TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ DU LỊCH
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: ĐHSP Ngữ văn
Phú Thọ, 2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ VĂN HOÁ DU LỊCH
NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG
CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: ĐHSP Ngữ văn
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Hán Thị Thu Hiền
Phú Thọ, 2020
i
LỜI CAM KẾT
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm đạo đức trong học thuật. Tôi
cam kết nghiên cứu này là do tôi thực hiện đảm bảo trung thực, không vi phạm
yêu cầu về đạo đức trong học thuật.
Tác giả
Nguyễn Thị Lan Hương
Nhận xét của GVHD
ii
LỜI CẢM ƠN !
Với tấm lịng kính trọng và biết ơn, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
Lãnh đạo Trường Đại Học Hùng Vương, Lãnh đạo Khoa Khoa học Xã hội và Văn
Hóa Du Lịch, các thầy giáo, cô giáo trong khoa đã giúp em trang bị kiến thức, tạo
điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và thực hiện khóa luận.
Đặc biệt em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến cô giáo, ThS. Hán Thị
Thu Hiền - Người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo em trong suốt quá trình nghiên
cứu và thực hiện khóa luận.
Để hồn thành khóa luận này, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành
đến Ban giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo cùng tồn thể các em học sinh trường
THPT Việt Trì đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong suốt
q trình thực nghiệm để em hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
Trong suốt q trình thực hiện khóa luận, em nhận được sự quan tâm, sự động
viên, tạo mọi thuận lợi cả về vật chất và tinh thần của gia đình và bạn bè. Thơng
qua đây, em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những tấm lịng và sự giúp đỡ q
báu đó.
Em xin chân thành cảm ơn!
Phú Thọ, Ngày 25 tháng 5,năm 2020
Sinh viên
Nguyễn Thị Lan Hương
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM KẾT ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ! ..................................................................................................... ii
MỤC LỤC ............................................................................................................ iii
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ................................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.............................................................. 5
4. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6
7. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 7
8. Bố cục của khóa luận: ....................................................................................... 7
B. NỘI DUNG....................................................................................................... 8
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ VÀ THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU ....................................................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về “Chủ đề đời tư” .............................................................. 8
1.1.1. Khái niệm chủ đề đời tư .............................................................................. 8
1.1.2. Đôi nét về chủ đề đời tư trong văn học trung đại Việt Nam ....................... 9
1.2. Tác giả Nguyễn Du và thơ chữ Hán Nguyễn Du ......................................... 13
1.2.1. Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc. ............................................................. 13
1.2.2. Thơ chữ Hán – Nhật ký tâm trạng, nhật ký hành trình ............................. 16
Tiểu kết chương 1................................................................................................ 22
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ TRONG THƠ CHỮ
HÁN CỦA NGUYỄN DU ................................................................................. 23
2.1. Chủ đề đời tư qua bức chân dung tự họa ..................................................... 23
2.1.1. Chủ đề đời tư qua diện mạo, sức khỏe ...................................................... 23
2.1.2. Chủ đề đời tư qua các chặng đường đời.................................................... 29
2.1.3. Chủ đề đời tư qua tính cách, tâm hồn ....................................................... 35
2.2. Chủ đề đời tư qua các mối quan hệ riêng tư ................................................ 36
iv
2.2.1. Quan hệ gia đình ....................................................................................... 36
2.2.2. Quan hệ bạn bè, làng xóm ......................................................................... 39
Tiểu kết chương 2................................................................................................ 44
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ TRONG THƠ
CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU ....................................................................... 45
3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật ............................................................. 45
3.1.1. Không gian nghệ thuật .............................................................................. 45
3.1.2. Thời gian nghệ thuật.................................................................................. 49
3.2. Giọng điệu nghệ thuật .................................................................................. 53
3.3. Bút pháp nghệ thuật ..................................................................................... 57
3.3.1. Bút pháp tả cảnh ngụ tình.......................................................................... 57
3.3.2. Bút pháp tương phản ................................................................................. 61
Tiểu kết chương 3................................................................................................ 64
C. KẾT LUẬN ................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 67
PHỤ LỤC
1
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nguyễn Du được xếp vào hàng những tác gia vĩ đại nhất của nền văn học
Việt Nam thời trung đại. Ông được nhân dân mệnh danh là đại thi hào dân tộc,
là danh nhân văn hóa thế giới với những tác phẩm vang dội cả một vùng trời
văn học. Truyện Kiều tên trước kia là Đoạn trường tân thanh là một đỉnh cao
chói lọi trong sáng tác của Nguyễn Du với nội dung sâu sắc và nghệ thuật thành
công. Cho đến nay, dù đã trải qua hơn 200 năm nhưng Truyện Kiều vẫn khơng
ngừng được nghiên cứu, tìm tịi và đánh giá ở những góc khuất chưa chạm tới.
Và cũng chính vì cái ánh sáng chói lọi và sức ảnh hưởng diệu kỳ đó phần nào
đã che mờ đi một thế giới khác của Nguyễn Du. Cái thế giới đời tư mà ở đó ta
có thể trực tiếp thấu hiểu những tâm tình với biết bao suy tư, trăn trở của ơng
được thể hiện qua ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp
ngâm và Bắc Hành tạp lục.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du phần lớn được viết trong khoảng thời gian
ông làm quan dưới triều Nguyễn. Nội dung thơ đề cập đến nhiều mảng chủ đề.
Trong đó “chủ đề đời tư” chiếm số lượng không hề nhỏ. Những dịng thơ ơng
viết cho riêng mình, về đời sống cá nhân và những mối quan hệ tình cảm riêng
tư. Đọc thơ, ta có thể phần nào mường tượng ra bức chân dung tự họa của đại
thi hào dân tộc này.
“Chủ đề đời tư” đã khơng cịn xa lạ, tuy nhiên trong văn học trung đại do
ảnh hưởng sâu đậm của hệ tư tưởng Nho – Phật – Lão, xã hội với những quy
định nghiêm ngặt vì vậy các sáng tác phần lớn phải chịu sự ràng buộc của khuôn
phép, đi theo lề lối kinh điển, khơng được phóng khống cởi mở như trong văn
học hiện đai. Song điều đáng quý nhất là mặc dù chịu sự chi phối của tính quy
phạm người ta vẫn thấy sự bộc bạch cảm xúc cá nhân của những tâm hồn nghệ
sĩ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến…
Và tiêu biểu đó là những cung bậc cảm xúc trong chủ đề đời tư của Nguyễn Du
qua mảng thơ chữ Hán mà hiện nay rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tới.
