1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành tựu của công cuộc đổi mới là một trong những thắng lợi vĩ đại
của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, hoàn thành chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Sự hình thành và phát triển nhận thức của Đảng về CNH, HĐH là một
nội dung cốt lõi của q trình tìm tịi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nước
ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất cịn thấp. Vì vậy, CNH, HĐH ln là nhiệm
vụ được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và dành nhiều cơng sức, trí tuệ
lãnh đạo và chỉ đạo. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, quan niệm về CNH,
HĐH được Đảng ta nêu ra tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VII) và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong các
Đại hội tiếp theo. Quá trình lãnh đạo thực hiện CNH, HĐH đã khơi dậy các
nguồn lực to lớn của toàn dân tộc và đạt được những thành tựu quan trọng.
Thành quả của sự nghiệp CNH, HĐH góp phần quan trọng vào sự ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục khẳng định vị trí nước ta trên trường quốc
tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện đường
lối CNH, HĐH, vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
Bình Dương là tỉnh thuộc miền Đơng Nam bộ, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam, với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên các trục giao thông
quan trọng của quốc gia. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ
tỉnh Bình Dương nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của quá trình đẩy mạnh
CNH, HĐH của tỉnh. Do vậy, Đảng bộ tỉnh đã phát huy truyền thống năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của nhân dân trong tỉnh, đồng thời đẩy
mạnh khai thác tiềm năng sẵn có của địa phương trong thời kỳ đổi mới. Với
chính sách “trải chiếu hoa đón mời nhà đầu tư”, cùng với sự nhạy bén của
2
Đảng bộ tỉnh trong việc lãnh đạo và thực hiện đường lối CNH, HĐH, nền
kinh tế Bình Dương đã có sự phát triển tương đối toàn diện. Cơ cấu kinh tế có
sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Đời sống, vật chất và tinh thần của
nhân dân không ngừng được nâng lên.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của
giới nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Việc đánh giá đầy đủ, khách quan,
khoa học qúa trình lãnh đạo thực hiện đường lối CNH, HĐH của Đảng bộ tỉnh
Bình Dương là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược để xây dựng và phát triển
nền kinh tế - xã hội của tỉnh. Mặt khác, những thành tựu, khuyết điểm, thuận
lợi và khó khăn, kinh nghiệm thành công và chưa thành công trong sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về CNH, HĐH là vấn đề đang được nhiều
người quan tâm. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Dương
lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương chính sách về CNH, HĐH từ năm
1997 đến năm 2009 là một yêu cầu cấp thiết, nhằm lý giải những thành công
cũng như hạn chế, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới là việc làm có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn quan trọng. Đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài
“Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa từ năm 1997 đến năm 2009” làm Luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có vị trí quan trọng trong q trình đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước.
Chính vì vậy, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu.
Một là, những cơng trình nghiên cứu, đề cập đến q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới trên cả lý luận và thực tiễn.
3
GS,TS Nguyễn Trong Chuẩn, Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam-lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002; TS Nguyễn
Xuân Dũng, Một số định hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2002; GS,TS
Đỗ Đình Giao, Suy nghĩ về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996; GS,TS Đỗ
Đình Giao: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại
hố nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994; Phạm Kiêm
Ích, Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực,
NXB Thống kê, Hà Nội 1995; PGS Đỗ Hoài Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành và phát triển mũi nhọn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1996.
Hai là, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam và chuyên ngành kinh tế, viết về lĩnh vực này như:
Nguyễn Chí Định, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai, Luận án tiến sĩ chuyên ngành kinh tế,
Hà Nội, năm 2001; Trần Thị Thu Hằng, Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ 1996
đến 2005. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, Hà Nội, năm 2006;
Nguyễn Thanh Tùng, Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
cơng nghiệp hóa đất nước thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội (1960-1996),
Luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng, Hà Nội, năm 1998.
Ba là, nhóm các bài viết đăng trên các tạp chí chun ngành:
Nguyễn Sinh Cúc, Bình Dương một mơ hình về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngồi ,Tạp chí cộng sản 12-2004; GS,TS
Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạo nguồn lực cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Tạp chí Cộng sản 7-2001; Phạm Văn Đồng, Tạo thế và lực cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Cộng sản 1-1998;
Nguyễn Minh Đức, Chủ động và năng động Bình Dương, Tạp chí Cộng sản
4
3-2003; Cao Đức Huệ, Chủ trương cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
qua một số Văn kiện Đảng, Tạp chí Lịch sử Đảng, 11-1996; Nguyễn Thanh
Tùng, Q trình tìm tịi mơ hình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Lịch sử Đảng, 8-1997.
Qua các cơng trình trên đây, có thể thấy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
có rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở những góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu về cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Bình Dương trong giai đoạn hiện nay. Việc lựa chọn đề tài nghiên
cứu là rất cần thiết đối với quá trình đổi mới ở Bình Dương nói riêng và cả
nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài làm rõ quá trình vận dụng đúng đắn, sáng
tạo đường lối, chủ trương của Đảng trong lãnh đạo thực hiện đường lối cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng bộ tỉnh Bình Dương, từ năm 1997 đến năm
2009. Những kết quả đạt được và những kinh nghiệm góp phần định hướng
cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày một cách có hệ thống quan điểm, đường lối, chủ trương của
Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa từ năm 1997 đến năm 2009.
