MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠNG
ĐỒN CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI, TỪ NĂM
2001 ĐẾN NĂM 2006
8
1.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của tổ chức Cơng đồn thành
phố Hà Nội trước năm 2001
1.2. Yêu cầu đặt ra đối với tổ chức Cơng đồn Hà Nội những năm
8
đầu thế kỷ XXI
1.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng tổ chức
20
và hoạt động Cơng đồn
1.4. Chủ trương và giải pháp xây dựng tổ chức Cơng đồn của Đảng
31
bộ thành phố Hà Nội, từ năm 2001 đến năm 2006
40
Chương 2: KẾT QUẢ VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG BỘ
2.1. Kết quả
2.2. Một số kinh nghiệm
60
60
76
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
89
91
98
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng đồn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động. Cùng với cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, Cơng đồn chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và
người lao động; tham gia quản lý nhà nước và xã hội; tham gia kiểm tra, giám
sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục công nhân,
viên chức và người lao động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công đồn ln
ln trung thành với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong, lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt
Nam. Từ khi thành lập đến nay, trong mọi thời kỳ, tổ chức Cơng đồn ln
được sự quan tâm thường xuyên, chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Đảng. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp công nhân và tổ chức Cơng đồn Việt
Nam thể hiện một cách toàn diện, từ hoạch định đường lối, chủ trương, đến
tạo điều kiện để tổ chức Cơng đồn hoạt động, nhằm khơng ngừng phát huy
vai trị, sức mạnh, trí tuệ của giai cấp cơng nhân và tổ chức Cơng đồn trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu
tư liệu sản xuất, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều
cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh
trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Lợi ích của giai cấp
cơng nhân Việt Nam hiện nay hồn tồn thống nhất với lợi ích tồn dân tộc vì
mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện đó, vai trị
của tổ chức Cơng đồn được khẳng định và ngày càng mở rộng. Sự mở rộng
2
vai trị của tổ chức Cơng đồn là phù hợp với tính tất yếu, khách quan, tính
quy luật vận động và phát triển của tổ chức Cơng đồn, phù hợp với quy luật
chung của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơng đồn là một bộ phận
cấu thành q trình nâng cao vai trị của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơng đồn cần có những tác
động tích cực trong việc xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới,
nhằm thực hiện tốt chức năng đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của đồn viên, cơng nhân, viên chức, lao động; xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, ổn định, tiến bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Tình hình trên đang đặt ra những yêu cầu và thách thức mới đối với giai
cấp cơng nhân và Cơng đồn Việt Nam, địi hỏi Cơng đồn phải bám sát vị trí,
vai trị, chức năng của mình, nhận thức đầy đủ tình hình, tranh thủ thuận lợi,
thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, đề ra những phương
hướng, nhiệm vụ sát với tình hình mới. Do đó, việc đổi mới và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức công đoàn là yêu cầu khách quan, là nhiệm
vụ quan trọng. Điều này, một mặt, tạo điều kiện cho Cơng đồn thực hiện tốt
các chức năng của mình; mặt khác, thơng qua tổ chức Cơng đồn vận động, tổ
chức, tập hợp công nhân, người lao động, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân. Đảng tăng cường mối quan hệ máu thịt với công
nhân, thông qua phong trào công nhân để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức
đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh, nâng cao bản chất
giai cấp công nhân và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ đảng viên.
Bước vào thế kỷ XXI, thành tựu to lớn đạt được sau 15 năm đổi mới đã
có tác động tích cực đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và Thủ đơ Hà Nội
nói riêng. Cùng với q trình phát triển của đất nước và Thủ đô, giai cấp công
nhân Hà Nội đã có những bước trưởng thành cả về số lượng và chất lượng;
giác ngộ chính trị, trình độ học vấn chuyên môn, nghề nghiệp được nâng lên.
3
Vai trị của tổ chức Cơng đồn Thủ đơ cũng ngày càng được nâng cao, tổ chức
Cơng đồn cũng có bước phát triển mới. Trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, khi
đất nước bước vào thế kỷ XXI, xây dựng tổ chức Cơng đồn thủ đơ Hà Nội
ngang tầm nhiệm vụ là một vấn đề được Đảng nói chung và Đảng bộ thành
phố Hà Nội nói riêng rất quan tâm và chú trọng.