2
Mỗi người một cảm nhận, một góc nhìn. Mỗi người một hướng nghiên
cứu khác nhau. Bản thân là một người không biết chữ Hán. Qua đọc phiên âm,
dịch nghĩa tôi mới chập chững cảm nhận từng chút một về nhà thơ mình u
mến. Dựa trên cơng trình của những người đi trước đã nghiên cứu gần kề về
thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng như chủ đề đời tư của ông.
Xuất phát từ những lí do trên cùng với sự yêu thích của bản thân dành cho
thơ ca Nguyễn Du đặc biệt là thơ chữ Hán của thi nhân, chúng tôi mạnh dạn
nghiên cứu đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán Nguyễn Du” với hy vọng
sẽ góp thêm một góc nhìn mới về tác giả quen thuộc này.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Những nghiên cứu chung về thơ chữ Hán của Nguyễn Du
Nhắc tới Nguyễn Du chúng ta nghĩ ngay tới những vần thơ nổi tiếng, nhớ
tới tên tuổi vang danh trong nước và cả quốc tế. Hơn thế nữa là khối lượng
những cơng trình nghiên cứu đồ sộ về ông cũng như tác tẩm của ông. Những
tác phẩm thơ chữ Hán cũng chiếm số lượng nghiên cứu khơng hề nhỏ. Chúng
ta có thể kể đến như:
- Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán – Hoài Thanh
- Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán – Xuân Diệu
- Nguyễn Du Trong những bài thơ chữ Hán – Trần Đình Sử
- Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán – Trương Chính
- Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ơng qua thơ chữ Hán – Nguyễn Huệ Chi
- Thơ chữ hán của Nguyễn Du – Mai Quốc Liên
- Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán – Đào Xuân Quý
- Thiên nhiên trong thơ chữ Hán Nguyễn Du – Trần Thu Trang
- Sự vận động trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Du qua những bài thơ tự
thuật – Nguyễn Thị Nương
- Cảm hứng về quê hương trong thơ chữ Hán Nguyễn Du – Trần Thị Mai
- Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán – Nguyễn Thị Thu Hà
- Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du – Nguyễn Thị Lành...
3
Trên đây chúng tôi đã lấy một số dẫn chứng về những cơng trình nghiên
cứu thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Tuy nhiên, phần lớn các cơng trình tập trung
nghiên cứu về các giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, tài năng nghệ thuật, nét
đẹp nhân văn của nhà thơ, cảm hứng thơ, cảm hứng nghệ thuật... trong thơ chữ
Hán của thi nhân.
Mai Quốc Liên chứng minh thơ chữ Hán của Nguyễn Du không đơn
thuần chỉ là bộc bạch tâm tình, phác họa tiểu sử Nguyễn Du, thái độ của Nguyễn
Du đối với các triều đại mà nó cịn thể hiện tâm huyết và tài năng của ông về
tài năng chữ Hán. Mai Quốc Liên viết: “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những
áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa.
Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành,
mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa” [18; 120].
Đào Xuân Quý đã phân tích kỹ con người, thời đại Nguyễn Du sống qua
những bài thơ chữ Hán và tổng kết lại rằng: “Thơ Nguyễn Du không phải là
loại thơ thù tạc, tiêu khiển. Thơ Nguyễn Du là tất cả tâm hồn và tư tưởng của
người. Vì vậy người đọc Nguyễn Du cũng không thể hời hợt, chỉ một lúc mà
mong hiểu được hết chỗ sâu xa của tác giả, mà bắt buộc phải suy nghĩ, chiêm
nghiệm. Và chiêm nghiệm, suy nghĩ bao nhiêu lại càng thấy hay, càng thấy
thâm thúy bấy nhiêu” [18; 119].
Xuân Diệu viết: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng là một câu hỏi mãi mãi;
ở trên là hỏi chung cho mọi người, ở dưới là hỏi cho mình nữa, hỏi thiết thân
đến mình, nhưng mình đây chẳng qua là một bản người cụ thể, cá thể trong loài
và kiếp người chung...” [18; 45]. Cảm giác chung của tác giả khi gấp quyển
Thơ chữ Hán Nguyễn Du lại là cảm giác “một buổi chiều thu rất dài và tê tái...
– một thứ chiều thu “mây như pha sữa cả trời nhịa”, khơng thấy mặt trời ở đâu,
chỉ một ánh sáng bàng bạc như bị ai làm cho tê đi, và cứ thế mà kéo dài mãi
cho đến khi trời tối” [13; 44]. “Thơ chữ Hán đựng đầy cái uất ức của Tố Như”
[19; 50]
4
2.2. Những nghiên cứu liên quan đến chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du được Nghiên cứu trên nhiều bình diện vì thơ
chữ Hán của ông vô cùng phong phú. Tuy nhiên trong thơ chữ Hán của ông
luôn ẩn chứa những điều mới mẻ mà đơi khi các cơng trình nghiên cứu trước
đây chỉ mới chạm tới một phần chứ chưa đi sâu để khai thác kỹ. Các cơng trình
nghiên cứu trước đây thường đi sâu đánh giá về tài năng, nhân cách, nhân vật,
nghệ thuật... của ông (tiêu biểu là Truyện Kiều và thơ chữ Hán). Ở đây chúng
tôi mạnh dạn nghiên cứu sâu về “Chủ đề đời tư qua thơ chữ Hán Nguyễn Du”
vì chưa có bất kỳ cơng trình nào tìm hiểu kỹ về vấn đề này, và qua khảo sát cho
thấy thì đây là một vấn đề rất được quan tâm cũng như cần thiết để phục vụ quá
trình học tập, nghiên cứu về tác giả Nguyễn Du.