- Trình bày quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo thực hiện
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá từ năm 1997 đến năm 2009.
- Phân tích đánh giá một cách khách quan, khoa học thành tựu và hạn
chế trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo thực hiện cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá trên một số lĩnh vực chủ yếu, từ năm 1997 đến năm 2009.
- Tổng kết một số kinh nghiệm trong lãnh đạo thực hiện đường lối cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bình Dương.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa từ năm 1997 đến năm 2009.
- Quá trình Đảng bộ tỉnh chỉ đạo thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, từ năm 1997 đến năm 2009.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu là tỉnh Bình Dương. Thời gian nghiên cứu từ
tháng 1 - 1997(từ khi Bình Dương tái lập tỉnh) đến hết năm 2009.
- Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên,
trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu trên
một số lĩnh vực chủ yếu như: Công nghiệp; nông nghiệp, nông thôn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lơgic.
Ngồi ra tác giả đã vận dụng một số phương pháp khác như thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp…
- Luận văn chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu là các Văn kiện, Nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội X; các Văn kiện,
Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Bình Dương từ Đại hội IV đến Đại hội VIII; các
cơng trình nghiên cứu và các tạp chí chun ngành có liên quan đến đề tài,…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn về nội dung, phương thức và q trình
lãnh đạo thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bình Dương.
6
- Rút ra một số kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về lãnh đạo,
thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.
7
Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƯƠNG LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CƠNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000
1.1. THỰC TRẠNG CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở BÌNH
DƯƠNG TRƯỚC NĂM 1997
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương
Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp thành
phố Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế - công nghiệp - thương mại - dịch
vụ - khoa học công nghệ; đầu mối giao thông và giao lưu kinh tế lớn nhất của
cả nước; tiếp giáp với Đồng Nai nơi có lịch sử phát triển công nghiệp tương
đối sớm, gần sân bay, cảng biển, có các trục giao thơng quan trọng như đường
sắt, đường sông và đường bộ chạy qua; đất đai và địa hình tương đối bằng
phẳng cho phát triển cơng nghiệp, nơng nghiệp và các loại hình dịch vụ;
nguồn lao động dồi dào… Đó là những nguồn lực quan trọng để Bình Dương
thực hiện CNH, HĐH.
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đơng Nam bộ, phía Bắc giáp Bình
Phước, phía Nam và Tây Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Tây giáp Tây
Ninh, phía Đơng giáp Đồng Nai. Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, được xem là cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh, thơng
thương giữa trung tâm cơng nghiệp đơ thị lớn với các tỉnh miền Đông Nam bộ
và Nam Tây Nguyên; là trung tâm của các đầu mối giao thơng huyết mạch, có
khả năng tiếp nhận các cơ sở công nghiệp từ đô thị chuyển ra, đồng thời là vành
đai cung cấp thực phẩm cho các vùng đô thị. Với vị trí địa lý tự nhiên, Bình
Dương có tiềm năng đa dạng và có điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển
kinh tế của tỉnh trên cả ba lĩnh vực: công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
8
Bình Dương nằm trong tọa độ địa lý: vĩ độ Bắc: 110°52' - 120°18', kinh
độ Đơng: 106°45' - 107°67'30". Tồn tỉnh có diện tích tự nhiên là 269.554 ha
(chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ 42/63) trong đó đất nông nghiệp
215.476 ha, đất lâm nghiệp 12.791 ha, đất chuyên dùng 22.563 ha, đất ở
5.845 ha, đất chưa sử dụng chỉ cịn 12.879 ha [20, tr.9].
Bình Dương nằm trong vùng chuyển tiếp giữa cao nguyên Nam Trung
bộ với đồng bằng sơng Cửu Long nên địa hình chủ yếu là những đồi thấp, thế
đất bằng phẳng, nền địa chất ổn định, vững chắc, phổ biến là những dãy đồi
phù sa cổ nối tiếp nhau với độ cao trung bình 20-25 m so với mặt biển, độ dốc
2-5° và độ chịu nén 2kg/cm². Đặc biệt có một vài đồi núi thấp nhơ lên giữa
địa hình bằng phẳng như núi Châu Thới (Dĩ An) cao 82m và ba ngọn núi
thuộc huyện Dầu Tiếng là núi Ông cao 284m, núi La Tha cao 198m và núi
Cậu cao 155m.
Về mặt thổ nhưỡng, do lịch sử cấu tạo địa chất đặc thù và địa hình, khí
hậu, đất Bình Dương tương đối phì nhiêu và phong phú về chủng loại:
Vùng thung lũng bãi bồi, phân bố dọc theo các sơng Đồng Nai, sơng
Sài Gịn và sơng Bé. Đây là vùng đất thấp, phù sa mới, khá phì nhiêu, bằng
phẳng, cao trung bình từ 6-10m.
Vùng địa hình bằng phẳng, nằm kế tiếp sau các vùng thung lũng bãi
bồi, địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc 3-12°, cao trung bình từ 10-30m.
