MỤC LỤC
Tran
g
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH QUẢNG NINH TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006
6
1.1. Vị trí và tầm quan trọng của cơng tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị
1.2. Thực trạng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội
6
ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Quảng Ninh trước năm 1996
1.3. Chủ trương và quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo,
19
bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của Đảng
bộ tỉnh Quảng Ninh (1996 - 2006)
39
Chương 2: KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ CÔNG TÁC ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH
57
2.1. Kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở tỉnh Quảng Ninh (1996 - 2006)
2.2. Một số kinh nghiệm về cơng tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh Quảng Ninh (1996 - 2006)
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
57
84
96
99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNXH
CNH, HĐH
ĐT, BDLLCT
Nxb
XHCN
:
:
:
:
:
Chủ nghĩa xã hội
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Đánh giá về thời lượng trong chương trình trung cấp lý
luận chính trị
69
Bảng 2.2: Những nội dung đề xuất cần bồi dưỡng ở mỗi khóa học
69
Bảng 2.3: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị - hành chính
72
Bảng 2.4: Kết quả các hình thức đào tạo, bồi dưỡng
73
Bảng 2.5: Cơ cán bộ cơ sở được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
80
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị (ĐT, BDLLCT) cho cán bộ,
đảng viên là một bộ phận của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đây là nhiệm
vụ quan trọng để khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ từ Trung ương đến cơ sở, là yêu cầu cấp thiết cho cán bộ nói chung,
khơng chỉ cán bộ nghiên cứu hay người làm công tác lý luận. Muốn làm tốt công
tác tư tưởng, lý luận trước hết phải làm tốt công tác ĐT, BDLLCT.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam ln đề cao vai trị của cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói
chung và cơng tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở nói riêng. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá VIII đã chỉ
rõ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”.
Thực tế, năng lực và trình độ lý luận chính trị của cán bộ nói chung và
cán bộ cấp cơ sở nói riêng có tác dụng quan trọng nhất trong lãnh đạo phát
triển kinh tế, ổn định xã hội và an ninh trật tự ở địa phương, thúc đẩy sự phát
triển chung cho tỉnh, vùng và cả nước. Trình độ lý luận chính trị đối với người
cán bộ cơ sở là yếu tố “then chốt” cho mọi hoạt động nhận thức và hành động
thực tiễn của họ. Cán bộ cấp xã, phường, thị trấn có nắm vững, hiểu biết sâu
sắc lý luận chính trị mới nắm chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, mới vận dụng một cách sáng tạo vào tình
hình cụ thể ở địa phương, từ đó rút ra những bài học, kinh nghiệm, những kết
luận góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung và phát triển lý luận, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Cán bộ cơ sở ở tỉnh Quảng Ninh được hình thành từ nhiều nguồn, trưởng
thành chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo cơ bản, thiếu vốn kiến
2
thức chun mơn, kiến thức lý luận chính trị. Bởi vậy, trong nhận thức và chỉ
đạo thực tiễn họ thường mắc phải bệnh kinh nghiệm, giáo điều, điều hành
công tác lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý công việc một cách máy móc, kém
hiệu quả. Thực tế trên địi hỏi một mặt phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
cung cấp kiến thức cơ bản về lý luận chính trị và chuyên môn, mặt khác đội
ngũ cán bộ, đảng viên cấp cơ sở ở tỉnh Quảng Ninh phải không ngừng nâng
cao trình độ về mọi mặt, trong đó có kiến thức lý luận chính trị.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu tư tưởng, lý luận và đẩy mạnh công
tác ĐT, BDLLCT cho cán bộ, đảng viên cấp cơ sở ở tỉnh Quảng Ninh là cần
thiết và tôi đã chọn vấn đề: “Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo công tác
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm
1996 đến năm 2006” để làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách, những quy
định và tiêu chuẩn trình độ lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
các cấp. Đây là những định hướng quan trọng góp phần nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng
Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý
luận chính trị, kiến thức và năng lực học tập thực tiễn” [19, tr.140-141].
Trong những năm gần đây, đã có những cơng trình nghiên cứu, bài viết
dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này như:
- “Mấy sắc thái về cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng hiện nay” của tác
giả Hồ Kiếm Việt, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1999.
3
- “Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước” của tác giả Bùi Đình Phong, Nxb Chính trị quốc gia, H.2001.
- “Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ, lãnh đạo chỉ đạo thực
tiễn” của tác giả Trần Thành, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2003.
- “Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam” của tác giả Đào
Duy Quát, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004.
- “Một số vấn đề về cơng tác tư tưởng trong tình hình mới” của tác giả
Hữu Thọ, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995.
- “Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận hiện nay” của tác giả
Hồ Văn Chiểu, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2005.
- “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học tập lý luận chính trị của cán
bộ, đảng viên” của Nguyễn Phú Trọng, Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999.
- “Hội thi giảng viên dạy giỏi - hoạt động góp phần đẩy mạnh cơng tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường chính trị” của TS Nguyễn Văn Sáu, Báo
Nhân Dân, tháng 11/2005.