Do đó, tơi chọn đề tài "Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng
tổ chức Cơng đồn từ năm 2001 đến năm 2006" làm đề tài luận văn thạc sĩ
lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng đối với tổ chức Cơng đồn.
Trong cuốn sách Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Cơng
đồn (2001), Nxb Lao động, PGS. TS. Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến
những vấn đề lý luận về sự lãnh đạo của Đảng đối với Cơng đồn Việt Nam
trong các thời kỳ cách mạng. Tác giả khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của phong trào công nhân và hoạt động
Cơng đồn; phân tích làm rõ những ngun nhân và nội dung cơ bản về sự
lãnh đạo của Đảng đối với Cơng đồn, đồng thời xác định trách nhiệm của
Cơng đoàn trong việc tham gia xây dựng Đảng.
Tác giả Đan Tâm trong tác phẩm 80 năm Đảng Cộng sản Việt Nam với
giai cấp cơng nhân và Cơng đồn Việt Nam (2009), Nxb Lao động, đã hệ
thống đường lối, quan điểm và sự lãnh đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với phong trào công nhân và hoạt động Cơng đồn nước ta trong
suốt 80 năm qua. Tác giả khẳng định: Đảng lãnh đạo Cơng đồn bằng đường
lối cơng vận và chủ trương công tác lớn về hoạt động cơng đồn trong từng
thời kỳ, bằng việc thơng qua Nhà nước để luật pháp hóa đường lối, chủ
trương của Đảng, bằng cơng tác cán bộ và bằng vai trị gương mẫu của cán
bộ, đảng viên hoạt động trong phong trào cơng nhân và Cơng đồn.
4
Nhóm tác giả GS. TS. Lê Hữu Nghĩa, GS. TS. Hồng Chí Bảo, PGS. TS.
Bùi Đình Bơn trong cuốn sách Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị, xã hội trong hệ thống chính trị ở Việt Nam (2008), Nxb
Chính trị quốc gia, đã nêu lên cơ sở lý luận và thực tiễn để nghiên cứu đổi
mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta;
quá trình hình thành và phát triển quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội. Nghiên cứu cũng chỉ ra được bản chất các quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội; những thành tựu đạt
được trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội; chỉ ra những mặt hạn chế và nguyên nhân của mối quan hệ đó. Trong
điều kiện hiện nay, cần nắm vững những quan điểm cơ bản trong đổi mới
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Từ đó nêu lên
những nội dung đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội ở nước ta hiện nay; đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Đây có thể được coi là một cơng trình nghiên cứu có giá trị lý luận,
xác định mối quan hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam với tổ chức Cơng đồn.
TS. Dương Văn Sao trong cuốn sách Thực trạng và những giải pháp đổi
mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Cơng đồn Việt Nam (2005), Nxb Lao
động, đã khái qt thực trạng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với Cơng
đồn Việt Nam trong những năm đổi mới. Tác giả nhận định: Đảng đã từng
bước đổi mới, hoàn thiện tư duy lý luận về Cơng đồn Việt Nam. Đây là vấn
đề có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tồn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng
đối với Cơng đồn Việt Nam.
Ngồi ra cịn có một số nghiên cứu khác về sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam nói chung, Đảng bộ thành phố Hà Nội nói riêng với việc xây
dựng tổ chức Cơng đồn, như: Đảng Cộng sản Việt Nam với Đại hội IX Cơng
đồn Việt Nam (2004), Nxb Lao động; Đảng Cộng sản Việt Nam với Đại hội
5
X Cơng đồn Việt Nam (2010), Nxb Lao động; Đảng bộ Thành phố Hà Nội,
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội (1930 - 2010) (2010), Nxb Hà Nội; Liên
đoàn Lao động thành phố Hà Nội, Lịch sử phong trào cơng nhân, viên chức,
lao động và tổ chức Cơng đồn Hà Nội (2003), Nxb Lao động; Nguyễn Danh
Lợi, Đảng lãnh đạo tổ chức Cơng đồn trong doanh nghiệp Nhà nước từ
1991 đến 2001, Luận văn thạc sĩ lịch sử..... Những cơng trình đã nghiên cứu,
những luận văn đã bảo vệ giúp tác giả nhiều về mặt phương pháp luận, những
quan điểm lý luận, những vấn đề chung về sự lãnh đạo của Đảng đối với
Cơng đồn.
Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về sự lãnh đạo của
Đảng bộ thành phố Hà Nội đối với tổ chức Cơng đồn Thủ đơ.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hà Nội trong việc xây dựng
tổ chức công đồn, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, từ năm 2001 đến
năm 2006. Từ đó, tổng kết những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng bộ thành
phố Hà Nội trong cơng tác xây dựng tổ chức Cơng đồn Thủ đơ thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Nhiệm vụ
- Đánh giá thực trạng tổ chức Cơng đồn ở Hà Nội trước năm 2001
- Phân tích chủ trương của Đảng về xây dựng tổ chức Cơng đồn trong
những năm đầu thế kỷ XXI
- Trình bày chủ trương và tổ chức thực hiện xây dựng tổ chức Cơng đồn
của Đảng bộ thành phố Hà Nội, từ năm 2001 đến năm 2006
- Kết quả và tổng kết một số kinh nghiệm bước đầu của Đảng bộ thành
phố Hà Nội trong lãnh đạo xây dựng tổ chức Công đoàn, từ năm 2001 đến
năm 2006.
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Chủ trương, chính sách của Đảng nói chung và
của Đảng bộ thành phố Hà Nội nói riêng trong xây dựng tổ chức, hoạt động
Cơng đồn
* Phạm vi nghiên cứu: trên địa bàn Hà Nội, từ năm 2001 đến tháng 01
năm 2006
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu của luận văn
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quán triệt quan điểm, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức Cơng đồn Việt
Nam và xây dựng tổ chức Cơng đồn.
Đề tài sử dụng các phương pháp chuyên ngành như phương pháp lịch
sử, phương pháp logic, kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic
và một số phương pháp khác như phương pháp thống kê, phân tích dự báo
tình hình...
Đề tài sử dụng nguồn tư liệu là các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Văn kiện của Đảng bộ thành phố Hà Nội, Văn kiện của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Văn kiện của Liên đoàn Lao động thành phố Hà
Nôi và một số sách, tài liệu tham khảo chun ngành về Lịch sử Đảng, về
Cơng đồn…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam và của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về tổ chức và hoạt
động Cơng đồn; hệ thống hóa và phân tích các chủ trương, biện pháp tổ chức
thực hiện của Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng tổ chức Cơng
đồn Thủ đơ, từ năm 2001 đến năm 2006; tổng kết những kinh nghiệm xây
dựng tổ chức Cơng đồn của Đảng bộ thành phố Hà Nội.
7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng nói chung, của Đảng
bộ thành phố Hà Nội nói riêng trong sự nghiệp xây dựng tổ chức Cơng đồn,
từ đó đóng góp cơ sở lý luận cho việc hoạch định các chính sách về xây dựng
tổ chức Cơng đồn của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập
về tổ chức Cơng đồn ở Thủ đơ.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 2 chương, 6 tiết.
8
Chương 1
Q TRÌNH LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠNG ĐOÀN
CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ NỘI, TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006
1.1. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC CƠNG
ĐỒN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRƯỚC NĂM 2001
Hà Nội là một trong những nơi tổ chức công đoàn ra đời sớm và phát
triển nhanh. Từ một tổ chức quần chúng sơ khai của Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội, cuối năm 1928 đến cuối năm 1929, trở thành cơng
hội đỏ và sau đó qua các chặng đường: Ái hữu, Công nhân phản đế, Công nhân
cứu quốc… đến nay Cơng đồn Thủ đơ đã trở thành một tổ chức rộng lớn,
hoàn chỉnh, xây dựng theo các khu vực và hệ thống ngành nghề. Từ một vài
chục hội viên Công hội đỏ ban đầu, đến 2000 hội viên Cơng nhân cứu quốc
năm 1945; 950 đồn viên cơng đoàn năm 1955 [32, tr.314]. Đến tháng 12 1988, tổ chức Cơng đồn Thủ đơ có 2.353. cơ sở với 469.468 đồn viên trong
tổng số 501.392 cơng nhân viên chức (chiếm 93,6%). Có 4 cơng đồn quận, 11
cơng đồn huyện, 1 cơng đồn thị xã và 10 cơng đồn ngành [32, tr.271-272].