Vùng địa hình đồi thấp có lượn sóng yếu, nằm trên các nền phù sa cổ,
chủ yếu là các đồi thấp với đỉnh bằng phẳng, liên tiếp nhau, có độ dốc 5-12 o,
độ cao phổ biến từ 30-60m. Các nhà thổ nhưỡng đã tìm thấy ở Bình Dương 7
loại đất khác nhau, nhưng chủ yếu là đất xám và đất đỏ vàng. Theo kết quả
tổng điều tra đất năm 2000 thì hai loại đất này chiếm 76,5% diện tích tự nhiên
tồn tỉnh, trong đó đất xám chiếm 52,5%; đất đỏ vàng chiếm 24,0%. Đây là
hai loại đất rất thích hợp với các loại cây cơng nghiệp lâu năm như cao su, cà
phê, điều, tiêu, cây ăn trái... Chính nhờ điều kiện thổ nhưỡng này mà Bình
9
Dương từ lâu đã nổi tiếng với vườn cây Lái Thiêu, trải rộng trên diện tích
1.250 ha, thuộc địa bàn bốn xã: An Sơn, An Thạnh, Bình Nhâm và Hưng
Định. Với địa hình cao trung bình từ 6 - 60 m, nên chất lượng và cấu trúc đất
Bình Dương khơng chỉ thích hợp với các loại cây trồng mà cịn rất thuận lợi đối
với việc xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các khu cơng nghiệp. Địa hình
Bình Dương tương đối bằng phẳng, đất đai ít bị lũ lụt, ngập úng, nhìn chung các
yếu tố thời tiết vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống giao thơng của Bình Dương được phân bổ đều và thuận tiện.
Trên địa bàn tỉnh có trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia như quốc lộ
1A, 13, 14, tuyến đường sắt Bắc Nam và tuyến đường xuyên Á. Bình Dương
có nhiều sơng lớn chảy qua, nhưng quan trọng nhất là sơng Bé, sơng Sài
Gịn và sơng Đồng Nai. Sông Đồng Nai là một trong những sông lớn của
Việt Nam, có tổng chiều dài 450 km, trong đó chảy qua Bình Dương 84 km.
Các tuyến đường sơng tạo thành mạng lưới giao thông đường thủy thuận tiện.
Nguồn cung cấp nước phong phú với trữ lượng hàng triệu mét khối/năm.
Về khí hậu và thời tiết, Bình Dương mang những đặc trưng điển hình
của khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm chia thành hai mùa rõ rệt: mùa nắng
và mùa mưa.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.800 - 2.000 mm với số ngày có
mưa là 120 ngày. Tháng mưa nhiều nhất là tháng 9, trung bình 335mm, năm
cao nhất có khi lên đến 500mm, tháng ít mưa nhất là tháng 1, trung bình dưới
50mm và nhiều năm trong tháng này khơng có mưa.
Nhiệt độ trung bình hằng năm là 26,5°C, nhiệt độ trung bình tháng cao
nhất 29°C (tháng 4), tháng thấp nhất 24°C (tháng 1). Tổng nhiệt độ hoạt động
hàng năm khoảng 9.500 - 10.000°C, số giờ nắng trung bình 2.400 giờ, có năm
lên tới 2.700 giờ.
Chế độ gió tương đối ổn định, khơng chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão
và áp thấp nhiệt đới. Về mùa khô gió thịnh hành chủ yếu là hướng Đơng,
10
Đơng - Bắc, về mùa mưa gió thịnh hành chủ yếu là hướng Tây, Tây - Nam.
Tốc độ gió bình quân khoảng 0,7m/s, tốc độ gió lớn nhất quan trắc được là
12m/s thường là Tây, Tây - Nam.
Chế độ không khí ẩm tương đối cao, trung bình 80 - 90% và biến đổi
theo mùa. Độ ẩm được mang lại chủ yếu do gió mùa Tây Nam trong mùa
mưa, do đó độ ẩm thấp nhất thường xảy ra vào giữa mùa khô và cao nhất vào
giữa mùa mưa. Giống như nhiệt độ khơng khí, độ ẩm trong năm ít biến động.
Với khí hậu nhiệt đới mang tính chất cận xích đạo, nền nhiệt độ cao quanh
năm, ẩm độ cao và nguồn ánh sáng dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp, đặc biệt là trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Khí hậu Bình
Dương tương đối hiền hồ, ít thiên tai như bão, lũ, lụt…
1.1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong phát triển
kinh tế, thu hút đầu tư nước ngồi. Trong nhiều năm qua, nền kinh tế Bình
Dương tăng trưởng với tốc độ cao và phát triển tương đối tồn diện: GDP thời
kỳ 1991 - 1996 tăng bình quân 18,23% cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp với tỷ trọng tương ứng trong GDP: 50%27% - 23%. Mục tiêu của tỉnh Bình Dương đến năm 2010, GDP tăng 12 13%, Công nghiệp tăng 13 - 14%, dịch vụ tăng 14 - 15%, nông nghiệp tăng
3,8 - 4%. Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp khoảng 59 - 60%, dịch vụ 31 - 32%,
nông nghiệp 8 - 10% [39, tr.9].
Với chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất hiện nay tại Việt
Nam, tính đến tháng 10 - 2006, tỉnh đã có 1.285 dự án FDI với tổng số vốn 6
tỷ 507 triệu USD. Năm 2007, Bình Dương đặt mục tiêu thu hút trên 900 triệu
USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng hơn 2,5 lần so với năm 2006. Vào
năm 2006, một cuộc điều tra về “Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)”
đã được gửi tới 31.000 doanh nghiệp trên phạm vi 64 tỉnh, thành và nhận
được sự hợp tác rất tích cực từ các doanh nghiệp, đã thực sự phản ánh sát thực
11
nguyện vọng của các doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Theo bảng xếp
hạng “Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI)” năm 2006, tỉnh Bình
Dương tiếp tục đứng đầu với 76,23 điểm, trong khi thủ độ Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, lần lượt xếp thứ
thứ 40 với 50,34 điểm và xếp thứ 7 với 63,39 điểm [20, tr.60-61].