- “Đảng bộ tỉnh Bến Tre lãnh đạo cơng tác giáo dục lý luận chính trị cho
đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1996 đến 2006” của Nguyễn Tôn Phương Du,
Luận văn thạc sỹ Lịch Sử Đảng năm 2006.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý luận chính trị với việc nâng cao
chất lượng đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở Trường Chính trị tỉnh Sóc
Trăng” của Đồn Thiện Tài, Luận văn thạc sĩ Hồ Chí Minh học năm 2006.
- “Đảng bộ tỉnh Bình Định lãnh đạo cơng tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở miền núi từ năm 1996 đến 2006” của Lê Văn Minh,
Luận văn thạc sỹ Lịch Sử Đảng năm 2007.
Ngoài ra, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức hội
thảo “Chủ tịch Hồ Chí Minh với cơng tác tư tưởng, lý luận” và xuất bản kỷ
yếu trên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002 và một số bài báo viết về
công tác ĐT, BDLLCT đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Lịch
sử Đảng, Tạp chí Cơng tác tư tưởng, Tạp chí Nghiên cứu lý luận .v.v.v.
4
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở những góc độ khác nhau, nhưng
cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đối với công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nhằm làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong
việc lãnh đạo công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
- Đồng thời qua những kết quả đạt được, những hạn chế, rút ra một số
kinh nghiệm góp phần định hướng cơng tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Đánh giá thực trạng Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo công tác ĐT,
BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trước năm 1996.
- Phân tích quan điểm, chủ trương của Đảng về cơng tác ĐT, BDLLCT;
những chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo công tác
ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 1996 đến năm 2006.
- Bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm trong q trình Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh lãnh đạo cơng tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ
năm 1996 đến năm 2006.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, sự vận dụng
của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh
đối với công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 1996 đến
năm 2006.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, các Quyết định của Trung ương
và các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về cơng tác ĐT,
BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
- Các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về công tác ĐT,
BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
- Các Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình, Báo cáo tổng kết của Tỉnh ủy,
Ban tuyên giáo, Sở Nội vụ, trường Chính trị Nguyễn Văn Cừ tỉnh Quảng
Ninh về công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc.
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp xã hội học, phương pháp so
sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày khái quát, có hệ thống q trình Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh vận dụng sáng tạo những chủ trương của Đảng về công tác ĐT,
BDLLCT để lãnh đạo tốt công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở ở tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới.
- Đánh giá những kết quả và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh đối với công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
- Góp phần tổng kết và rút ra một số kinh nghiệm giúp Đảng bộ tỉnh
Quảng Ninh lãnh đạo tốt công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.
6
Chương 1
CƠNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NINH
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006
1.1. VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CƠNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
1.1.1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
* Về đào tạo, bồi dưỡng
Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng có nhiều cách diễn giải khác nhau,
song tựu chung có thể lý giải:
Đào tạo được hiểu là công việc trang bị kiến thức cơ bản, có hệ thống, sau
một khóa học dài hạn, người học đạt được trình độ của một cấp học cao hơn.
Bồi dưỡng được dùng với nghĩa rộng hơn: bổ túc thêm một số kiến thức
cần thiết nhưng không thành hệ thống; nâng cao thêm hiểu biết sau khi đã
được đào tạo cơ bản; cung cấp thêm những kiến thức chun ngành mang
tính ứng dụng [45, tr.462-463].
Có thể nói, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động cần thiết trong
hệ thống giáo dục đào tạo, là hoạt động bắt buộc không thể thiếu đối với
đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Nếu khơng được đào tạo, bồi dưỡng thì cán bộ
khơng thể hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ, vị trí cơng tác mà trang bị cho cán bộ những kiến thức phù hợp, những
vấn đề về lĩnh vực hoạt động của họ. Vì thế, việc học tập của cán bộ cấp cơ
sở được thực hiện trên những quy định, những yêu cầu chung về tiêu
chuẩn, nghiệp vụ của từng loại cán bộ, họ không thể tự ý lựa chọn ngành
này hay ngành khác, kiến thức này hay kiến thức khác, cấp độ cao hay cấp
độ thấp để học mà bắt buộc phải theo chương trình, kế hoạch học tập trên
cơ sở cơng việc của họ.
7
* Về lý luận chính trị
Khái niệm “lý luận” theo Triết học Mác – Lênin: “Lý luận là hệ thống
những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh mối
quan hệ bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan” [46, tr.102].
Khái niệm“chính trị”, theo quan điểm Mácxít: “Chính trị theo ngun
nghĩa của nó là những cơng việc của nhà nước, là phạm vi hoạt động gắn với
những quan hệ giai cấp, dân tộc, các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của
nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước” [1, tr.507].
Khái niệm “lý luận chính trị” có thể hiểu: Lý luận chính trị là lý luận
trong lĩnh vực chính trị. Lý luận chính trị ra đời khi xã hội có giai cấp và đấu
tranh giai cấp để đại diện cho một lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất
định trong xã hội. Lý luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi
quyền lực Nhà nước [43, tr.54].