Xuân Diệu nhận xét về thơ chữ Hán của Nguyễn Du khi đi sứ sang Trung
Quốc: “Thơ trong khi đi sứ, phần nhiều là điển cố, mượn cái cổ mà nói cái kim,
một cách như rút những quy luật của lịch sử làm kinh nghiệm, làm bài học. Do
trên đường dài thay đổi, do ôn lại một khoảng lịch sử Trung Quốc dài mấy
nghìn năm, những thơ khi đi sứ bớt cái vẻ đơn điệu của thơ ở trong nước; tuy
vậy, vẫn cịn một khơng khí trầm trầm” [18; 51].
Nguyễn Huệ Chi cảm về thơ chữ Hán của Nguyễn Du khi ông nói về cuộc
sống cá nhân mình đã viết lại như sau: “Nguyễn Du không phải con người hành
động mà là con người tư tưởng. Con người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng
trong đời với một thái độ lặng lẽ, chịu đựng. Nhưng bên trong con người đó,
một cuộc đấu tranh ngấm ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã vẫn diễn ra giai
dẳng không ngừng” [18;63].
Mai Quốc Liên viết: “Trong “mười năm gió bụi” (thập hải phong trần)
Nguyễn Du là người chạy trốn – “khứ quốc” – và “cùng đồ”. Hồn cảnh nhà
thơ lúc bấy giờ thật mn phần thương cảm. Nghèo túng, ăn nhờ ở đậu đã đành,
nhưng cái chính là khơng biết làm gì, theo hướng nào, nghĩa là bế tắc” [18;
121]. “Nguyễn Du luôn bị ám ảnh bởi mái đầu bạc. Lúc bấy giờ, ông mới ba
5
mươi, mà đã thấy nói đến mái đầu bạc rồi, làm sao tóc ơng có thể bạc chóng
thế!” [18;121]. “Nguyễn Du chìm trong mộng để mong quên được đời thực
đắng cay. Nhưng nào có được! Ơng đã hào hứng ca ngợi các thú đi săn, ở ẩn...
nhưng người như ông làm sao quên được đời” [18;122]...
Điểm qua một số công trình nghiên cứu thơ chữ Hán của Nguyễn Du có
chứa chủ đề đời tư, thì đời tư của Nguyễn Du chỉ được các nhà nghiên cứu bước
đầu nhắc tới chứ chưa có một cơng trình nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này.
Vì vậy, chúng tơi mạnh dạn bằng sự hiểu biết, tìm tịi cá nhân để đi sâu nghiên
cứu “Chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán Nguyễn Du”
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Nguyễn Du được coi là nhà thơ cổ điển lớn nhất Việt Nam với những tác
phẩm sống mãi với thời gian. Truyện Kiều là tiếng khóc cho số phận con người.
Văn chiêu hồn là một bài văn tế thay lời kêu gọi chúng sinh và Thơ chữ Hán
của Nguyễn Du chính là những vần thơ tâm tình, khắc họa hình ảnh của chính
ơng trước mọi biến cố của cuộc đời.
Ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du bao gồm 249 bài, trong đó Thanh
Hiên thi tập 78 bài được sáng tác trong ba giai đoạn. Giai đoạn “Mười năm gió
bụi”, từ năm 1786 khi Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà cho đến năm
Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh, khoảng cuối năm 1795 đầu năm 1796.
Giai đoạn “Dưới chân núi Hồng”, từ năm 1796 đến năm 1802. Giai đoạn cuối
cùng là giai đoạn Nguyễn Du “Ra làm quan ở Bắc Hà” từ năm 1802 đến cuối
năm 1804. Tập Nam trung tạp ngâm 40 bài, gồm những bài thơ làm từ năm
1805 đến cuối năm 1812, tức là khi được thăng hàm Đông các học sĩ vào làm
quan ở Kinh cho đến hết kỳ là Cai bạ dinh Quảng Bình. Tập Bắc hành tạp lục
131 bài, gồm những bài thơ được ông làm khi đi sứ sang Trung Quốc. Tập thơ
nào cũng ghi lại dấu ấn cá nhân rất rõ và những vần thơ như lời tâm sự của
Nguyễn Du trong từng giai đoạn.
6
Qua “Chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán Nguyễn Du” ta có thể hiểu rõ hơn
về thi nhân. Thấy được những biểu hiện phong phú của con người trong thơ
chữ Hán của Nguyễn Du nói riêng và thơ ca trung đại Việt Nam nói chung.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nguyễn Du là tác giả được giảng dạy trong nhà trường các cấp cùng với
những tác phẩm nổi tiếng, tuy nhiên lại chưa có nhiều đề tài nghiên cứu sâu về
đời sống cá nhân của ơng. Vì vậy việc thực hiện đề tài “Chủ đề đời tư trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du” sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học về tác
giả Nguyễn Du và văn học trung đại Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu
- Đi sâu vào tìm hiểu đời tư trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du, qua đó góp
phần phác họa thêm chân dung của một tác giả văn học.
- Khẳng định được giá trị nội dung và nghệ thuật của chủ đề đời tư thể hiện
trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
- Khóa luận góp phần nâng cao chất lượng trong việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập thơ văn Nguyễn Du trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số khái niệm có liên quan đến đề tài
- Khảo sát và hệ thống hóa các tác phẩm thơ chữ Hán mang chủ đề đời tư của
Nguyễn Du
- Phân tích, đánh giá về nội dung và nghệ thuật trong thơ chữ Hán của Nguyễn
Du. Qua đó khẳng định vai trị của chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán của ông đối
với tiến trình phát triển văn học trung đại Việt Nam trong việc thể hiện con
người cũng như sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Để đạt được mục đích và hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu, khi thực hiện đề
tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê phân loại: Phương pháp này giúp chúng tôi phân loại
và lựa chọn chính xác đối tượng nghiên cứu. Trong q trình triển khai và giải
7
quyết vấn đề, phương pháp này có tác dụng chỉ ra và cụ thể hóa các khía cạnh
của vấn đề.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này phục vụ đắc lực cho quá
trình tìm hiểu, khám phá và đánh giá ý nghĩa của vấn đề được nghiên cứu. Đây
là phương pháp khơng thể thiếu để có thể hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài.
- Phương pháp so sánh: Đối chiếu để tạo ra tương quan so sánh nhằm chỉ ra sự
tiếp nối cũng như những sáng tạo mới mẻ riêng biệt của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp liên ngành: Vận dụng hiệu quả các môn học liên ngành (lịch sử,
văn hóa học, xác suất thống kê…) nhằm giúp cho vấn đề được nhìn nhận bao
quát và chính xác hơn.
7. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những bài thơ mang chủ đề đời tư trong
cuốn “Thơ chữ Hán của Nguyễn Du”, Nhà xuất bản Văn học, Công ty sách
Thời đại, năm 2012.
7.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm các bình diện sau:
- Sáng tác của Nguyễn Du, đặc biệt là những bài thơ chữ Hán về chủ đề đời tư.
- Các tư liệu, cơng trình nghiên cứu, bài báo có liên quan.
- Ngồi ra trong chừng mực có thể khóa luận cịn so sánh chủ đề đời tư trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du với các tác giả thơ trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Chứ…
8. Bố cục của khóa luận:
Ngồi phần mở đầu và kết luận, đề tài dự kiến có ba chương:
Chương 1: Khái quát chủ đề đời tư và thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Chương 2: Nội dung thể hiện chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện chủ đề đời tư trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.
8
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ ĐỀ ĐỜI TƯ VÀ
THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU
1.1. Khái quát chung về “Chủ đề đời tư”
1.1.1. Khái niệm chủ đề đời tư
Chủ đề là vấn đề chủ yếu, trung tâm được tác giả nêu lên, đặt ra qua nội
dung cụ thể của tác phẩm văn học. Ngay việc lựa chọn chủ đề cũng đã thể hiện
tư tưởng của tác giả.
Chủ đề thể hiện sự thống nhất hữu cơ giữa hiện thực khách quan và tư
tưởng chủ quan của nhà văn. Vì vậy, khi viết về nột đề tài gần gũi, nhà văn vẫn
nêu lên được những vấn đề sâu sắc khác nhau tùy thuộc vào tài năng, khả năng
thâm nhập đời sống thẩm mĩ của họ. Trong một tác phẩm, thường không phải
chỉ có một chủ đề duy nhất mà có nhiều chủ đề gắn bó chặt chẽ, bổ sung cho
nhau tạo thành một hệ thống chủ đề. Trong hệ thống chủ đề, có thể nổi lên vài
chủ đề có ý nghĩa trung tâm, qn xuyến tồn bộ tác phẩm. Đó là chủ đề chính.
Bên cạnh đó, có những chủ đề có ý nghĩa bộ phận, góp phần bổ sung, làm nổi
bật chủ đề chính, được gọi là chủ đề phụ. Trong một tác phẩm, các chủ đề khơng
có giá trị ngang nhau nên việc xác định đúng chủ đề chính, chủ đề phụ sẽ góp
phần quan trọng trong việc lí giải ý nghĩa của tác phẩm.
Đời tư là cuộc sống của một cá nhân, đặc biệt được xem như toàn bộ sự
lựa chọn cá nhân góp phần nhận dạng tính cách một người. Đây là một khái
niệm phổ quát trong đời sống thường ngày.
Văn học là nhân học, là khoa học về con người. Bất cứ một nền văn học
nào cũng lấy con người làm trung tâm để phản ánh. Vậy đời tư trong văn học
là gì? Đó chính là sự phản ánh đời tư của tác giả, là hình tượng của tác giả, là
sự diễn tả, giãi bày thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nhìn từ góc
độ nhận thức luận thì con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa,
9
tâm tư, tình cảm, ý chí của bản thân tác giả được thể hiện thông qua những tác
phẩm mà họ sáng tác.
Một tác phẩm văn học là sự kết hợp giữa khách quan (hiện thực đời sống)
và chủ quan (tình cảm người viết). Nhà văn không chỉ tái hiện lại những chi tiết
mắt thấy tai nghe mà nhà văn còn thâm nhập, cắt nghĩa theo cách riêng của
mình từ đó nâng lên giá trị và tiếng nói riêng của nhà văn. Thông qua tác phẩm
nhà văn lồng ghép, tô vẽ lại chính đời tư của mình. Nhân vật trong tác phẩm và
tác giả vừa là một, vừa không phải là một vì nhân vật văn học được xây dựng
theo quy tắc nghệ thuật tuy nhiên được hư cấu trên nhiều phương diện của đời
sống thực như: ngoại hình, tính cách, hình dáng, phẩm chất, cuộc sống sinh
hoạt, các hoạt động của đời sống tinh thần, các mối quan hệ riêng tư... và biến
nó thành một cuốn nhật ký hành trình, nhật ký tâm trạng.
1.1.2. Đôi nét về chủ đề đời tư trong văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại Việt Nam tồn tại trong thế lưỡng phân thành hai thành
phần chính: Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Sự song hành của hai thành
phần văn học này tạo nên hiện tượng song ngữ khiến văn học trung đại phát
triển với biểu hiện vừa đối lập, vừa bổ sung cho nhau, tạo nên một thế giới nghệ
thuật phong phú, đa dạng: vừa mang tính quy phạm, vừa phá vỡ qui phạm; vừa
cao nhã quý phái vừa bình dị đơn sơ; vừa tiếp thu lại, vừa bỏ dần các yếu tố
văn hóa Hán, văn học Hán. Do sự ảnh sâu đậm của ba hệ tư tưởng Nho – Phật
– Lão cùng với những quy lật chặt chẽ của thi pháp trung đại, các lễ nghi, lễ
giáo, xã hội phong kiến khiến cho các nhà sáng tác dù muốn hay không muốn
cũng phải chịu sự ràng buộc của khuôn phép, lề lối kinh điển. Các tác phẩm đôi
khi chỉ là một góc khuất nhỏ của cuộc sống, thứ mà đôi khi bị người ta cho là
vô nghĩa trong xã hội phong kiến. Các tác phẩm văn học trung đại chủ yếu dùng
để bày tỏ chí, tỏ lịng. Con người cá nhân, cá thể do đó cũng khơng thể hiện
một cách phóng khống, cởi mở như trong văn học hiện đại. Tuy nhiên các nhà
văn, nhà thơ đâu đó vẫn tìm cho mình một con đường sáng tạo riêng để cái tôi
cá nhân, cá thể lên tiếng.