Tương ứng với sự lớn mạnh về số lượng, trình độ giác ngộ chính trị, trình độ
văn hóa, khoa học kỹ thuật, tay nghề của đồn viên cơng đồn Thủ đô được
nâng lên rõ rệt.
Tháng 12 - 1986, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội khởi
xướng công cuộc đổi mới, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới nhận
thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, mở rộng dân chủ để phát huy
triệt để tiềm năng, sức mạnh của quần chúng, tạo ra bước chuyển căn bản
của đất nước.
Trong điều kiện có những biến đổi to lớn về đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội, chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, lại là
Thủ đô, trung tâm kinh tế, hành chính, chính trị, văn hóa, xã hội của cả nước,
9
Hà Nội đóng vai trị quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng,
pháp luật chính sách của Nhà nước. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, Đại hội lần thứ X của Đảng bộ thành phố Hà Nội (diễn ra từ
ngày 17 đến ngày 23 -10 -1986) đã quán triệt tư tưởng đổi mới và xác định
nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân Hà Nội là:
Phải thật sự đổi mới phong cách làm việc, đổi mới tổ chức và
cán bộ trong tất cả các cấp, các ngành của Thành phố, trên tất cả các
lĩnh vực công tác. Mọi công việc phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội
làm mục tiêu, coi trọng công tác tổ chức thực tiễn, kiên quyết chuyển
đổi cơ chế quản lý kinh tế, từ tập trung quan liêu bao cấp sang hạch
toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, quan tâm đến lợi ích của
người lao động, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi
ích tập thể và lợi ích chung của tồn xã hội [32, tr.267].
Trong tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt, tổ chức
Cơng đồn Hà Nội đã có những phong trào, hoạt động thiết thực vận động,
tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức Hà Nội trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội cũng như trong sản xuất kinh doanh. Đội ngũ công nhân, viên
chức Hà Nội đã tỏ rõ bản chất cách mạng, kiên trì phấn đấu khắc phục khó
khăn, thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà
nước, thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, hoàn thành kế hoạch
Nhà nước; tham gia kiểm tra các hoạt động trong sản xuất kinh doanh, lưu
thông phân phối, phối hợp “4 lực lượng” đấu tranh chống tiêu cực trong cơ
quan, xí nghiệp, ngồi xã hội và tích cực hưởng ứng các cuộc vận động làm
vệ sinh, đẹp thành phố…Các phong trào đã tác động cụ thể, thiết thực vào các
khâu trong sản xuất kinh doanh của Thủ đơ…góp phần đưa sản xuất có những
bước tiến mới về năng suất. Liên hiệp Cơng đồn đã chú trọng kiện toàn bộ
máy, bước đầu định rõ quyền hạn, nhiệm vụ, mối quan hệ chỉ đạo của các
cơng đồn ngành, quận, huyện, thị xã và cơ sở. Việc bồi dưỡng kiến thức
10
quản lý, cơng tác cơng đồn được tăng cường, việc mở các lớp tập huấn về
các chủ trương, chính sách mới, bồi dưỡng nghiệp vụ cơng tác cơng đồn
choc ơ sở được coi trọng. Liên hiệp Cơng đồn thành phố ln ln bám sát
các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ thành phố, nghị quyết của Tổng Cơng
đồn Việt Nam, để xác định những nhiệm vụ trọng tâm từng thời gian tổ chức
vận động công nhân, viên chức thực hiện, chủ động đề xuất, kiên trì chỉ đạo
phong trào thi đua “Lao động giỏi”. Tích cực tham gia với thành phố về các
chủ trương chính sách có liên quan đến cơng nhân, viên chức, đặc biệt là các
chính sách về đời sống.