V.I.Lênin cho rằng: “Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong
trào cách mạng” và “Chỉ Đảng nào có được lý luận tiền phong hướng dẫn, thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiền phong” [33, tr.30-32].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vận dụng quan điểm của Lênin vào điều kiện cụ
thể của Việt Nam, Người khẳng định: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học
tập tinh thần xử lý mọi việc đối với mọi người và đối với bản thân mình; là
học tập những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một
cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta. Học để làm, lý luận đi đôi với
thực tiễn”[40, tr.32] và “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn
thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận sng” [39, tr.496].
Do đó, lý luận chính trị có vai trị rất quan trọng đối với một chính đảng,
đặc biệt là đối với chính đảng vơ sản, vì trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ
8
mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân sẽ khơng thành cơng nếu như
khơng có được lý luận tiền phong soi đường, dẫn lối.
Như vậy, từ những khái niệm trên cho thấy, lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin là lý luận chính trị của giai cấp vơ sản, là hệ tư tưởng chân chính nhất
của giai cấp vơ sản và chính đảng của mình - Đảng Cộng sản. Đó là kim chỉ
nam của giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh giải phóng mình, giải phóng
nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và trả con người về
đúng vị trí của nó.
1.1.2. Vị trí và tầm quan trọng của cơng tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được sau
hơn 10 năm đổi mới. Có được những kết quả đó là do Đảng đã vận dụng đúng
đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Có thể thấy, vị trí, tầm quan trọng của cơng tác ĐT,
BDLLCT trong thời gian qua đã góp phần khơng nhỏ vào kết quả trên.
ĐT, BDLLCT là tuyên truyền, giáo dục những vấn đề thuộc lý luận chính
trị, bằng việc đi sâu giải thích các sự vật hiện tượng diễn ra trong tự nhiên, xã
hội. ĐT, BDLLCT đem đến cho mọi người những hiểu biết về quy luật phát
triển của xã hội, về thế giới quan, nhân sinh quan, đường lối chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước, để từ đó vạch ra cho mình tư tưởng, lối sống,
hồi bão, ý chí, nguyện vọng, những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức để gạt bỏ
cái cũ, tiếp thu có chọn lọc cái mới... Bên cạnh đó, ĐT, BDLLCT cịn là việc
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, xây dựng thành hệ thống quan điểm lý luận
chính trị, hình thành và phát triển tư tưởng xã hội, phát triển những mâu thuẫn
xã hội và đưa ra những dự báo để phát triển cho tương lai. Nhiệm vụ của ĐT,
BDLLCT là thông qua các công cụ và phương tiện để truyền bá những kiến
thức phong phú của đời sống xã hội, các quan điểm, những đánh giá về các
hiện tượng và xu thế phát triển của của xã hội. Công tác ĐT, BDLLCT là một
9
bộ phận của cơng tác tư tưởng, có vai trị rất quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác- Ph.Ăngghen đã nêu lên
hai đặc điểm cơ bản của người cộng sản, đó là lịng trung thành với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân và sự hiểu biết về lý luận: “Về mặt thực
tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công
nhân ở các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên. Về mặt lý
luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu những điều
kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vơ sản” [35, tr.614-615]. Bên
cạnh đó, Mác- Ăngghen cũng nhận định giáo dục, giáo dục, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi
Đảng Cộng sản, đồng thời coi đây là điều kiện dẫn đến mọi thắng lợi của các
phong trào cách mạng; nhờ được ĐT, BDLLCT, giai cấp vô sản “...sẽ có khả
năng đảm nhận vai trị lãnh đạo nhờ sự hơn hẳn về lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn của mình” [34, tr.632].
V.I.Lênin nhận định: “Khơng thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không
làm công tác lý luận..., cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại
khơng hướng cơng tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại không tuyên
truyền trong công nhân những kết luận của lý luận đó và khơng giúp đỡ họ tổ
chức nhau lại” [31, tr.382]. Người khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một
giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng đào tạo ra được trong
hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả
năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [33, tr.143].
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá kiệt
xuất, đồng thời cũng là nhà lý luận chính trị, ln coi trọng và quan tâm đến
công tác ĐT, BDLLCT. Theo Người, đây là hoạt động quan trọng, quyết định
sự thành bại của sự nghiệp cách mạng xuyên suốt mọi giai đoạn lịch sử. Với ý
nghĩa đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
10
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” [37, tr.233] và “Huấn luyện cán
bộ là công việc gốc của Đảng” [37, tr.269].
Do nhận thức rõ tầm quan trọng của lý luận chính trị và vai trị của cơng
tác giáo dục lý luận chính trị, nên trong q trình chỉ đạo thực tế, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm tới tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác-Lênin cho các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam từ những
năm 20 của thế kỷ XX.
Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu mở các lớp giáo dục lý luận cách
mạng cho những người yêu nước của Việt Nam. Những bài giảng của Người
được tập hợp lại và xuất bản thành tác phẩm “Đường Kách mệnh” do Bộ
Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đơng xuất bản năm
1927. Ngay trang bìa dưới tên Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã trích
câu của Lênin trong tác phẩm “Làm gì?” như một lời tựa: “Khơng có lý luận
cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách
mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiên
phong” [36, tr.259]. Theo Người, cách mạng muốn thành cơng, đảng phải
vững mạnh, đảng muốn vững mạnh phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ,
đảng viên cần phải hiểu và thực hành theo lý luận đó. Người viết: “Đảng có
vững, cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền
mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng
phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng
như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” [36, tr.268]. Đảng
cách mạng trước hết phải được võ trang bởi một lý luận tiền phong và để
“trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo” lý luận tiền phong ấy thì
giáo dục lý luận chính trị là nhân tố khơng thể thiếu được. Nguyễn Ái Quốc
đã tuyên truyền lý luận chính trị để thành lập Đảng và Người cùng với Đảng
liên tục giáo dục lý luận chính trị cho các đối tượng người Việt Nam yêu
nước, dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công, thành lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
11
Hồ Chí Minh cho rằng ĐT, BDLLCT góp phần nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân; làm cho chủ nghĩa MácLênin trở thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội,
giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân xây dựng thế giới quan và phương
pháp luận đúng đắn. Tháng 5/1966, tại lớp huấn luyện đảng viên mới do
Thành uỷ Hà Nội tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Khơng có lý
luận về CNXH khoa học thì khơng thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì
vậy, các cơ, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lênin, học tập đường
lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hoá, kỹ thuật và nghiệp
vụ” [42, tr.92]. Người chỉ rõ: “Mỗi đảng viên phải tích cực học tập. Phải thực
hiện lời dạy của Lênin là học, học nữa, học mãi. Học phải đi đôi với hành.
Học để hành ngày càng tốt hơn; phải coi việc học tập lý luận chính trị là một
nhiệm vụ quan trọng của mình”[42, tr.94]. Người nhấn mạnh: “Đối với công
việc kháng chiến và kiến quốc, lý luận là rất quan trọng. Khơng hiểu lý luận
thì như người mù đi đêm” [38, tr.231]. Có lý luận chính trị Mác - Lênin soi
đường thì quần chúng nhân dân hành động mới đúng đắn, mới phát triển tài năng
và lực lượng vô tận của họ. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ là phải chống thói xem
nhẹ học tập lý luận chính trị, "vì khơng học tập lý luận thì chí khí kém kiên
quyết, khơng trơng xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết
quả là "mù chính trị", thậm chí hủ hố xa rời cách mạng" [38, tr.234].
Đồng thời với việc quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, các chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng
viên phải học kinh nghiệm của nhân dân, phải tổng kết phong trào của quần
chúng để phát triển thành lý luận. Được ĐT, BDLLCT, mỗi người mới có
trình độ giác ngộ cách mạng, nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của
mình. Người giải thích: “có nắm vững đường lối cách mạng... mới hiểu rõ
mình phải làm gì và đi theo phương hướng nào để thực hiện mục đích của
Đảng trong giai đoạn cách mạng hiện nay” [38, tr.94].
12
ĐT, BDLLCT còn tác động trực tiếp đến con người, đến tư tưởng đạo
đức và khả năng thực hành công việc của mỗi người, giúp họ khắc phục
những tư tưởng lạc hậu, nâng cao tinh thần tự giác và tính tích cực trong q
trình cải tạo, xây dựng con người mới. Theo đó, Hồ Chí Minh căn dặn:
“Những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc cho đồng bào là bạn.
Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc cho đồng bào là kẻ thù. Thế
là chẳng những ở ngồi, mà chính ở trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy
chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên quyết chống
lại kẻ thù ở ngoài và ở trong mình ta” [38, tr.454].
Nâng cao trình độ chính trị là nhu cầu tự thân của mọi công dân yêu
nước, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, là cơ sở để nắm bắt chủ trương
chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Để nâng cao nhận thức về lý
luận chính trị cho mọi người, Hồ Chí Minh cho rằng, phải dạy lý luận, dạy
chủ nghĩa Mác-Lênin. Giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin là truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước
tới cán bộ, đảng viên nhằm tạo ra sự thống nhất về tư tưởng, nâng cao nhận
thức chính trị, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ,
hướng dẫn họ vận dụng những điều đã biết ấy vào cuộc sống.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo
đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào
công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Trong suốt q trình lãnh đạo, Đảng ln
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hành động của mình. Điều đó được Đảng khẳng định rõ
trong Cương lĩnh đầu tiên (1930) và sau này trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thơng qua tại Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ VII (6/1991): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [18, tr.127].
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và trước xu thế tồn cầu hóa, Đại hội đại
13
biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII đều khẳng định: Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
Đảng [20, tr.83]. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, khóa IX chỉ rõ:
Trong tình hình hiện nay, với việc thực hiện cơ chế thị trường
định hướng XHCN, CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN,
Đảng ta coi trọng việc học tập và nghiên cứu lý luận: con đường
CNH, HĐH theo định hướng XHCN; đổi mới và hồn thiện hệ
thống chính trị; xây dựng chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới; phát
triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực; đặc điểm của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ hiện đại và sự phát triển kinh tế tri thức;
những tác động mặt trái của tồn cầu hóa; dự báo xu thế phát triển
chủ yếu của thế giới và khu vực; những vấn đề lý luận phục vụ quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến
hịa bình” của các thế lực thù địch [24, tr.135].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định:
Phải nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, vận dụng và phát triển sáng tạo trong hoạt động
thực tiễn của Đảng. Nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận và đổi
mới công tác giáo dục lý luận, công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp [25, tr.49].
Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X nêu
rõ quan điểm chỉ đạo về cơng tác lý luận chính trị:
Một là, cơng tác tư tưởng, lí luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan
trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng,
bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ
chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, khẳng định và nâng cao vai
14
trị tiên phong của Đảng về chính trị, lí luận, trí tuệ, văn hố và đạo đức; thể hiện
vai trị đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, cơng tác tư tưởng, lí luận, báo chí phải đóng vai trị quan trọng
trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp
công nhân, lí tưởng XHCN, những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá
dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội.
Ba là, công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên,
trước hết là cấp uỷ các cấp và đồng chí bí thư cấp uỷ, của cả hệ thống chính
trị với sự tham gia, đóng góp của nhân dân, trong đó lực lượng nịng cốt là đội
ngũ chun trách làm cơng tác tư tưởng, lí luận, báo chí của Đảng; phải phát
huy dân chủ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo của toàn Đảng và toàn xã hội
để tạo bước phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực tư tưởng, lí luận, báo chí.
Bốn là, công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, một
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải nắm vững những quy luật riêng của
tư tưởng, có thái độ, phương pháp khoa học, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu định
hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lí trí và tình cảm, giữa lời nói và việc
làm, giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm chính, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực;
phải gắn bó mật thiết và phục vụ có hiệu quả cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, nâng cao đời sống và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. [26, tr.14].
Qua tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới, có thể nhận thấy vị trí,
tầm quan trọng của cơng tác ĐT, BDLLCT là đã góp phần nâng cao nhận thức
về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; hệ thống quan điểm lý luận
về công cuộc đổi mới đã hình thành trên những nét cơ bản và đang được kiểm
chứng trong thực tiễn. Bên cạnh đó, cơng tác ĐT, BDLLCT cịn góp phần
nâng cao trình độ lý luận chính trị và trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên; đáp ứng tốt hơn những địi hỏi của cơng tác lãnh đạo,
15
quản lý và nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cơ sở. Nhiều cán bộ, đảng viên
sau học tập đã vận dụng tốt kiến thức đã học vào thực tiễn, phát huy được vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công việc, vận động quần chúng thực hiện các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần
tích cực thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước tiến rõ rệt trong đổi
mới phương thức, lề lối làm việc theo hướng khoa học, bảo đảm tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ, phát huy được sự chủ động, sáng tạo của các cấp, các
ngành, sự tham gia của nhân dân; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên; bộ máy chính quyền
được củng cố, kiện tồn một bước và từng bước nâng cao hiệu lực quản lý, điều
hành; nội dung, phương thức, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân có bước chuyển biến tích cực hơn; quốc phịng, an ninh được
bảo đảm. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công
cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước.
Trong bối cảnh đất nước đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế, bên cạnh
những ảnh hưởng tích cực ngày càng xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực và sự
chống phá sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta của các thế lực
thù địch, đặc biệt là sự tấn cơng vào nền tảng tư tưởng- chính trị của Đảng từ
nhiều phía, làm dao động tư tưởng và sự hồi nghi trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên ở cơ sở vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam. Vì thế, việc ĐT, BDLLCT, thống nhất về quan điểm, lý tưởng
chính trị, củng cố niền tin, lập trường cho cán bộ cơ sở là vơ cùng cần thiết
nhằm nâng cao nhận thức, hình thành thái độ đúng đắn, tạo tâm lý sẵn sàng
vượt khó khăn, ý chí sẵn sàng hành động nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ mà
Đảng, Nhà nước giao phó.
Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
16
bằng, dân chủ, văn minh, trong điều kiện quốc tế và trong nước có những
thuận lợi nhưng cũng đầy khó khăn và thách thức. Trong điều kiện đó, trình
độ tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nhiều hay ít, cao
hay thấp tùy thuộc vào sự giác ngộ của họ về mục tiêu, con đường, biện pháp
và phương thức thực hiện mục tiêu đó. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu phát triển
mới, đòi hỏi càng phải đẩy mạnh công tác ĐT, BDLLCT, tạo ra sự thống nhất
cao về nhận thức để có quyết tâm đưa sự nghiệp cách mạng nước ta phát triển
vững mạnh và đúng định hướng. u cầu này địi hỏi phải có sự thống nhất
trong Đảng, trong nhân dân, sự đồng thuận trong xã hội. Đáp ứng nhu cầu đó,
việc nâng cao trình độ lý luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị và năng lực thực
hiện nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ hết sức nặng nề.
Để thực hiện tốt chức năng cơ bản của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
như chỉ đạo, điều hành, xây dựng các kế hoạch hoạt động, đề ra các giải pháp
cụ thể, tổ chức chỉ đạo cấp dưới thực hiện nhiệm vụ thì cán bộ lãnh đạo, quản
lý phải được giáo dục, bồi dưỡng kiến thức về lý luận chính trị nhằm nâng cao
nhận thức về chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
cần hướng tới những cán bộ cơ sở có trình độ giác ngộ chính trị cao, có tinh
thần u nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu
XHCN, có lí tưởng cao đẹp, gương mẫu, trung thực trước quần chúng, không
cơ hội, vụ lợi, khơng tham nhũng, có phương pháp làm việc khoa học, phấn
đấu không ngừng cho độc lập tự do của Tổ Quốc, thống nhất về tư tưởng, ý
chí hành động, thấm nhuần chủ nghĩa tập thể, tinh thần đoàn kết tương trợ.