Bình Dương có 13 khu cơng nghiệp đang hoạt động, trong đó nhiều
khu cơng nghiệp đã cho th gần hết diện tích như Sóng Thần I, Đồng An,
Tân Đơng Hiệp A, Việt Hương, Sóng Thần II. Các khu cơng nghiệp trên địa
bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài
với tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656
tỉ đồng [20, tr.60]. Nhằm tăng sự thu hút đầu tư; hiện nay địa phương đang tập
trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu
công nghiệp mới để phát triển công nghiệp ra các huyện phía Bắc của tỉnh
(Mỹ Phước 1,2,3; 6 khu cơng nghiệp trong Khu liên hợp công nghiệp - dịch
vụ - đô thị Bình Dương, Tân Uyên).
Theo mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì nơng nghiệp giảm xuống cịn 15 16%, cơng nghiệp và xây dựng 43 - 44%, dịch vụ 40 - 41%. Với tốc độ tăng
giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức cao như hiện nay là 35%/năm (20012005), Bình Dương sẽ là một trong những tỉnh về đích trước và sớm trở thành
tỉnh cơng nghiệp theo hướng hiện đại.
Dân số Bình Dương (theo kết quả điều tra dân số 01/04/2009) là
1.482.636 người với mật độ dân số 550 người/km². Do kinh tế phát triển nhanh,
trong thời gian qua Bình Dương thu hút nhiều dân nhập cư từ các địa phương
khác. Kết quả điều tra dân số năm 2009 cho thấy: Trong 10 năm từ 1999 - 2009
dân số tỉnh Bình Dương đã tăng gấp đơi, là tỉnh có tốc độ tăng dân số cao nhất
nước với tỷ lệ tăng trung bình 7,3%/năm. Trên địa bàn Bình Dương có 15 dân tộc,
12
nhưng đơng nhất là người Kinh và sau đó là người Hoa, người Khơ Me [93,
tr.2].
Thuở xưa, Bình Dương là một phần đất của Gia Định nên đến nay đã
có trên 300 năm lịch sử với những di sản văn hoá đặc sắc mà tiêu biểu là đờn
ca tài tử. Bình Dương cịn là mảnh đất của nhiều làng nghề truyền thống với
các nghệ nhân bàn tay vàng điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài. Bình
Dương là mảnh đất lịch sử, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Cùng
với phong trào cách mạng chung của cả nước, trong cách mạng tháng Tám
năm 1945, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
Bình Dương là tỉnh sớm có phong trào yêu nước và cách mạng. Những truyền
thống cách mạng, điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng với nguồn lao động sẽ là
nội lực, để Bình Dương phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Từ những điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế xã hội thuận lợi, cùng
với những chủ trương chính sách đúng đắn về CNH, HĐH của Đảng nói
chung và Đảng bộ tình Bình Dương nói riêng là nguồn lực quan trọng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương, để Bình Dương sớm trở
thành một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
1.1.2. Thực trạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bình Dương
trước năm 1997
Sau 10 năm, kể từ khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân ta đi lên CNXH và giành được nhiều thành tựu rất quan trọng,
nhưng nhìn chung tình hình đất nước vẫn nằm trong hồn cành vơ cùng khó
khăn, các thế lực thù địch trong và ngồi nước vẫn ln tìm đủ mọi cách để
chống phá cách mạng Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12 - 1986) đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Chủ trương CNH, HĐH của Đảng thực
sự được đổi mới từ đó và là một bộ phận quan trọng của đường lối đổi mới.
Từ nhận thức sát hơn về đặc điểm của đất nước trong chặng đường đầu của
13
thời kỳ quá độ, “là bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn”, Đại hội chủ
trương: “Tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những chặng đường tiếp theo, trước mắt
những năm 1986 - 1990 cần tập trung sức người sức của thực hiện ba chương
trình mục tiêu; Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu”[24, tr.153]. “Khơng bố trí xây dựng cơng nghiêp nặng vượt quá điều
kiện và khả năng thực tế, ngay cả phục vụ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”
[24, tr.51-64]. Trong phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 1986 - 1990, Đại hội chủ trương chỉ đầu tư những cơ sở vật chất tối
thiểu của chặng đường đầu tiên đó là năng lượng, một số cơ sở cơ khí và
ngun vật liệu, giao thơng vận tải và thông tin bưu điện, hướng vào phục vụ
ba chương trình kinh tế lớn. Như vậy, đường lối chiến lược CNH là nhiệm vụ
trung tâm, xuyên suốt trong tời kỳ q độ lên CNXH là khơng đổi, nhưng
thay vì dồn sức, tập trung vào thực hiện CNH như trước đây, Đảng quan tâm
nhiều hơn và trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở cho CNH. Đây là sự
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng về CNH.
Quan điểm của Đại hội VI tiếp tục được khẳng định tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII (6 - 1991): “ Phát triển một số ngành công nghiệp nặng
trước hết phục vụ cho sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, đồng thời tạo cơ sở cho bước phát triển tiếp theo; coi trọng
khai thác tài ngun, góp phần tạo nguồn tích lũy ban đầu” [25, tr.64].