Đại hội Cơng đồn Hà Nội lần thứ X (tháng 9 - 1988), Đại hội đầu tiên
trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đã khẳng định những
thành tựu bước đầu của phong trào công nhân, lao động và hoạt động Cơng
đồn Thủ đơ, đồng thời chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế của phong trào như:
Phong trào công nhân, lao động và hoạt động của tổ chức
cơng đồn chưa theo kịp u cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới.
Nội dung, phương thức hoạt động chưa được nâng ngang tầm với
nhiệm vụ của tổ chức Cơng đồn trong thời kỳ mới; Cơ chế Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chưa được cụ thể
hóa. Đặc biệt trong mối quan hệ giữa Cơng đồn và chính quyền
từ thành phố đến cơ sở chưa được xây dựng thành quy định thống
nhất [32, tr.273].
Những khuyết điểm trên đã làm hạn chế vai trị, vị trí, tác dụng của tổ
chức Cơng đồn và tiềm năng lớn của đội ngũ công nhân viên chức Thủ đô.
Tháng 2 - 1989, sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc
lần thứ VI của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ X Đảng bộ thành phố Hà
Nội, Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hà Nội đã xác định
những nhiệm vụ trọng tâm của Hà Nội trong những năm còn lại của kế hoạch 5
năm 1986 - 1990 là Đảng bộ và nhân dân thành phố phải nỗ lực phấn đấu để
11
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trên các lĩnh vực theo hướng đổi mới, nhằm ổn
định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội của Thủ đơ. Nghị quyết
Hội nghị đã đánh dấu bước phát triển mới về tư duy kinh tế trong quá trình lãnh
đạo nhân dân Hà Nội tiến hành sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
11 của Thành ủy đánh dấu bước phát triển mới về tư duy kinh tế, trong quá
trình lãnh đạo nhân dân Hà Nội tiến hành sự nghiệp đổi mới.
Ngày 30 - 6 - 1990, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ 7, thơng qua Luật
Cơng đồn, trong đó Điều 1 ghi rõ:
Cơng đồn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
cơng nhân và người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao
động), tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam;
là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động [48, tr.13].
Đây là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò của Cơng đồn nói chung và tổ
chức Cơng đồn Hà Nội nói riêng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền dân chủ và lợi ích của người lao động. Vai trị và vị trí của tổ chức
Cơng đồn được xác định rõ hơn trong hệ thống chính trị của nước Việt Nam,
trong thời kỳ đổi mới.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hoạt động Cơng đồn trong thời
gian này cũng có nhiều bước tiến quan trọng. Thông báo số 39-TB/TU ngày
30 - 9 - 1990 của Thành ủy đã đánh giá cao sự cố gắng trong phối hợp của các
cấp cơng đồn với chính quyền để tổ chức phong trào quần chúng, góp phần
tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội và xây dựng đội ngũ cơng
nhân, viên chức, trong đó đáng chú ý là các phong trào “Lao động giỏi” với
nội dung vận động công nhân, viên chức tham gia đổi mới cơ chế quản lý, đổi
mới kỹ thuật vì mục tiêu “năng suất, chất lượng, hiệu quả”, thực hiện tốt kế
hoạch Nhà nước.
12
Cơng đồn đã “Thực hiện cơ chế quản lý mới, nhiều cơng đồn cơ sở đã
tham gia xây dựng phương án sắp xếp lại sản xuất, phân loại sắp xếp lao động,
đề xuất biện pháp sử dụng lao động dôi dư, vận động công nhân, viên chức xây
dựng, thực hiện nội quy, quy chế quản lý xí nghiệp…” [4, tr.197 - 198]
Cùng với phong trào lao động thi đua sản xuất, các cấp Cơng đồn
thường xun chăm lo cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên. Ở khu vực
sản xuất kinh doanh, nhiều cơng đồn cơ sở đã tích cực phối hợp với giám
đốc tìm mọi biện pháp, bảo đảm việc làm, hạn chế tình trạng nghỉ việc hưởng
70% lương; mở rộng các hình thức trả lương sản phẩm, lương khốn, lương
doanh số; nhận thầu các cơng trình, vận dụng nhiều hình thức tiền thưởng để
ổn định thu nhập của cơng nhân, viên chức. “Nhiều tổ chức Cơng đồn đã hỗ
trợ, giúp đỡ vận động phát triển kinh tế phụ gia đình, như: tăng gia, chăn ni,
gia cơng hàng hóa, tổ chức dịch vụ… tạo thêm thu nhập chính đáng cho người
lao động” [4, tr.197 - 198].
