anderson,
Getrrudestein… Hemingway chịu nhiều ảnh hƣởng của những văn nghệ sĩ này khá
rõ nét khi mới bắt đầu sáng tác.
Năm 1936, Hemingway tới Tây Ban Nha làm phóng viên về nội chiến Tây
Ban Nha cho tờ North American Newspaper Alliance (Liên Minh Báo chí Bắc
Mỹ). Chiến tranh thế giới II bùng nổ, ông sang Pháp sung vào một đội du kích và
đƣợc vinh dự là một trong những chiến sĩ đầu tiên trở về thành phố Paris giải
phóng. Sau chiến tranh, Hemingway có một thời gian dài sống ở Cuba. Ơng đón
chào cách mạng Cuba với nhiệt tình của một nhà văn u chuộng chính nghĩa và
một ngƣời bạn thân thiết của ngƣời dân Cuba.
Sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động với các cuộc chiến tranh xảy
ra liên tục, Hemingway đã chứng kiến biết bao số phận đau khổ, những cuộc đời bị
chiến tranh cƣớp mất. Ơng tìm đƣợc sự đồng cảm với những số phận nhỏ bé, yếu
14
thế và chọn họ làm hình mẫu sáng tác. Đi nhiều, viết nhiều nên những sáng tác của
Hemingway thƣờng ngắn gọn, súc tích. Ơng viết về những con ngƣời khắc kỉ và
ông ca ngợi sự mạnh mẽ không hề yếu đuối của họ [4;5].
Hơn 40 năm sáng tác, Hemingway đã để lại một số lƣợng lớn các tác phẩm
có giá trị mang tính thời đại và con ngƣời. Có thể kể đến tập truyện ngắn “Trong
thời đại của chúng ta” (tựa gốc: In Our Time) của ông đƣợc xuất bản năm 1925,
“Mặt trời vẫn mọc” (1926), “Giã từ vũ khí” (1929), “ Winner Take Nothing” (Kẻ
thắng chẳng đƣợc gì) (1933), “To Have and Have Not” (Có và khơng có) (1937),
“For Whom the Bell Tolls” (Chuông nguyện hồn ai) (1940), “The Old Man and the
Sea” (Ông già và biển cả) (1952)…
Năm 1954, Hemingway đƣợc viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel
văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần
đây nhất qua tác phẩm Ông già và biển cả. Ngày 2 tháng 7 năm 1961, cả thế giới
bàng hoàng trƣớc tin Hemingway – “một con ngƣời có thể bị huỷ diệt nhƣng không
thể bị khuất phục” – đã tự sát bằng khẩu súng săn của mình. Trong suốt 62 năm tồn
tại, nhà văn, nhà báo đồng thời cũng là ngƣời chiến sĩ Hemingway đã gióng lên hồi
chng ngợi ca lịng dũng cảm, phê phán cái xấu trong cuộc đời. Giữa những làn khói
đạn ngất trời, Hemingway đã làm đẹp con ngƣời. Giữa biển sóng mù khơi,
Hemingway đã tơn vinh giá trị con ngƣời. Nhƣ ngôi sao chổi băng qua thế kỷ XX,
Hemingway đã đi vào lịch sử văn học nhƣ một huyền thoại giữa cuộc đời thƣờng.
1.2.2. Nhà văn Đặng Thiều Quang:
Đặng Thiều Quang là một nhà văn trẻ của Việt Nam. Anh sinh năm 1974 tại
Lào Cai, trong một gia đình viên chức bình thƣờng. Ngay từ khi cịn nhỏ, chất văn
chƣơng đã ngấm trong máu anh do ảnh hƣởng từ ngƣời mẹ là giáo viên văn. Khi
còn là sinh viên năm nhất trƣờng Đại học Kiến trúc, Đặng Thiều Quang đã là cây
bút khá nổi tiếng với bút danh d‟Artagnan, có nhiều tác phẩm đăng trên báo Hoa
học trò và báo Tiền phong.
Ban đầu, Đặng Thiều Quang đến với văn chƣơng khơng gì ngồi chữ
“ngơng”. Sự xuất hiện của d‟Artagnan với cách viết bỡn cợt, hài hƣớc, khác hẳn với
những kiểu viết trong trẻo, mơ màng, đậm chất lãng mạn đang tràn ngập trên các
15
trang báo Hoa học trò thời bầy giờ đã đem lại cho ngƣời đọc một làn gió mới.