Những đổi mới trong nhận thức của Đảng về CNH, HĐH tại Đại hội VI
và Đại hội VII tập trung vào bước đi và điều kiện tiền đề của CNH. Về bước
đi, Đảng nhận thức rõ hạn chế nóng vội của CNH theo hướng tập trung vào
cơng nghiệp nặng những năm trước, từ đó chủ trương phải có một giai đoạn
đầu của thời kỳ quá độ chuẩn bị tiền đề cho CNH.
Đối với tỉnh Bình Dương, qua 10 năm hoạt động thực tiễn (1986 1996), kinh tế của tỉnh vẫn còn nhiều yếu kém, mất cân đối, đời sống của đại
14
bộ phận nhân dân, nhất là vùng sâu vùng xa cịn gặp nhiều khó khăn. Được sự
nhất trí của Bộ Chính trị, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơng Bé lần thứ IV
(10 - 1986) chủ trương: Kiên quyết điều chỉnh, bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu
đầu tư theo hướng thực sự lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, gắn sản
xuất với chế biến nhằm giải quyết một cách hợp lý yêu cầu lương thực, thực
phẩm tại chỗ, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng phù hợp với nguồn nguyên liệu của địa phương, phấn đấu ổn định và cải
thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân.
Trong những năm đầu triển khai thực hiện cơng cuộc đổi mới trong
hồn cảnh nền kinh tế của tỉnh nhiều mặt mất cân đối lớn, những biến động to
lớn của cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 còn tác động xấu
đến nền kinh tế của tỉnh. Mặc dù trong những năm đầu thực hiện công cuộc
đổi mới cịn bộn bề khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh, qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của tỉnh,
nền kinh tế đã có những khởi sắc rõ rệt.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết
Đại hội IV Đảng bộ tỉnh, về cơ bản các chỉ tiêu Nghị quyết đề ra đều hoàn
thành, làm cơ sở vững chắc cho sự phát triển của tỉnh trong những năm tiếp
theo. Nền kinh tế của tỉnh vượt qua khó khăn, thử thách trên nhiều lĩnh vực để
dần ổn định và phát triển đúng hướng, đã hình thành nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Cơ sở vật chất được tăng cường, hàng nông sản, hàng thủ công mỹ
nghệ truyền thống được khôi phục và tăng đáng kể. Hoạt động xuất nhập khẩu
có tiến bộ, bước đầu thu hút vốn đầu tư nước ngồi.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơng Bé lần thứ V vòng 1 (4 - 1991) và
vòng 2 (12 - 1991), chủ trương đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng cơ sở
cho CNH, HĐH. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội là:
15
- Nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn thử
thách lập lại trật tự kỷ cương trong nền kinh tế, khai thác sử dụng có
hiệu quả mọi tiềm năng về đất đai khoáng sản, lâm sản, về lao động
và các ngành nghề truyền thống…, mở rộng hợp tác liên doanh, liên
kết ngoài tỉnh, tranh thủ hợp tác với nước ngồi theo ngun tắc
cùng có lợi, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách chủ động
theo hướng tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ. Nắm bắt những
điều kiện, thời cơ thuận lợi nhằm tranh thủ mọi nguồn vốn, áp dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống; đầu tư phát
triển có trọng tâm, trọng điểm [37, tr.35].
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V được triển khai thực hiện
trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế biến động nhanh chóng và
phức tạp. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ qua, tồn Đảng bộ đã chủ động khắc
phục khó khăn, tận dụng những thuận lợi và ưu thế sẵn có của tỉnh, từng bước
đưa Nghị quyết Đại hội thành hiện thực trên nhiều lĩnh vực.
Trong 5 năm (1991 - 1995), tốc độ tăng trưởng kinh kinh tế của tỉnh
bình quân mỗi năm tăng 13,4%; tổng sản phẩm quốc nội tăng bình qn hàng
năm 15%, tăng gần gấp đơi so với kế hoạch là 7,8%. Đến cuối năm 1995, thu
nhập bình qn đầu người đạt 420 USD/năm, tăng gấp đơi so với năm 1990.
Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ tăng dần, nông nghiệp giảm dần [38, tr.9].
Đối với sản xuất nông nghiệp, tỉnh chỉ đạo các sở ngành địa phương,
nhất là ngành nông nghiệp chủ động tập trung bám sát thực hiện chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII) về phát triển nơng
nghiệp, nông thôn của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, trong đó cần chú ý quan
tâm ưu tiên về phát triển kinh tế trang trại; thực hiện tốt chính sách giao đất, giao
rừng, tín dụng trong nơng nghiệp; tạo điều kiện cho nông nghiệp chuyển sang
16
sản xuất hàng hóa; khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh nông nghiệp của tỉnh.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp theo hướng chủ động tạo nguồn
nguyên liệu tại chỗ cho công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với công nghiệp, nếu năm 1990, tỷ trong công nghiệp của tỉnh chỉ
chiếm 10,35% (nông lâm nghiệp 63,48%, dịch vụ 23,81%), thì đến năm 1995
tỷ trọng cơng nghiệp tăng 25,5%, nơng lâm nghiệp cịn 49%, dịch vụ 25,5%.