10
Từ thế kỷ X đến thế kỷ thứ XV là giai đoạn phục hưng phát triển đất nước
sau nghìn năm Bắc thuộc, giai đoạn này là giai đoạn mà dân tộc ta không ngừng
chống lại các thế lực ngoại xâm phương Bắc để giữ gìn bờ cõi. Chính vì thế,
cảm hứng chủ đạo trong văn học là cảm hứng yêu nước. Con người được đề
cao trong văn học là con người cộng đồng – con người hướng tâm, tức là những
con người sống theo những chuẩn mực đạo đức của cộng đồng (thời trung đại
chuẩn mực ấy là đạo đức Nho giáo). Hiện thực giai đoạn đầu đơn giản, không
rối rắm, phức tạp nên khơng có nhiều băn khoăn, day dứt, cũng khơng có nhiều
khát vọng cá nhân...
Có thể nói ở thế kỉ XVIII đã xảy ra một bước ngoặt lớn trong con người cá
nhân làm nở rộ một dòng văn học nhân đạo, khác với dòng văn học nhân nghĩa
là chủ đạo trước đó. Bước ngoặt làm thay đổi giá trị con người đó là: Trước thế
kỉ XVIII cá nhân con người chỉ được đánh giá trong vấn đề nghĩa lý, đạo lý và
ở sức mạnh tinh thần. Bởi những điều ấy được cho là cái thiện. Bây giờ tình
hình lật ngược lại. Quyền sống của con người trần thế được coi là có giá trị hơn
cả. Bất kỳ cái gì chà đạp lên giá trị ấy, quyền sống ấy thì đều là cái ác, cái xấu,
cái đáng ốn hận.
Từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, con người trong văn học đã kêu to lên
nhu cầu về quyền sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một đặc
quyền tự nhiên. Một số nhà văn, nhà thơ lớn đã đem sự bứt phá, đạp quẫy bằng
một cái tơi mạnh mẽ, phóng khống của mình vào trong văn học với những
cảm xúc thật, những tình cảm được thăng hoa như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương... và tiêu biểu nhất là Nguyễn Du,
đại thi hào dân tộc của chúng ta. Ông đã thổi một làn gió mát, mới mẻ vào một
nền văn học cịn mang nặng khn phép thời đại.
Nói đến Nguyễn Trãi, về quan niệm con người cá nhân trong thơ của
ông, chúng ta có thể nhận thấy đó là sự khẳng định tài năng, cá tính của con
người cá nhân. Mặc dù có những lúc suy nghĩ muốn thốt khỏi chốn quan
trường, vui cùng thơn xóm, thiên nhiên nhưng mong muốn được trọng dụng,
11
được khẳng định tài năng để giúp nước lúc nào cũng canh cánh bên ơng. Đó
chính là một nhân cách lớn góp phần xây dựng hình tượng nhà văn hóa - qn
sự - chính trị đại tài Nguyễn Trãi. Ơng ao ước một cuộc sống an nhàn, một thế
giới không có sự tranh giành, khơng có sự thị phi như Trang Tử:
“Am trúc hiên mai ngày tháng qua,
Thị phi nào đến cõi n hà?”
( Ngơn chí III)
Tuy ao ước cuộc sống an nhàn, hịa nhập với thiên nhiên nhưng ơng vẫn
mong muốn được trọng dụng, đem tài năng giúp nước:
“Còn có một lịng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”.
(Thuật hứng XXIII)
“Những vì chúa thánh âu đời trị,
Há đế thân nhà tiếc tuổi tàn.”
(Tự thán II)
Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn dám thể hiện con người cá nhân của mình.
Bà là một trong những tác giả nữ đầu tiên phá cách mãnh liệt đưa đời tư của
mình vào tác phẩm văn học. Ở Việt Nam, chịu ảnh hưởng Nho giáo, tư tưởng
“nam nữ hữu biệt”, “nam nữ thụ thụ bất thân”, để lộ thân thể bị xem là ô nhục.
Tư tưởng cấm dục của Tống Nho càng khắc nghiệt và giả dối. Cuộc sống truỵ
lạc trong cung đình, tướng phủ thời ấy đã quá tai tiếng, tương phản gay gắt với
đạo đức phong kiến. Tuy vậy, số phận đặc biệt với nhiều thiệt thịi trong cuộc
đời tình dun đã để lại dấu ấn thiếu thốn, không thoả mãn sâu đậm trong tâm
tình của Hồ Xuân Hương. Nhưng cái chính ở chỗ bà là một cá tính mạnh mẽ,
ngang tàng, dám nói cái mà đời ít người dám nói trong thơ. Vì vậy thơ bà thể
hiện chân thực tình cảm của mình :
Rước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì dun để mõm mịm.
12
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom !
( Tự Tình III)
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tý con con!
( Tự Tình II)
Năm thì mười họa hay chăng chớ,
Một tháng đơi lần có cũng khơng.
Cố đấm ăn xơi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công !
(Làm lẽ)
Qn tử có u thì đóng cọc,
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
(Quả mít)
Nhà thơ khơng xem cái lẳng lơ là lẳng lơ, không xem cái tục là tục, không
xem dâm là dâm. Tất cả đều hồn nhiên, tự nhiên. Đã đến lúc khơng nên nói đến
cái gọi là dâm và tục trong thơ bà, mà nên nói đến những ám ảnh tính dục, nhu
cầu giải phóng nhãn quan tính dục phong kiến cổ hủ như một nhu cầu của con
người cá nhân. Cũng có người hiểu cái “dâm” trong thơ Hồ Xuân Hương là
biểu hiện của văn hoá phồn thực. Thiết nghĩ hiểu như vậy là đẩy vấn đề sang
địa hạt ý thức tôn giáo, xa lạ với ý thức cá nhân của nhà thơ.
Tác giả Nguyễn Khuyến là tác giả trong giai đoạn cuối cùng của văn học
trung đại Việt Nam. Thơ ca của ơng có sự xuất hiện rõ nét chủ đề đời tư. Nó
được thể hiện trong tiếng nói tâm sự, tâm tình của thi nhân. Tác giả đưa chính
mình vào thơ, tiếp tục dịng chảy đời tư trong văn học trung đại Việt Nam.