Ngƣời ta khơng biết Đặng Thiều Quang là ai mà chỉ quan tâm đến những gì
d‟Artagnan viết. Khi cịn là một chàng sinh viên cịn lắm mộng mơ và có nhiều thời
gian, Đặng Thiều Quang viết rất hăng. Trong 5 năm, anh hoàn thành tiểu thuyết
“Hoen gỉ”, truyện dài “Tôi và d‟Artanan” cùng khoảng 40 truyện ngắn. Cũng nhờ
viết khỏe, anh tìm ra đƣợc niềm u thích của mình ở tiểu thuyết và cảm thấy mình
phù hợp với thể loại này. Với mong muốn gắn bó với việc viết văn và bán sách do
mình viết để sống, Đặng Thiều Quang quyết định Nam tiến. Anh mang bản thảo tiểu
thuyết “Hoen gỉ” đi dự thi Văn học tuổi 20 nhƣng không đƣợc giải. Bản thảo gửi
NXB Trẻ cũng khơng có hồi đáp. Vỡ mộng, Đặng Thiều Quang quay trở lại Hà Nội.
Năm 1997, sau khi tốt nghiệp ra trƣờng, trong lúc kinh tế đình trệ, nghề kiến
trúc không sử dụng đƣợc, lại phải đối mặt với chuyện tự lực cánh sinh lo cơm áo
gạo tiền, Đặng Thiều Quang quyết định dừng viết văn, mở quán cà phê, kinh doanh
thêm game online. Đến năm 2002, cơng việc kinh doanh khó khăn, nhiều thời gian
nhàn rỗi, anh có điều kiện viết nốt cuốn tiểu thuyết dang dở 5 năm trƣớc: “Chờ
tuyết rơi”. Khi viết đoạn kết cuốn tiểu thuyết, Đặng Thiều Quang cảm thấy mình
thực sự đƣợc tự do. Anh bắt đầu chất vấn bản thân tại sao phải sống trong nhàm
chán nhƣ những ngày qua. Đặng Thiều Quang quyết định quay lại nghề kiến trúc.
Nhƣng ngay cả khi quay lại nghề thì đam mê viết dƣờng nhƣ vẫn khơng ngừng
trong anh. Thú vui giải trí thƣờng ngày của Đặng Thiều Quang là vào mạng, lang
thang viết blog, entry cùng những đoản văn ngắn. Khi việc viết đƣợc lặp lại, thêm
một lần nữa Đặng Thiều Quang nhận ra bản thân khơng thích hợp với nghề kiến
trúc. Mong muốn thực sự của anh là viết và đƣợc tập trung sức vào viết. Đến năm
2007, Đặng Thiều Quang rời văn phòng kiến trúc, trở thành cây bút tự do. Thời
điểm này, Đặng Thiều Quang có tham gia viết báo, nhƣng có lẽ nghề báo khơng
hợp với anh nên anh chỉ có mấy bài báo viết về du lịch, ẩm thực, phƣợt, câu cá…
ngồi ra khơng có thành tựu gì thêm.
Sở thích của Đặng Thiều Quang là câu cá. Năm 2006, anh tham gia vào câu
lạc bộ câu cá. Ở đây anh tìm đƣợc niềm vui thực sự của mình. Những chuyến đi dài
cùng những ngƣời bạn trong câu lạc bộ đã giúp Đặng Thiều Quang có thêm những
16
trải nghiệm ở nhiều vùng đất mới. Cảnh vật, cuộc sống và những con ngƣời đã gặp
trong những chuyến đi đã mang lại cho anh những nguồn tƣ liệu quý báu cho việc
viết. Các tác phẩm tiêu biểu của Đặng Thiều Quang phải kể đến Hoen gỉ (1996). Tôi
và d’Artagnan (2007), Chờ tuyết rơi (2007), Đảo cát trắng (2008), Bóng giai nhân
(2009), Phải lòng (2009). Năm 2013, tiểu thuyết Săn cá thần đƣợc xuất bản đánh
dấu sự trở lại Đặng Thiều Quang với một văn phong mới mẻ, trần trụi và chân thực
hơn. Hiện nay anh đang tiếp tục hoàn thiện phần hai của tiểu thuyết Săn cá thần.
Tác phẩm của Đặng Thiều Quang kén độc giả, nhƣng khi đã vƣợt qua đƣợc trang
đầu tiên thì sẽ bị cuốn hút theo.