Hiện nay, nước ta đang có một lực lượng cán bộ cơ sở khá đơng đảo, có
phẩm chất đạo đức tốt, có nhiệt tâm cách mạng, có động cơ phấn đấu trong
sáng, lành mạnh, có ý chí phấn đấu vươn lên. Trong thực tiễn, họ cũng đã
đóng góp tích cực với tất cả ý thức trách nhiệm của mình để giải quyết các
nhiệm vụ chính trị của Đảng ở các địa phương, cơ sở. Tuy nhiên, thực trạng
17
trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên ở cơ sở, nhất là lớp đảng viên
mới được kết nạp ở nông thôn, đảng viên là người dân tộc thiểu số ở vùng
sâu, vùng xa đang là vấn đề cần được quan tâm. Thực tế trên đặt ra yêu cầu
mới đối với công tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Phải đa dạng
hóa hình thức ĐT, BDLLCT để không chỉ cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống mà cịn trang
bị những kiến thức cơ bản cho họ về kinh tế thị trường định hướng XHCN, về
vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân…
Bên cạnh đó, trong thực tế vẫn cịn những cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý chưa đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới, dẫn tới hiệu quả công tác chỉ
đạo, lãnh đạo quần chúng cón hạn chế. Nhằm đẩy mạnh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước mỗi cán bộ lãnh đạo ở cơ sở phải có ý thức tự học tập, tự trau
dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức về lý luận chính trị - hành
chính. Để khơng ngừng hồn thiện nhân cách nhà lãnh đạo quản lý ở cơ sở,
bên cạnh việc trang bị kiến thức chun mơn thì cần thiết phải cung cấp kiến
thức về lý luận chính trị, xây dựng lí tưởng chính trị là độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh và khẳng định đó mãi mãi là ngọn đèn soi sáng cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng và Nhà nước ta. Mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở tùy
theo nhiệm vụ cụ thể của mình, ln có ý thức tự hồn thiện nhân cách, tự
ĐT, BDLLCT, ln mẫu mực trước quần chúng để xứng đáng là nhà lãnh đạo,
quản lý có uy tín ở cơ sở, góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong điều kiện hiện nay, việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
của công tác ĐT, BDLLCT được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Bởi lẽ:
Thứ nhất, đổi mới của nước ta đang phát triển mạnh mẽ cả bề rộng và
chiều sâu, được tiến hành trong điều kiện trong nước và quốc tế có những
18
thuận lợi; song khó khăn thách thức cũng rất lớn, nhiều vấn đề mới đặt ra cả
lý luận và thực tiễn, chúng ta vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa nghiên cứu lý
luận vừa tổng kết thực tiễn... Tình hình đó địi hỏi sự thống nhất cao về tư
tưởng và hành động trong Đảng, sự đồng thuận của toàn xã hội.
Thứ hai, nội dung chủ yếu của công tác ĐT, BDLLCT là giáo dục, nâng
cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chủ nghĩa Mác - Lênin, với
tư cách là một lý luận khoa học, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học
và cách mạng, mà linh hồn sống của nó là phép biện chứng duy vật đặt ra yêu
cầu phải được bổ sung phát triển, phải được nhận thức một cách đầy đủ, sâu
sắc và toàn diện để phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Đường lối của
Đảng là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta, luôn được bổ sung
phát triển và cụ thể hoá ngày càng sâu sắc hơn để phù hợp với sự phát triển
của thực tiễn. Vì vậy, trong quá trình tổ chức, giáo dục, truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin đòi hỏi phải đổi mới một cách tồn diện, cả về nội dung chương
trình, phương thức tổ chức, phương pháp giảng dạy....
Thứ ba, cũng như các hoạt động khác, công tác ĐT, BDLLCT do Đảng ta
tiến hành tự bản thân nó địi hỏi phải được đổi mới, có phương pháp thực hiện
một cách khoa học. Nhiều năm qua, cơng tác ĐT, BDLLCT đã có nhiều cố
gắng, suy nghĩ tìm tịi, cải tiến đổi mới, nhưng đó mới chỉ là những giải pháp
tình thế, chắp vá, thiếu cơ bản đồng bộ, hoạt động ĐT, BDLLCT mới chỉ
dừng lại ở kinh nghiệm giảng dạy của từng người, từng bộ phận. Vì vậy, chất
lượng và hiệu quả cịn có những hạn chế, như nghị quyết của Đảng đã nhiều
lần chỉ ra.