Đồng thời nó cũng làm nên phong cách nghệ thuật riêng trong văn học trung
đại. Ông là người hay tự vẽ lại chân dung của mình bằng thơ:
13
Vườn Bùi chốn cũ
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.
(Trở về vườn cũ)
“Mái tóc phần sâu, phần lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ,
Khấp khểnh ba chân dở tình say
Cịn nỗi này thêm chán ngán,
Đi đâu lủng củng cối cùng chày.”
(Than già)
Nêu trên là tiêu biểu một số nhà thơ trung đại như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến... đã phá vỡ sự nghiêm ngặt của quy luật xã hội
phong kiến để đưa tâm tình riêng tư vào tác phẩm của mình. Nguyễn Du cũng
vậy. Ơng dùng thơ chữ Hán của mình để vẽ lại đời tư, chân dung làm thành
một quyển nhật ký hành trình, nhật ký tâm trạng bằng thơ
1.2. Tác giả Nguyễn Du và thơ chữ Hán Nguyễn Du
1.2.1. Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc.
Nguyễn Du (1765 – 1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ơng sinh trưởng trong một gia
đình đại q tộc có truyền thống khoa bảng thời Lê - Trịnh. Cha là Nguyễn
Nghiễm từng làm Tể tướng, anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ, làm đại quan
trong phủ Chúa, được Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chỉ đỗ "Tam trường,
nhưng văn chương lỗi lạc". Quê hương ông vẫn lưu truyền câu ca: “Bao giờ
Ngàn Ngống hết cây/ Sông Run hết nước họ này hết quan”. Tuy nhiên do mồ
côi cha mẹ sớm (9 tuổi mất cha, 12 tuổi mất mẹ), tuổi thơ ông trải qua một
cách đầy biến động, phải tha hương nhiều nơi lúc thì về quê cha, khi về quê
mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở Thái Bình. Cộng thêm vào
giai đoạn đó lịch sử nước nhà có nhiều rối ren các thế lực phong kiến chém
14
giết và tàn sát lẫn nhau, nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi mà tiêu biểu là
phong trào Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo. Những yếu tố đó đã tác động
khơng nhỏ đến tình cảm cũng như nhận thức của nhà thơ. Bởi thế ông luôn
nhận thức trung thành với triều Lê, căm thù sâu sắc với quân Tây Sơn, sau này
làm quan thì rụt rè, u uất. Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời
thế đầy biến động, phiêu bạt nhiều nơi đã là những thứ để tạo nên một Nguyễn
Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thơng sâu sắc
với những kiếp người nghèo khổ. Ơng cũng được coi như 1 trong năm người
giỏi nhất nước Nam thời bấy giờ. Ơng trải qua "mười năm gió bụi", có lúc ốm
đau khơng có thuốc, mái tóc sớm bạc. Ông tự xưng là "Hồng Sơn liệp hộ"
(người đi săn ở núi Hồng) "Nam hải điếu đồ" (Người câu cá ở biển Nam Hải):
Hồng Sơn cao ngất mấy tầng/ Đò Cài mấy trượng là lòng bấy nhiêu. Năm
1802, Gia Long triệu Nguyễn Du ra làm quan. Chỉ trong vòng hơn 10 năm,
ông đã bước lên đỉnh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung Quốc (18131814), giữ chức Hữu Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai, ông lại được cử
làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh, qua đời.
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vơ cùng rạng rỡ. Ơng được coi
là một người có thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng
Việt ngơi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời cả
một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả
chữ hán và chữ nơm. Trong đó chữ Hán có Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài,
Nam trung tạp ngâm 40 bài, Bắc hành tạp lục 125 bài. chữ Nơm có Văn chiêu
hồn, Văn tế, và tiêu biểu là tác phẩm Truyện Kiều hay cịn có tên gọi khác là
Đoạn trường Tân Thanh.
Nhắc đến thơ ca trung đại Việt Nam không thể không nhắc đến Truyện
Kiều, và đồng nghĩa rằng khi nhắc đến các nhà văn, nhà thơ vang danh tên tuổi
thời đó khơng thể không nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ông là nhà
thơ rất quen thuộc được quần chúng yêu mến. Thời đại mà ông sống là một thời
đại đầy bão táp, trong đó những mâu thuẫn của chế độ phong kiến Việt Nam
15
trên bước đường tan rã bộc lộ sâu sắc. Nguyễn Du không chịu ảnh hưởng của
những quan điểm phong kiến về thế giới nhân sinh. Nhưng sống giữa những
cảnh loạn lạc triền miên ơng đã có nhiều cơ hội gần gũi nhân dân và thông cảm
với những đau khổ của nhân dân. Bằng ngòi bút hiện thực phê phán nhiều khi
vượt ra ngoài ý thức hệ phong kiến, Nguyễn Du đã phản ánh một cách sinh
động đời sống xã hội lúc bấy giờ và lên án những sự bất công, tàn bạo, xảo trá,
đê hèn của bọn thống trị.
Sáng tác của Nguyễn Du, chủ yếu là thơ, cả chữ Nôm và chữ Hán, rất dồi
dào. Tả cảnh, tả tình, tả người, những bài thơ chữ Hán nói lên nỗi xót xa và lo
lắng của một dân tộc đi tìm một lối thốt, nhưng khơng được thỏa mãn. Nó
phản chiếu nội tâm của Nguyễn Du, đồng thời cũng phản ánh lòng thương cảm
và sự lo âu của nhà thơ đối với số phận con người. Về chữ Nơm thì có hai tác
phẩm quan trọng là Văn chiêu hồn và Truyện Kiều.
Truyện Kiều là tác phẩm chủ yếu của Nguyễn Du, cốt truyện lấy ở Kim
Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đây là một bản cáo
trạng cái xã hội phong kiến áp bức, nàng Thúy Kiều tài tình, xinh đẹp bị đày
đọa vị nát, phải chia lìa với người yêu, hai lần bị bán vào lầu xanh, hai lần làm
đầy tớ, hai lần tự tử, bao nhiêu phen bị đánh đập... Thúy Kiều (nhân vật chính)
tài sắc khơng ai sánh bằng mà lại bị bán đi như một món hàng, một thú vật đắt
tiền nào đó. Tác phẩm cũng đã khái quát tâm hồn và tư tưởng của Nguyễn Du.