1.3. Tác phẩm Ông già và biển cả và Săn cá thần:
1.3.1. Tác phẩm “Ông già và biển cả”
Ông già và biển cả (The Old Man and the Sea) đƣợc viết tại Cuba vào năm
1951 và xuất bản vào năm 1952. Đây là tác phẩm quan trọng cuối cùng trong loạt
truyện hƣ cấu đƣợc sáng tác bởi Hemingway, cũng là tác phẩm mang lại cho ông
giải Nobel văn học danh giá của Viện Hàn lâm Thụy Điển năm 1954. Câu chuyện
kể về ông già Santiago, 74 tuổi, làm nghề đánh cá. Ơng ln mơ ƣớc đánh đƣợc một
mẻ cá lớn, xứng đáng với uy danh của ơng thời cịn trai trẻ. Nhƣng suốt 84 ngày
liền, ông lão không bắt đƣợc một mống cá nào. Dân làng chài cho rằng lão đã đi đứt
vì vận rủi. Những ngày đầu cịn có cậu bé láng giềng Manolin đi cùng ơng. Nhƣng
vì thấy ông thƣờng kém may mắn nên bố mẹ Manolin buộc cậu đi theo thuyền khác.
Không từ bỏ hy vọng, ngày thứ 85, ông lão Santiago lại giong buồm ra khơi. Lần
này, ơng lão quyết định đi thật xa. Một mình lão đến tận vùng Giếng Lớn. Suốt một
ngày ông lão lênh đênh trên biển mà vẫn khơng có con nào mắc câu. Đêm ngủ, lão
mơ về thời trai trẻ với tiếng sóng gào, hƣơng vị biển, những con tàu và đàn sƣ tử.
Vận đen kéo dài, đã có lúc ơng lão tƣởng chừng hoàn toàn tuyệt vọng. Cuối cùng
một con cá đã mắc câu. Sức nặng của con cá cho lão biết đó là một con cá rất lớn.
Con cá mạnh mẽ chống trả khiến ông lão không dễ dàng kiểm sốt và chinh phục
đƣợc nó. Thậm chí, con cá cịn kéo thuyền của ơng lão đi theo ý muốn của nó.
Đã qua một ngày con cá vẫn chƣa có dấu hiệu dừng lại. Nó vẫn lặn sâu dƣới
nƣớc và chầm chậm lôi con thuyền của Santiago đi theo. Santiago đã phải dùng hết
17
sức lực và kinh nghiệm đi biển của mình để giữ con cá. Ông lão đã phải cắt bớt dây
câu nối vào một con cá khác mắc mồi, dồn sức để chống đỡ với con cá. Có lần con
cá quẫy mạnh kéo giật ông lão ngã dập xuống sàn thuyền, làm toạc da phía đi
mắt. Hai bàn tay ơng lão ứa máu vì bị sợi dây cứa mạnh khi lão gồng mình lên để
giữ sợi dây câu. Nhiều lần ơng ƣớc có Manolin ở đây giúp ơng một tay.
Ngày thứ hai rƣợt đuổi, con cá bắt đầu nổi lên. Nhìn cái bóng đen của nó
dƣới làn nƣớc, ơng lão đã khơng khỏi kinh ngạc. Nó dài hơn con thuyền của lão cả
mấy tấc. Khoảnh khắc con cá nhảy lên khỏi mặt nƣớc, ông lão biết con cá Kiếm này
lớn hơn tất thảy so với những con cá ơng từng nhìn thấy. Nó lớn hơn tất cả những
con cá lớn khác mà cánh thuyền chài đã truyền tụng. Một con cá hùng dũng ông
từng mơ ƣớc. Con cá vẫn không dừng lại. Nó tiếp tục thay đổi lộ trình, kéo chiếc
thuyền cùng ông lão về phái đông với sức mạnh to lớn của mình. Sang đến ngày thứ
ba, mặc dù con cá đã mất sức nhƣng nó vẫn lƣợn những vịng rất lớn. Nó khiến ơng
lão phải chật vật chống đỡ. Ông lão Santiago phải dùng toàn bộ sức mạnh cũng nhƣ
kinh nghiệm mình có mới có thể dùng lao đâm chết con cá. Ơng lão cũng đã rất khó
nhọc mới có thể buộc nó vào mạn thuyền mang về.