Tháng 6 - 1991, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp
tục khẳng định và hoàn thiện thêm đường lối đổi mới của Đại hội VI. Đại
hội đã xác định mục tiêu tổng quát cho 5 năm 1991 - 1995 là: vượt qua khó
khăn thử thách, ổn định phát triển kinh tế xã hội, tăng cường ổn định chính
trị, đẩy lùi tiêu cực và bất cơng xã hội đưa Việt Nam cơ bản ra khỏi tình
trạng khủng hoảng.
Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam,
triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ
XI (1991), công nhân, lao động Thủ đơ đã đẩy mạnh q trình chuyển đổi từ
kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sắp xếp lại sản xuất theo cơ chế mới, đồng thời với việc sắp xếp lại lao
động là điều tất yếu diễn ra trong cơ chế thị trường. Ý thức được quyền và
trách nhiệm Cơng đồn, Cơng đồn các cấp, mà trước hết là cơng đồn cơ sở
đã làm tốt cơng tác hướng dẫn cơng nhân, lao động nắm vững mục đích, yêu
13
cầu, nội dung và các chính sách kèm theo về bố trí sắp xếp lại lao động, Cơng
đồn tham gia cùng chính quyền tổ chức phân loại, sắp xếp lao động, đảm bảo
công khai, công bằng, dân chủ, được đông đảo người lao động đồng tình. Mặt
khác, Cơng đồn cùng chính quyền xây dựng phương án sản xuất để thu hút
lao động trở lại làm việc. Quý IV năm 1989, số lao động thiếu việc làm trên
40% đã giảm còn 30%, đến quý IV năm 1990 giảm còn 12% so với tổng số
lao động. Trong hai năm 1991 - 1992, có 400 cơ sở đã giải quyết được 242
nghìn lượt cơng nhân, lao động tiếp tục có việc làm và tuyển thêm 7000 lao
động mới [32, tr.284].
Cơng đồn đã quan tâm chỉ đạo xét trợ cấp khó khăn cho người lao động
bằng nguồn 2% quỹ lương để lại cơ sở; phân phối 3,5 tỷ đồng trợ cấp khó
khăn do ngân sách Nhà nước bổ sung, trong những năm 1990- 1993.
Công đồn đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền cùng cấp, triển khai kịp
thời, đồng bộ các cuộc vận động thực hiện Chỉ thị 240/HĐBT của Hội đồng
bộ trưởng về đấu tranh chống tham nhũng; Chỉ thị 135/HĐBT của Hội đồng
bộ trưởng và 57/CT/UB của Ủy ban nhân dân thành phố về việc lập lại trật tự
kỷ cương trên đường phố; cơng tác chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng;
xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, cơng tác tuyển qn, cơng tác
chống bn lậu… góp phần ổn định tình hình chính trị - kinh tế - xã hội của
thành phố.
Thực hiện Luật Cơng đồn, Cơng đồn các cấp đã tập trung chỉ đạo đổi
mới nội dung, phương pháp tiến hành đại hội công nhân, viên chức, chỉ đạo
hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân.
Đối với khu vực sản xuất - kinh doanh, Hội nghị công nhân, viên chức đã
phát huy quyền làm chủ của công nhân, lao động tham gia xây dựng các
phương án sản xuất kinh doanh, chăm lo việc làm đời sống của người lao
động, xây dựng các nội quy, quy chế quản lý nội bộ. Ở những cơ sở này,
chính quyền và Cơng đồn đã làm tốt cơng tác nắm bắt thơng tin kinh tế, thị
14
trường để xây dựng các phương án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác,
đã phát động được quần chúng tham gia góp ý kiến dân chủ, cơng khai về các
phương án tiền lương, sử dụng quỹ phúc lợi, phân phối nhà, đất… nên đã khai
thác được tài năng, trí sáng tạo của đơng đảo cơng nhân, lao động.