Đây là một cuốn tiểu thuyết bằng thơ rất sâu sắc, tinh vi, với tất cả những tình
tiết của một kho tiểu thuyết, bố cục chặt chẽ, nhưng vẫn đảm bảo tính thơ tuyệt
diệu. Khai thác triệt để những khả năng nghệ thuật của tiếng Việt. Nó là đỉnh
cao của nghệ thuật thơ Nguyễn Du. Là tiếng thở dài của một tâm hồn cao cả,
tiếng đập của một trái tim lớn đầy tình nhân đạo, đau xót vì số phận con người
và chân thành bảo vệ phẩm giá con người. Tự hào về Truyện Kiều, chúng ta tự
hào về tiếng nói của dân tộc, bởi nó là do nhân dân ta sáng tạo ra trong quá
trình lao động và đấu tranh, trong thử thách và chiến thắng. Truyện Kiều đã
đánh dấu tên tuổi của Nguyễn Du vào lòng dân tộc Việt Nam cũng như bạn bè
16
quốc tế. Cho đến tận ngày nay, với nội dung sâu sắc cùng nghệ thuật độc đáo
rất riêng thì Truyện Kiều ngày càng được nhiều người thưởng thức, nhiều người
đọc và thuộc lòng, càng ngày càng đi sâu vào trái tim quần chúng.
Nguyễn Du đã thành công là nhờ ông tập trung nghệ thuật lỗi lạc của mình
vào việc mơ tả số phận con người, đặc biệt là hình ảnh người phụ nữ (Truyện
Kiều) là lớp người bị tủi nhục nhất dưới xã hội cũ. Ông đã lĩnh hội được cái
vốn tiếng Việt phong phú và những hình thức nghệ thuật dân gian hồn nhiên
đẹp đẽ trong những năm ông sống phiêu bạt, ẩn náu ở nông thôn vùng đồng
bằng Bắc – bộ và bắc Trung – bộ. Tỉnh Bắc Ninh là quê mẹ có truyền thống lâu
đời về dân ca Quan họ. Tỉnh Hà Tĩnh quê cha, cả vùng Nghệ Tĩnh cũng có
những truyền thống lâu đời về nghệ thuật hát Phường vải. Nhưng, yếu tố chính
đã giúp cho Nguyễn Du tiếp thu một cách nhanh chóng và thấm thía kho tàng
nghệ thuật dân gian ấy, đó là cảnh nghèo đói, cùng cực diễn ra hằng ngày trước
mắt ơng và chính bản thân ơng cũng đã phải trải qua, chia sẻ với những người
xung quanh.
Tác phẩm của Nguyễn Du khơng thật đồ sộ về khối lượng, nhưng có vị trí
đặc biệt quan trọng trong di sản văn học và văn hóa dân tộc. Trong những sáng
tác của ơng, từ Truyện Kiều đến Văn tế chiêu hồn hay thơ chữ Hán, đều nổi bật
một con người gần gũi với những người nghèo khổ, yếu đuối, bị áp bức, bị ô
nhục trong xã hội cũ và có một cái nhìn hiện thực đối với xã hội, đối với giai
cấp thống trị thời đại ơng. Tồn bộ những tác phẩm của ơng tốt lên một tinh
thần nhân đạo sâu sắc. Nhờ chính những tác phẩm vang danh và tấm chân tình
của mình Nguyễn Du đã trở thành một đại thi hào dan tộc vĩ đại. Hơn thế nữa
ơng cịn được cơng nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Và theo như Đào Xuân
Quý có nhận định: “Càng đọc Nguyễn Du chúng ta càng sung sướng và tự hào
nhận ra rằng: Có được Nguyễn Du, đó chính là một niềm vui lớn của dân tộc”
1.2.2. Thơ chữ Hán – Nhật ký tâm trạng, nhật ký hành trình
Truyện Kiều khơng tả hết được tấm lịng mình nên Nguyễn Du đã mang
cuộc sống rất riêng gửi dưới những vần thơ chữ Hán. Có lẽ vì văn chương Việt
17
Nam khi ấy chưa có lối trữ tình vì vậy ông không quen đem cái tôi ra mà bộc
lộ. Thơ Nguyễn Du viết dưới sự thôi thúc của những nỗi niềm khơng nói ra
được. Đó là mảng thơ ơng sáng tác gần như trọn đời (khoảng trên dưới 30 năm),
qua nhiều vùng lãnh thổ khác nhau. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là lời nói trực
tiếp bộc bạch tâm tình chứ không gián tiếp như qua Truyện Kiều nên chúng ta
lại càng có thể hình dung một cách rõ nét nhất và từ đó đi sâu tìm hiểu con
người của ông. Ba tập thơ chữ Hán Nguyễn Du viết bao gồm: Thanh Hiên thi
tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Những tập thơ chữ Hán này
trước hết là nhà thơ muốn gửi gắm nỗi niềm riêng. Vậy nên, số lượng thơ, câu
thơ có tính chất tự thuật trong các thi tập của Nguyễn Du rất lớn.
Tập thơ Thanh Hiên thi tập là những bi kịch cá nhân mà Nguyễn Du phải
trải qua. Đây là tập thơ được sáng tác trong những năm tháng bi thương nhất
của cuộc đời tác giả. Cuộc sống “mười năm gió bụi” từ 1786 đến năm 1795,
của ông như thế nào đều được phản ánh rõ trong tập thơ này. Suốt mười mấy
năm ấy, Nguyễn Du phải bô ba khắp nơi nay ở đầu sông, mai ở cuối bể, ăn nhờ
ở đậu, cuộc sống nghèo khổ túng quẫn, ốm đau và bệnh tật triền miên. Gia đình
tan tác, anh em mỗi người một ngả chứ đâu có cịn cuộc sống giàu sang đủ ấm
như khi quan tư đồ cịn sống. Hình ảnh Nguyễn Du hiện lên qua những vần thơ
tự thuật là một con người cô độc, mệt mỏi, u sầu, không dám tin tưởng vào một
tương lai phía trước. Ơng chán chường với một thời đại hỗn loạn, một xã hội
bất công và ngang trái. Đọc tập thơ này ta thấy hiện lên hình ảnh một nhà Nho
mới ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng, bệnh tật, có lúc ốm mấy tháng liền chỉ
nằm chờ chết, trong nhà bếp lạnh tanh... Tập thơ là nỗi đau đớn, tuyệt vọng,
chìm trong day dứt của tâm hồn Nguyễn Du nhưng qua đó ta vẫn tìm thấy nỗi
khổ đau, mất mát chung của những con người thời đại ấy.