Tuy nhiên, trên đƣờng đƣa con cá về bờ, đám cá mập đã đánh hơi đƣợc con
mồi. Từng đàn cá mập hung dữ hết lƣợt này đến lƣợt khác lao tới tấn công, xé thịt
con cá Kiếm. Suốt cả ngày hôm ấy, ông lão phải dùng chút sức lực tàn và những thứ
còn lại trên thuyền để chiến đấu với lũ cá mập. Khi ông lão mệt mỏi rã rời vào đến
bờ thì con cá Kiếm “dài hơn chiếc thuyền có tới sáu bảy tấc” kia chỉ còn trơ bộ
xƣơng… Nhƣng dù phải đơn độc chiến đấu đến kiệt sức, ông lão vẫn nghĩ “không
một ai cô đơn nơi biển cả”. Đêm hôm thứ ba, lão Santiago vác cột buồm trên vai trở
về lều. Lão nằm vật xuống giƣờng, chìm vào giấc ngủ. Lão mơ về những con sƣ tử.
Ngoài bờ biển, bên chiếc thuyền, xƣơng sống của con cá Kiếm kẻ thành một đƣờng
thẳng trơ trụi…Sáng sớm hôm sau, khi cậu bé Manolin mang đồ ăn đến lều, ông lão
mới tỉnh dậy. Ơng khó nhọc nói với Manolin: “Ơng đã thất bại. Ông đã thật sự thất
bại, Manolin ạ”.
Chỉ bằng 115 trang tiểu thuyết ngắn ngủi, Hemingway đã vẽ nên một bức
tranh đối lập giữa một bên là con ngƣời nhỏ bé với một bên là đại dƣơng rộng lớn
18
khơn cùng. Từ đó đề cao vẻ đẹp ẩn chứa bên trong mối quan hệ giữa thiên nhiên và
con ngƣời. Đây cũng là điều đặc biệt làm nên sức hút của tác phẩm. Có thể nói, đây
là một trong những tác phẩm nốt bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Cũng nhờ cuốn tiểu thuyết này, Hemingway đã vinh dự đƣợc nhận giải
thƣởng Nobel Văn học năm 1954.
1.3.2. Tác phẩm “Săn cá thần”
Săn cá thần đƣợc khởi viết từ năm 2009 và chính thức ra mắt năm 2013. Săn
cá thần là một tiểu thuyết phiêu lƣu, kinh dị kể về một cuộc đi săn con cá thần ở
vùng sông Thiêng thuộc một huyện vùng Tây Bắc của hai gã đàn ông, một ngƣời
chủ động và một ngƣời thụ động, để rồi cả hai cùng bị cuốn vào vào cuộc săn con
cá thần đó.
Đƣợc một ngƣời dân thơng báo vùng sơng Thiêng có một con cá to khủng
khiếp, nó mới xuất hiện trở lại sau nhiều năm biến mất, ngƣời dân gọi nó là con cá
thần, Tú khỉ hăm hở rủ cậu bạn thân Đăng cuội đi săn con cá. Đang buồn chán
chuyện gia đình, Đăng cuội gật đầu đi nhƣ một sự lẩn tránh thực tại. Hành trình đi
săn bắt đầu, Tú khỉ mang theo đủ đồ nghề của một kẻ đi câu chuyên nghiệp kèm
theo hai cô em nõn nà để cuộc săn thêm phần náo nhiệt. Điểm dừng chân là sông
Thiêng ở vùng Tây Bắc. Con cá đầu tiên mà Tú khỉ câu đƣợc là con cá lăng khá to,
phải mất hơn ba tiếng đồng hồ Tú khỉ và Đăng mới lơi đƣợc nó lên bờ trong sự
phấn khích, reo hị của hai cơ gái. Cùng lúc đó, Đăng cuội phát hiện một chiếc cần
câu bị mất. Nhìn những vết kéo để lại trên cát, Tú khỉ khơng khỏi hậm hực vì nghĩ
rằng mình đã để xổng mất con cá thần. Mặc cho Tú khỉ vừa hậm hực vừa xẻ thịt con
cá lăng, Đăng cuội cùng hai cô gái kéo chiếc thuyền Kaiyak chèo ra xa, tí bị hút vào
vực xốy. Thật may mắn, Đăng cuội đƣợc cha con ông Văn cứu sống. Tú khỉ và
Đăng cuội nhận ông Văn là cha nuôi và nhận Vân là em gái. Mặc dù ông Văn đã
nhắc nhở và khuyên cả hai đừng cố săn con cá thần vì nó sẽ khơng mang lại điều gì
may mắn, nhƣng Tú khỉ vẫn một mực câu cho bằng đƣợc.