Trong từng ngành sản xuất kinh doanh có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng
tận dụng và phát huy các thế mạnh, tiềm năng của ngành, vùng sản xuất. giai
đoạn 1991 - 1995, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của tỉnh tiếp tục
phát triển và đạt hiệu quả cao hơn so với thời kỳ 1986 - 1990, bình qn mỗi
năm tăng 37,3%. Các ngành cơng nghiệp và tiểu thủ công nghiệp bước đầu áp
dụng thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất bằng cơng
nghệ cao [38, tr.10].
Vận dụng phù hợp các chính sách phát triển kinh tế theo đường lối đổi
mới của Đảng, tỉnh đã đề ra các chính sách ưu đãi “Trải chiếu hoa đón mời
các nhà đầu tư”, “Trải thảm đỏ thu hút nhân tài”, thu hút mạnh vốn đầu tư
trong và ngồi nước; trên cơ sở đó từng bước định hình, quy hoạch các khu
cơng nghiệp nhằm thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đăng ký hoạt động và nhóm kinh
doanh nhỏ đăng ký kinh doanh. Phải khẳng định rằng, Bình Dương là một
trong những địa phương đi đầu trong cả nước bứt phá trong việc mời gọi, thu
hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, do đó đã hình thành tại tỉnh nhiều khu
cơng nghiệp, khu chế xuất quy mô lớn, hoạt động hiệu quả đem lại nguồn thu
đáng kể cho địa phương.
Trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tỉnh đã chỉ đạo tập trung nguồn
vốn của toàn xã hội, chú trọng xây dựng các cơng trình trọng điểm của tỉnh như
hệ thống giao thông nối liền giữa các vùng kinh tế, hệ thống lưới điện phục vụ
17
lợi ích dân sinh và phát triển cơng nghiệp, các cơng trình thủy lợi phục vụ sản
xuất như cơng trình Suối Gai, An Khương, đê bao sơng Sài Gịn…
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996), tỉnh Bình
Dương đã đạt được nhiều kết quả to lớn trên tất cả các lĩnh vực, các Nghị
quyết đã dần đi vào cuộc sống, đây cũng là kết quả của sự tiếp nối quá trình
phấn đấu liên tục của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bình Dương trong việc thực
hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế của Bình Dương vẫn cịn
nhiều yếu kén, cơ cấu kinh tế chưa chuyển biến mạnh, thực chất cơ cấu kinh
tế của tỉnh là nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Trước khi tái lập tỉnh, cơ
cấu kinh tế Bình Dương chủ yếu là nơng nghiệp, cơng nghiệp và dịch vụ cịn
nhỏ bé.
Những thành tựu và hạn chế qua 10 năm là cơ sở rất quan trọng để
Đảng bộ tỉnh lãnh đạo đưa Bình Dương bước sang giai đoạn mới - giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH.
1.2. ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƯƠNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CƠNG
NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000
1.2.1. Chủ trương của Đảng về cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo
nàn lạc hậu, cùng với sự tàn phá khốc liệt của nhiều năm chiến tranh giành
độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, để đưa nền kinh tế Việt Nam phát
triển kịp và bằng nền kinh tế của các nước trong khu vực và trên thế giới,
khơng bị tụt hậu, đói nghèo, điều tất yếu phải thực hiện CNH, HĐH. Trên cơ
sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định quan điểm nhất quán CNH,
HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (71994), đã có bước đột phá mới trong nhận thức về CNH. Bước đột phá này
thể hiện trước hết ở nhận thức về khái niệm CNH, HĐH:
18
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn
bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao [26, tr.65].
Định nghĩa này đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của quá trình CNH,
HĐH; gắn CNH với HĐH; xác định vai trò của khoa học - cơng nghệ trong
q trình này; chỉ ra cái cốt lõi của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu
thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng suất lao động
cao. Điều đặc biệt là với quan điểm này, CNH, HĐH không đơn thuần là quá
trình kinh tế - kỹ thuật, kỹ thuật - cơng nghệ, kinh tế - xã hội mà cịn là một
q trình chuyển hóa chất lượng nguồn nhân lực và những mẫu nhân cách
hiện đại theo hướng xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho
sự phát triển.
Từ một nước có điểm xuất phát ban đầu thấp, kinh tế chưa phát triển,
kỹ thuật còn lạc hậu và trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển mạnh, yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta là khơng thể lặp lại
q trình CNH một cách tuần tự như các nước trên thế giới đã tiến hành. CNH
ở nước ta cần và có thể đi thẳng vào HĐH để đồng thời trong quá trình CNH
tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trang bị cơng nghệ theo hướng hiện đại,
rút ngắn q trình chuyển nền kinh tế - xã hội lạc hậu thành kinh tế - xã hội
tiên tiến.
Đối với nước ta, CNH, HĐH là một quá trình thực hiện phát triển kinh
tế - hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội cơng
nghiệp gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng
thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.
19
CNH, HĐH phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật,
về con người và khoa học, công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng
năng suất lao động, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng
cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Mục tiêu cụ thể của CNH, HĐH là:
- Lực lượng sản xuất dần đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao
động thủ công được thay thế bằng lao động máy móc. Cơ cấu kinh tế thay đổi
theo hướng cơng nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn, dần tới biến đổi về cơ
cấu xã hội với sự tham gia tăng dần lao động trong khu vực công nghiệp và
dịch vụ, giảm dần lao động trong nơng nghiệp. Có khả năng vận dụng được
nhiều thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ. Khoa học xã
hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý thức xã
hội mới.