Tóm lại, cơng tác ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có một vị
trí và tầm quan trọng đối với một chính đảng, đặc biệt là đối với chính đảng
vơ sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã hết sức quan tâm đến công tác ĐT,
19
BDLLCT, nên ngay từ đầu Người đã không ngừng tuyên truyền chủ nghĩa MácLênin vào Việt Nam đồng thời trực tiếp mở các lớp giáo dục lý luận cách mạng
cho những thanh niên yêu nước. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, quán triệt các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng ln chú trọng đến cơng tác ĐT, BDLLCT, coi đó là yếu tố căn bản
để nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp cơ sở.
1.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TỈNH QUẢNG NINH TRƯỚC NĂM 1996
1.2.1. Vài nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội, lịch sử
tỉnh Quảng Ninh
* Đặc điểm tự nhiên
Quảng Ninh là tỉnh miền núi, trung du, ven biển, nằm ở vùng Đơng Bắc
của nước Cộng hịa XHCN Việt Nam. Chiều rộng từ Đông sang Tây, khoảng
rộng nhất = 195 km; chiều dài từ Bắc xuống Nam, khoảng dài nhất = 102 km.
Quảng Ninh có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, phía Bắc và
phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, dài 132,8 km. Tây Bắc giáp
với Lạng Sơn. Phía Tây giáp các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, thành
phố Hải Phòng. Phía Đơng và phía Nam giáp với vịnh Bắc Bộ và là cửa ngõ
thông ra biển của vùng đồng bằng sơng Hồng, trung du và miền núi phía Bắc.
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh 6.110 km2; dân số của tỉnh theo Niên giám
thống kê năm 2006 là 1.091.846 người, gồm 22 thành phần dân tộc sinh sống,
như người Kinh, Tày, Dao, Sán Chỉ, Sán Dìu, Hoa, .... Dân cư của tỉnh Quảng
Ninh phân bố chủ yếu ở thành phố Hạ Long, Móng Cái và các thị xã, các
huyện đồng bằng, các thị trấn trung tâm của các huyện miền núi, hải đảo.
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Tỉnh Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính, được chia làm hai miền Đông
và Tây rõ nét. Miền Đông bao gồm 8 huyện, thị, thành phố, trong đó có 2
huyện đảo là Vân Đồn, Cơ Tơ và thành phố Móng Cái, Tiên Yên, Ba Chẽ,
20
Bình Liêu, Đầm Hà, Hải Hà. Đây là miền đất có nhiều núi cao, rừng rậm và
những vùng đồi kế tiếp nhau. Miền Đông của tỉnh Quảng Ninh là vùng kinh tế
năng động, tiếp giáp ven biển phía Nam của Trung Quốc qua cửa khẩu quốc
tế Móng Cái, Hồnh Mơ (Bình Liêu) và cửa khẩu Pắc Phong Sinh (Hải Hà)
tạo nên vị trí tiền đồn rất quan trọng về kinh tế, quốc phòng – an ninh đối với
cả nước. Miền Tây bắt đầu từ thị xã Cẩm Phả, thành phố Hạ Long, thị xã
ng Bí, huyện Hồnh Bồ và hai huyện vùng lúa Yên Hưng, Đông Triều.
Miền Tây Quảng Ninh là khu công nghiệp quan trọng nhất của tỉnh, đồng thời
cũng là vùng khai thác than đá lớn nhất của cả nước. Thành phố Hạ Long là
trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh. Tồn tỉnh
có 184 xã, phường, thị trấn. Diện tích tự nhiên 611.081,3 ha, trong đó: đất
nơng nghiệp và đất chuyên dùng có khoảng 100.000 ha, đất rừng và có triển
vọng để phát triển rừng có trên 500.000 ha. Đây là lợi thế lớn cho nghề nông lâm, trồng cây công nghiệp, trồng rừng lấy gỗ phục vụ cho công nghiệp khai
thác than, công nghiệp chế biến lâm - hải sản, thủ cơng nghiệp sản xuất hàng
hố phục vụ đời sống dân sinh và xuất khẩu.
Bờ biển Quảng Ninh dài hơn 250 km, dọc bờ biển có nhiều cảng lớn,
thuận tiện cho việc thơng thương trong và ngồi nước. Vịnh Hạ Long 2 lần
được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới về giá trị ngoại hạng của Cảnh
quan và giá trị địa chất, địa mạo. Bên cạnh đó, Quảng Ninh cịn có hàng ngàn
hécta trương bãi ven biển có nhiều lợi thế để ni trồng thuỷ sản, trên
600.000 ha mặt biển có 2.078 đảo chiếm 2/3 số đảo ven biển Việt Nam (trong
đó 22 đảo có dân sinh sống) và 30 con sơng, suối bắt nguồn từ phía sườn đồi
đón gió thuộc cánh cung huyện Đơng Triều ở độ cao 500 m, chảy ra vịnh Bắc
Bộ, tạo nên nhiều bến cảng sông biển, thuận tiện cho lưu thông hàng hoá,
quan hệ giao lưu với các vùng trong nước, nước ngoài đang là một lợi thế lớn
để phát triển các ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, công nghiệp đóng
mới và sửa chữa tàu thuyền, sản xuất muối và xây dựng các trạm thuỷ điện
21
nhỏ, cực nhỏ phục vụ đời sống đồng bào dân tộc miền núi cùng nhân dân
trong tỉnh.