Buổi tối, con cá thứ hai cắn câu. Đó là một con cá to, chừng hai mƣơi cân.
Trong khi Tú khỉ đang đánh vật để đƣa con cá vào bờ thì một tiếng động khủng
khiếp dội lên khiến tất cả đều giật mình kinh hãi. Khi chiếc cần câu đƣợc kéo lên
19
chỉ còn lại cái đầu con cá măng lủng lẳng, máu chảy rịng rịng. Tồn bộ phần thân
của nó biến mất nhƣ bị cắt một phát rất ngọt đến sát mang. Ơng Văn khơng nói gì,
cịn Tú khỉ càng chắc chắn rằng con cá thần đang ở gần đây, nên càng quyết tâm
câu cho bằng đƣợc. Mấy ngày liền Tú khỉ khơng câu đƣợc con gì, đến ngày thứ năm
hay thứ sáu gì đó, một cơn lũ qt bất ngờ tràn về. Tú khỉ và Đăng cuội may mắn
thoát chết, nhƣng tồn bộ xe ơ tơ và những đồ mang theo bị dịng nƣớc cuốn trơi
mất. Mấy hơm trƣớc, chiếc mề gà đựng toàn bộ giấy tờ, máy ảnh, điện thoại, khóa
xe, chiếc nhẫn cƣới và ảnh của đứa con gái Tú khỉ cũng bị Đăng cuội vơ tình làm
văng xuống sông và bị con cá thần nuốt mất.
Khi lết về Hà Nội, Tú khỉ và Đăng cuội liên tục gặp những giấc mơ kì lạ,
giống hệt nhau và rất nhiều chuyện đen đủi sau đó xảy ra với cả hai. Đăng cuội thì
mất việc, vợ con bỏ về nhà ngoại, địi li hơn, cịn Tú khỉ thì thua sạch tiền bạc do
nƣớng vào lơ đề vì những giấc mơ về con cá thần. Cả hai tìm đến nhà thầy bói,
nhƣng bà thầy cũng lắc đầu bởi “nó ghê gớm” quá. Nhƣng điều khiến Tú khỉ phấn
khích là anh ta đã theo sát đƣợc từng sự di chuyển của con cá thần thơng qua thiết bị
định vị trong chiếc chìa khóa mà nó đã nuốt vào bụng cùng chiếc mề gà. Tú khỉ
chắc chắn là sẽ tóm đƣợc nó. Một trận đi câu nữa đƣợc tổ chức kèm theo một vụ cá
độ bạc tỉ giữa Tú khỉ và đại gia Toàn gạch. Đăng cuội một lần nữa tham gia, một
phần vì lời hứa sẽ chia đơi tiền thƣởng của Tú khỉ, một phần vì muốn gặp lại Vân,
cơ gái đã khiến Đăng có nhiều vấn vƣơng bởi vẻ đẹp và sự thuần khiết của cô.
Cuộc đi câu thứ hai bắt đầu với sự kích động của tất cả những ngƣời tham
gia. Chuyến đi câu lần này cịn có thêm thầy Nghi - ông thầy nổi tiếng về bắt ma đƣợc mời theo để làm lễ trừ tà cho cả đoàn. Mặc dù ông Văn đã cố gắng can ngăn
nhƣng cũng không cản đƣợc Tú khỉ cùng đám ngƣời điên rồ kia bởi ham muốn
chinh phục và sự hấp dẫn của món tiền thƣởng. Những phƣơng tiện câu cá hiện đại
nhất đƣợc giăng ra để săn con cá thần. Trong lúc cả bọn đứng nghe Tú khỉ dặn dị
thì thầy Nghi đang cúng ở sông bị con cá thần đớp, lôi tuột ra giữa sông trƣớc sự
hoảng loạn của cả bọn. Thầy Nghi đƣợc cứu sống nhƣng bị cắn đứt một tay. Lúc
này, một vụ ẩu đả xảy ra giữa Toàn gạch và Tú khỉ vì chuyện tiếp tục vụ cá cƣợc
hay dừng lại. Vụ ẩu đả làm kinh động đến cả đồn biên phòng. Vụ việc cuối cùng