- Về quan hệ sản xuất: chế độ sở hữu, cơ chế quản lý, chế độ phân phối
gắn kết nhau tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các yếu tố lực lượng
sản xuất và là động lực mạnh mẽ để thực hiện công bằng xã hội.
- Các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, bình đẳng tham gia đóng
góp vào quá trình CNH, HĐH. Kinh tế nhà nước với kinh tế tập thể trở thành
nền tảng trong nền kinh tế.
- Nhân dân có cuộc sống no đủ, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh.
Đến năm 1996, con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được xác
định rõ hơn. Trên thế giới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ ngày càng
phát triển cao, thúc đẩy nhanh quá trình tồn câu hóa nền kinh tế. Nước ta
cũng như các nước đang phát triển khác trên thế giới đều có thời cơ và vận
hội mới để đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nước. Trên cơ sở đánh giá thực
tế thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
20
VIII của Đảng (6 -1996) khẳng định những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường
đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ bản hoàn
thành, cho phép nước ta chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH với những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể. Đại hội khẳng định:
Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước cơng
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp [27, tr.80].
Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: “Đặc biệt coi trọng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và nơng thơn”, chỉ rõ nội dung cơ bản của
CNH, HĐH nông nghiệp nông thơn những năm cịn lại của thập kỷ 90 là:
- Phát triển tồn diện nơng, lâm, ngư nghiệp, hình thành các
vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật ni,
có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo
an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công
nghiệp chế biến và thị trường trong và ngồi nước
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa…
- Phát triển cơng nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công
nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công
nghiệp ở đô thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các
ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế
biến các nguồn ngun liệu phi nơng nghiệp, các loại hình dịch vụ
phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
21
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình
thành nơng thơn mới văn minh hiện đại [27, tr.87].
Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và cơng
nghệ thơng tin. Phát triển có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng (năng
lượng - nhiên liệu, vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng và sửa tàu thủy,
luyện kim, hóa chất), tăng thêm năng lực sản xuất tương ứng với yêu cầu tăng
trưởng kinh tế, nâng cao khả năng độc lập về kinh tế.
Tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là chủ trương
phù hợp với điều kiện của một nước nông nghiệp và có thế mạnh nơng nghiệp
như nước ta. Nhưng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn không phải là phát
triển nhanh công nghiệp ở khu vực này, mà phải tập trung chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tạo ra các vùng có tính chất hàng hóa, đồng
thời tập trung làm tốt thủy lợi hóa, cơ khí hóa nơng nghiệp, phát triển công
nghiệp chế biến với công nghệ hiện đại để sản phẩm có sức cạnh tranh ở trong
nước và trên thế giới. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải phù hợp với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn, phù hợp với sự phát triển dân
trí, với sự chuyển biến cơ cấu và chất lượng lao động. Dựa trên nền tảng nơng
nghiệp, tích lũy từ kinh tế nông nghiệp, nông thôn để tiến hành CNH, HĐH là
một quy luật khá phổ biến trên thế giới.
Chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH mà Đại hội VIII của Đảng nêu ra
không chỉ xuất phát từ thực tiễn đất nước, hướng tới mục tiêu của cách
mạng nước ta mà còn xuất phát từ những điều kiện khách quan của thế giới
và khu vực.
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (121997) chỉ rõ: Đẩy mạnh CNH, HĐH, phải mở rộng kinh tế đối ngoại, tranh
thủ vốn, công nghệ và gia nhập thị trường quốc tế. Nhưng trên cơ sở độc lập tự
chủ, phát huy đầy đủ các yếu tố nội lực, dựa vào nguồn lực trong nước là
22
chính, bao gồm nguồn lực con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống
lịch sử [28, tr.8]. Hội nghị ra Nghị quyết “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi
mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến
năm 2000” [28, tr.27].
Hội nghị nhấn mạnh cần tập trung thực hiện tốt chủ trương: “Thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư”. Nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là định hướng cơ bản cho sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Muốn vậy phải phát triển
nhanh, mạnh, vững chắc các ngành cơng nghiệp, trước hết là ngành cơng
nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh cao. Nghị quyết xác định những việc
cần tập trung thực hiện là “Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
gắn với phân công lao động ở nông thôn” [28, tr.62]. “Giải quyết vấn đề thị
trường tiêu thụ nông sản” [28, tr.66]. “Phát triển mạnh các hình thức kinh tế
hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và
nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa” [28, tr.67].
Cụ thể hóa hơn nữa chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp - nông
thôn theo hướng CNH, HĐH, tháng 04 - 1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết 10
Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nghị quyết nhấn mạnh việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng CNH, HĐH là phải tạo ra
những chuyển hướng mạnh mẽ theo hướng sản xuất hàng hóa với cơ cấu đa
dạng vừa để xuất khẩu với sức cạnh tranh cao, vừa khai thác lợi thế tiềm năng
của từng vùng sinh thái, tăng nhanh năng xuất chất lượng và hiệu quả của
nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn theo hướng
CNH, HĐH nghĩa là từ chỗ nặng về trồng trọt, chủ yếu là cây lương thực sang
sản xuất các cây trồng, vật ni có giá trị hàng hóa cao; từ chỗ chủ yếu làm
nơng nghiệp sang phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
23
dịch vụ. Trong đó giải quyết tốt các mối quan hệ cơ bản giữa trồng trọt với
chăn nuôi, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp, giữa nông - lâm nghiệp với cơng
nghiệp và dịch vụ…
Ngày 10 -11-1998, Bộ Chính trị khóa VIII ra Nghị quyết 06-NQ/TW:
Về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết khẳng
định bốn quan điểm phát triển nông nghiệp - nông thôn:
Một là, coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp
(gồm cả nông nghiệp, ngư nghiệp..) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp
và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước
mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN.