Trong khu vực hành chính sự nghiệp, việc tổ chức đại hội công nhân,
viên chức nhằm phát huy quyền làm chủ của cơng nhân, viên chức đã có
chuyển biến bước đầu, nhất là khối giáo dục và một số cơ quan hành chính
Trung ương và địa phương. Chất lượng đại hội công nhân, viên chức hàng
năm nâng lên đã thể hiện rõ sự gắn bó và ý thức trách nhiệm của công nhân,
viên chức trong việc xây dựng, củng cố đơn vị.
Cùng với việc phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân, lao động
trong cơ chế mới, các cấp Cơng đồn đã quan tâm chỉ đạo, tổ chức nhiều
phong trào hành động cách mạng. Trong đó coi trọng việc đổi mới công tác
thi đua, khẳng định sự cần thiết khách quan của thi đua trong cơ chế thị
trường. Công đoàn thành phố đã tiến hành tổng kết 5 năm phong trào “Lao
động giỏi”, rút ra bài học kinh nghiệm để có những nội dung, hình thức chỉ
đạo thiết thực hơn. Phong trào “Lao động giỏi” được tổ chức gắn với phong
trào “Người tốt, việc tốt” và trở thành phong trào thi đua nòng cốt của thành
phố với chất lượng ngày một nâng cao, có tác dụng lơi cuốn đơng đảo công
nhân, lao động và nhân dân Thủ đô. Cùng với phong trào thi đua lao động
giỏi, các phong trào thi đua hướng về các ngày lễ lớn và những sự kiện chính
trị trọng đại của đất nước, Thủ đơ được phát triển với nhiều nội dung hình
thức mới có gắn biểu tượng cơng trình sản phẩm tiêu biểu. Phong trào thi đua
“Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ công nhân, lao động đã được phát
triển sâu rộng với những nội dung, hình thức mới thu hút đơng đảo chị em
tham gia. Phong trào liên kết thi đua phục vụ nông nghiệp đã động viên được
đội ngũ các nhà khoa học và quản lý, tăng cường giúp đỡ nông dân đưa tiến
bộ khoa học kỹ thuật, cung ứng vật tư thiết bị cho sản xuất nông nghiệp; đồng
15
thời, tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đến người lao
động, góp phần xây dựng nơng thôn mới, xây dựng khối liên minh công nông ngày càng củng cố và phát triển. Phong trào liên kết thi đua đảm bảo an
ninh, thi đua liên kết kinh tế - kỹ thuật trên địa bàn, đã có tác dụng bảo vệ an
tồn sản xuất, tháo gỡ khó khăn, trao đổi học tập kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh giữa các xí nghiệp, hỗ trợ nhau về kỹ thuật, vốn, vật tư giúp cho
sản xuất - kinh doanh phát triển.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội lần thứ XI
(năm 1991) về việc đẩy mạnh hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở thủ đô Hà Nội, tháng 7 1993, Đại hội Cơng đồn thành phố Hà Nội lần thứ XI đã xác định mục tiêu,
nhiệm vụ của phong trào cơng nhân, viên chức, lao động và tổ chức Cơng
đồn Thủ đơ là:
Vì Thủ đơ giàu đẹp, hiện đại văn minh, tiếp tục xây dựng đội
ngũ giai cấp công nhân giỏi nghề, vững vàng về chính trị tư tưởng,
đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp
pháp chính đáng của cơng nhân, lao động; tiếp tục đổi mới tổ chức
và hoạt động Cơng đồn, góp phần vào sự ổn định chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội của thủ đô [32, tr.288].
Thực trạng sản xuất kinh doanh của nhiều đơn vị kinh tế quốc doanh trên
địa bàn Hà Nội, trong cơ chế thị trường đã bộc lộ những hạn chế lớn, sự chia
cắt giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, sự phân biệt giữa kinh tế
quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh, tổ chức quản lý các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh chưa hợp lý, nặng quản lý, kiểm soát hành chính đơn thuần.