Nhất tự y thường vô mịch xứ,
Lưỡng để yên thảo bất thăng bi.
Bách niên đa thiếu thương tâm sự,
Cận nhật Trường An đại dĩ phi.
(Giang đình hữu cảm)
18
(Từ khi áo xiêm khơng cịn tìm đâu thấy,
Khói trên ngọn cỏ hai bờ sơng khiến lịng khơn xiết bi thương.
Trăm năm cuộc đời biết bao việc thương tâm,
Ngày gần đây Tràng An đã khác xưa nhiều).
Nam trung tạp ngâm – những bài thơ về nỗi thất vọng trốn quan trường.
Tuy vậy, vẫn có hai bài thơ trong tập ơng nói đến vợ con ăn đói, mặt xanh như
lá rau. Có lẽ là vào những năm ở Nghệ - Tĩnh hạn hán mất mùa. Thơ tự thuật
của Nguyễn Du thời kỳ này chất chứa nhiều mệt mỏi, chán chường. Ông thất
vọng vì mình khi đã khơng vẹn trịn được tấm chân tình với thiên nhiên. Ơng
thất vọng về chốn quan trường vì những tưởng khi nhập thế vẫn làm nên sự
nghiệp. Ở tập thơ này, nhà thơ đã có những cảm nhận sâu sắc về bản chất xã
hội đương thời, tâm sự của ơng khơng cịn giới hạn trong những bất hạnh riêng
tư mà đánh giá bản chất của một xã hội đang đi xuống. Nguyễn Du cũng như
một số nhà Nho chân chính, ra làm quan thì hết sức chú ý đến đời sống của
nhân dân, trong phạm vi quyền hạn của mình và khn khổ mà chế độ phong
kiến cho phép.
Tập thơ chữ Hán thứ ba là Bắc hành tạp lục. Bao gồm những bài thơ trong
thời gian nhà thơ đi sứ sang Trung Quốc. Khi đọc thơ chúng ta có thể thấy ngay
những biến đổi sâu sắc của nhà thơ khi đối diện với bản thân, cuộc đời. Hiện
lên vẫn là một kẻ lữ khách nay đây mai đó, mang nặng nỗi sầu tha hương. Tuy
nhiên, tập thơ đã hiện lên một ánh sáng mới trong cách nhìn nhận của Nguyễn
Du. Nó khơng cịn là những bế tắc, tủi hờn nữa, thay vào đó là cơ hội q giá
để ơng có thể mở rộng tầm nhìn mà quan sát vạn vật nhân sinh. Trên con đường
đi sứ, nhà thơ đã phát hiện ra những điều vô cùng mới mẻ về thiên nhiên, về
con người. Bắc hành tạp lục là một tập bút ký ghi lại cảm tưởng dọc đường đi
sứ của Nguyễn Du. So với những bài làm trong nước thì những bài này nhẹ
nhõm hơn nhiều. Nhà thơ có phần khy khỏa đi được một ít. Nhưng nhìn thấy
một di tích lịch sử nào đó, nhớ đến việc trong nước, nhớ đến những người ông
19
tiếp xúc trong chốn quan trường thì ơng lại hết lời xỉ mắng phường xu danh
trục lợi.
Có thể nói, các bài thơ tự thuật trong ba tập tập thơ chữ Hán đã lưu giữ lại
diện mạo tâm hồn của Nguyễn Du. Hiện lên chân dung một nho sĩ lẻ loi, nếm
trải nhiều cay đắng. Đó là tình cảm đơn thuần, tâm tình bản thân, đề con người
của mình trong thơ. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du chứa đựng một tình thương,
một niềm cảm thông và một nỗi căm hờn, một tiếng phản kháng, đồng thời
cũng biểu lộ những mâu thuẫn trong con người của Nguyễn Du. Hình thức tự
họa của Nguyễn Du trong thơ chữ Hán là bằng chứng về sự xuất hiện con người
cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam. Tác giả giám đưa cuộc sống đời tư
vào chính tác phẩm của mình đã góp phần khơng nhỏ trong việc làm nên thành
tựu của một giai đoạn rực rỡ nhất trong lịch sử văn học dân tộc bằng chính cái
tơi cá nhân của mình.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã thể hiện gần như trọn vẹn tâm tình, suy nghĩ
của nhà thơ trong suốt cả một chặng đường dài, trải qua bao biến cố của bản
thân cũng như thời cuộc. Đó là cuốn nhật ký tâm trạng, nhật ký hành trình mà
thế hệ hậu sinh qua đó có thể hiểu cụ thể hơn, sâu sắc hơn về Nguyễn Du, về
những gì đã làm nên một nhà thơ lớn, một người nghệ sỹ vĩ đại của mọi thời
đại. Trong thơ đã soi tỏ con người Nguyễn Du, tâm sự Nguyễn Du. Từng bài
thơ, cả tập thơ nặng trĩu một nỗi buồn đau, bi thiết, một mối quan hoài dằng
dặc. Bước đường quan san, gió bụi, tha hương, chân trời góc biển, ốm đau bệnh
tật, trăng thu, đêm thu, gió thu lạnh, mùa xuân lạnh, mái tóc bạc, nỗi nhớ q
hương ngồi nghìn dặm, nỗi sầu thế cuộc...tất cả trở đi trở lại, thành nỗi niềm
man mác trong suốt cả tập thơ. Đây chính là lời tự thuật của một cuộc đời, một
con người và một tâm hồn nghệ sĩ vĩ đại đứng trước xã hội đầy màu sắc bi kịch
ở thế kỷ cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Chân dung tự họa của
Nguyễn Du khơng có vẻ đẹp hào hùng, phóng khống của thời trước, cũng chưa
có màu sắc tự trào như ở giai đoạn sau. Có lẽ chưa thể vượt lên những buồn
thương, đau đớn chất chồng, chưa thể “giã từ quá khứ”, nên hình tượng tự họa