Hai là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông
nghiệp với công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để
hình thành sự liên kết nơng - cơng nghiệp - dịch vụ và thị trường trên địa bàn
nông thôn và trên phạm vi cả nước, gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng
nơng thơn mới; gắn cơng nghiệp hóa với thực hiện dân chủ hóa và nâng cao
dân trí đào tạo nhân lực ở nông thôn, tạo ra sự phân công lao động xã hội mới,
giải quyết việc làm nâng cao đời sống, xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần
khoảng cách về mức sống giữa thành thị và nông thôn.
Ba là, phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các
tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nơng nghiệp hàng hóa đa dạng, đáp
ứng ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp,
hướng mạnh ra xuất khẩu.
Bốn là, phát triển nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở
thành nền tảng hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng
pháp luật. Tiếp tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình
hợp tác xã dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng hợp tác xã
24
nông nghiệp theo luật hợp tác xã; chú trọng liên kết kinh tế nhà nước với các
thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nơng
dân và những người có khả năng đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn.
Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trước hết phải giữ
vững mục tiêu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong mọi tình huống.
Nghị quyết đề ra một số biện pháp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp: đẩy mạnh thâm canh lúa, từng bước hình thành các vùng tập trung sản
xuất lúa năng suất, chất lượng cao gắn với chế biến; hình thành các vùng sản
xuất tập trung cây công nghiệp, rau, hoa quả; khuyến khích kinh tế hộ, hợp
tác xã và trang trại chăn nuôi quy mô vừa và lớn…đưa chăn ni trở thành
ngành sản xuất chính trong nơng nghiệp.
Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, ngày 15 - 6 - 2000,
Chính phủ ra Nghị quyết 09 về một số chủ trương và chính sách chuyển đổi
cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nơng nghiệp. Nghị quyết 09 của Chính
phủ cho phép giảm diện tích lúa cả nước từ 4 triệu ha xuống còn khoảng 3,4
triệu ha, tập trung sản xuất lúa ở những vùng trọng điểm thích hợp nhất với
cây lúa; các địa phương chuyển những vùng trồng lúa bấp bênh sang sản xuất
những sản phẩm khác phù hợp và có giá trị kinh tế cao.
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo về CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn của Đảng thể hiện sự đổi mới ngày càng rõ, trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng về CNH, HĐH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta
nhằm thực hiện tốt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về CNH, HĐH đã
được cấp ủy Đảng các địa phương quán triệt, thực hiện một cách đúng đắn, sáng
tạo phù hợp với tiềm năng và lợi thế của từng địa phương trên phạm vi cả nước.
25
Đây là cơ sở quan trọng để Đảng bộ tỉnh Bình Dương đề ra chủ trương, biện
pháp, lãnh đạo thực hiện CNH, HĐH từ năm 1997 đến năm 2000.
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Bình Dương chỉ đạo thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Căn cứ vào những thuận lợi và khó khăn của tỉnh mới được tái lập,
đồng thời quán triệt các Nghị quyết của Đảng và các Nghị quyết của Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng bộ tỉnh
Bình Dương đã chủ động, linh hoạt cụ thể hóa những chủ trương, đường lối đó
vào điều kiện cụ thể của địa phương, từng bước đưa sự nghiệp CNH, HĐH đạt
được nhiều thành tựu to lớn, góp phần thắng lợi sự nghiệp chung của đất nước.
Do yêu cầu khách quan đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục sự
nghiệp CNH, HĐH, căn cứ vào nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong tỉnh, ngày 06 - 11 - 1996, Quốc hội khóa IX quyết định điều chỉnh
địa giới một số tỉnh. Trong đó, tỉnh Sơng Bé được tách thành 2 tỉnh là Bình
Dương và Bình Phước. Sau 20 năm hợp nhất, Bình Dương được tái lập vào
ngày 01 - 01 - 1997. Ngày 11 - 02 - 1997, Tỉnh ủy Bình Dương ra Nghị quyết
số 05/NQ-TU về phương hướng và nhiệm vụ năm 1997. Nghị quyết đề ra
mục tiêu “đến cuối năm 1997 có một bước chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ” [61, tr.3].
Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 19 - 20%; giá
trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 38 - 40%, giá trị dịch vụ tăng 18 - 20%,
giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 7 - 8%, xuất khẩu tăng 37 - 38%; thu
ngân sách tăng 19% so với năm 1996 [61, tr.3].
Sau khi được tái lập, Bình Dương thừa hưởng được hầu như thành tựu
và cơ sở vật chất của tỉnh Sơng Bé trước đây. Trên cơ sở đó, tỉnh tập trung
phấn đấu có một bước chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế ngành theo hướng
tăng mạnh tỷ trọng cơng nghiệp và dịch vụ. Tạo lập sự gắn bó và phát triển