Khoáng sản ở Quảng Ninh có nhiều loại với trữ lượng lớn, ngày nay đã
có hơn 140 mỏ khống sản và hàng ngàn điểm quặng có trữ lượng lớn, nhỏ
đang được khai thác như: than đá, đá vôi, đất sét, sét trắng, cát thuỷ tinh, cao
lanh Pyrơphilít, Titan, Ăngtymoam, Vàng, Kẽm, Nước khống thiên nhiên...
Diện tích bể than Quảng Ninh khoảng 1.300 km 2. Trữ lượng than tự nhiên có
khoảng 12 tỷ tấn, chiếm 90% tổng trữ lượng than cả nước. Với 70.000 công
nhân mỏ khai thác trên phạm vi rộng, ngành công nghiệp khai thác than đã trở
thành ngành kinh tế quan trọng chi phối rất nhiều lĩnh vực và có ảnh hưởng
lớn đến kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở Quảng Ninh. Hiện nay,
lao động trong độ tuổi chiếm tỷ lệ trên 56% dân số, trong đó lao động trong
ngành công nghiệp và thủ công nghiệp chiếm khoảng 30% tổng số lao động
toàn tỉnh. Nội dung quan trọng của chương trình CNH, HĐH của tỉnh là xây
dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh có khu cơng nghiệp hiện đại và du lịch hiện
đại. Chính vì vậy, địi hỏi Quảng Ninh cần có đội ngũ cán bộ nói chung và cán
bộ cấp cơ sở nói riêng có đủ trình độ chun mơn, lý luận chính trị, năng lực
và lịng nhiệt tình, như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh
trong tương lai.
* Truyền thống lịch sử
Quảng Ninh là vùng đất có đặc điểm địa lý, kinh tế và tiềm năng rất đa
dạng, có truyền thống ngàn năm văn hiến. Sách Đại Nam nhất thống chí miêu
tả vùng đất này: “Lấy núi làm thành, chiếm chỗ cao, giữ chỗ hiếm, núi che
lưng, biển bọc quay mình, thế đất hẻo lảnh mà ổn định, trong vững ngồi
kín”. Theo Phan Huy Chú, “Quảng Ninh thật là nơi hình thắng của nước
Nam” [44, tr.26].
Nhân dân các dân tộc Quảng Ninh có truyền thống yêu nước nồng nàn,
lao động cần cù sáng tạo kết hợp với truyền thống văn hoá lâu đời. Truyền
22
thống đó đã làm cho con người Quảng Ninh vượt qua khó khăn trong các thời
kỳ chiến tranh chống giặc ngoại xâm và thiên tai để xây dựng cuộc sống ấm
no hạnh phúc, xây dựng tỉnh Quảng Ninh ngày thêm giàu đẹp, văn minh.
Lịch sử của nhân dân các dân tộc Quảng Ninh hàng ngàn đời nay là lịch
sử oai hùng, kiên cường và bất khuất chống giặc ngoại xâm. Con người, núi
sông, biển cả của mảnh đất anh hùng này đã đóng góp to lớn vào trang sử
vàng chói lọi của dân tộc Việt Nam. Tiêu biểu là trên dịng sơng Bạch Đằng
với ba lần nhân dân ta làm nên chiến thắng huy hoàng chống xâm lược: Trận
Bạch Đằng, năm 938 Ngô Quyền chiến thắng quân Nam Hán, kết thúc thời kỳ
mất nước kéo dài hơn nghìn năm của dân tộc “Để lại tiếng thơm muôn đời”
và đến cuối thế kỷ thứ X với chiến thắng quân Tống xâm lược dưới sự lãnh
đạo của Lê Hoàn. Năm 1288, Trần Hưng Đạo cùng nhân dân ta đánh thắng
quân Nguyên - Mơng cũng trên dịng sơng Bạch Đằng ... và những thành tích
to lớn góp phần vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước ở thế kỷ XX là những thiên anh hùng ca bất diệt, biểu tượng của lịng
u nước thiết tha, ý chí tự lực tự cường, anh hùng bất khuất, quyết chiến và
quyết thắng [44, tr.27 - 28].
Ngày 12/3/1883, thực dân Pháp đổ quân vào Bãi Cháy, chính thức chiếm
đóng vùng đất Quảng Ninh và chúng nắm toàn quyền sở hữu miền “vàng
đen” giàu có của Quảng Ninh. Dưới sự khai thác, vơ vét than của tư bản Pháp,
lực lượng thợ mỏ ở Quảng Ninh càng phát triển nhanh. Chế độ áp bức, bóc lột
tàn bạo, sự tham lam vô độ trong việc vơ vét tài nguyên của thực dân Pháp, đã
làm cho phong trào chống thực dân Pháp của nhân dân Quảng Ninh nổ ra ở
khắp nơi. Hòa cùng với phong trào “Cần vương” và nhiều phong trào khác
trong cả nước (1885-1895). Cuối thế kỷ XIX, trên miền đất Quảng Ninh đã ra
đời một lực lượng mới của xã hội và không ngừng trưởng thành, đó là đội ngũ
cơng nhân mỏ. Năm 1929, số công nhân mỏ tăng gấp 6 lần so với những năm
cuối thế kỷ trước.