Căn cứ vào tình hình trên, tháng 1 năm 1993, Thành ủy Hà nội đề ra Chương
trình 18 “Sắp xếp lại sản xuất - kinh doanh trên địa bàn Hà Nội”, nhằm sắp xếp
lại một bước cơ bản các cơ sở sản xuất - kinh doanh, hình thành một số tập
đoàn sản xuất kinh doanh mạnh. Đến cuối năm 1993, trên địa bàn thành phố có
16
1012 doanh nghiệp quốc doanh, 888 doanh nghiệp ngoài quốc doanh [32,
tr.288]. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được lãnh đạo thành phố quan tâm
và khuyến khích phát triển. Đến tháng 10 năm 1994, tồn thành phố đã có
1.489 doanh nghiệp được cấp giấy phép thành lập và 1.428 doanh nghiệp được
cấp giấy phép, đăng ký kinh doanh, thu hút 10.650 lao động [32, tr.288].
Quá trình tổ chức lại sản xuất, kinh doanh cho phù hợp cơ chế quản lý
mới, cũng là q trình sắp xếp, kiện tồn hệ thống tổ chức Cơng đồn. Năm
1993, Liên đồn Lao động Hà Nội trực tiếp quản lý 2114 Cơng đồn cơ sở
với 267.091 đồn viên, trong tổng số 288.608 cơng nhân, viên chức. Từ
năm 1995 đến năm 1997, Liên đoàn Lao động Hà Nội chuyển giao 239 cơ
sở thuộc khối hành chính, sự nghiệp với 8,8 vạn đồn viên về Cơng đồn
viên chức Việt Nam và các Cơng đồn Tổng cơng ty [32, tr.295]. Năm
1998, Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội quản lý trực tiếp 1866 Cơng
đồn cơ sở với 170.144 đoàn viên và phối hợp chỉ đạo các cơ sở với gần 32
vạn đoàn viên thuộc các cơ quan, doanh nghiệp trung ương trên địa bàn
quản lý [32, tr.296].
Một trong những nhiệm vụ cấp bách của hoạt động công đoàn trong nền
kinh tế thị trường là việc tập hợp người lao động trong các thành phần kinh tế
vào tổ chức Cơng đồn. Trong 5 năm 1993 - 1998, tồn thành phố đã phát
triển 451 cơ sở với 20.547 đoàn viên (tăng 439 cơ sở và 19.940 đoàn viên so
với thời kỳ 1988- 1993) [32, tr.296].
Tuy số lượng Cơng đồn cơ sở và số đoàn viên trong khu vực nhà nước,
do Liên đoàn Lao động Thành phố quản lý trực tiếp có giảm đi, nhưng tổ
chức Cơng đồn Thủ đơ vẫn phát triển do được bổ sung các Cơng đồn trong
thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và liên doanh. Trước biến động trên, Liên
đoàn Lao động thành phố đã coi trọng việc sắp xếp kiện toàn hệ thống Cơng
đồn các cấp, đổi mới cơng tác chỉ đạo, cải tiến nội dung phương thức hoat
động nhằm đáp ứng nhu cầu tình hình mới.
17
Chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
phải thực hiện một q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh
tế - xã hội. Trong đó những yếu tố đóng vai trị quan trọng là nguồn nhân lực,
tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơng nghệ và phương pháp quản lý. Do
đó, đào tạo cơng nhân cho cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm vụ cấp
bách, một hướng trọng tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của
nước ta trong thời kỳ mới, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng xác định:
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt, phát triển
về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay
nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo cơng nghệ mới, có tác
phong cơng nghiệp và có ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động đạt
năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, làm nịng cốt
trong việc xây dựng khối liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc [11, tr.505].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới tiếp
tục đạt được nhiều thành tựu to lớn trong đó có sự đóng góp xứng đáng của
giai cấp cơng nhân và tổ chức Cơng đồn,… Mục tiêu và khẩu hiệu hành
động của Cơng đồn trong những năm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước mà Đại hội Cơng đoàn Việt Nam lần thứ VIII (tháng 11 - 1998)
đã xác định là “Vì sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì việc
làm, đời sống, dân chủ và công bằng xã hội, xây dựng giai cấp công nhân và
tổ chức Cơng đồn vững mạnh” [60, tr.533].
Năm 1998, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Đại hội lần
thứ XII Cơng đồn thành phố Hà Nội đã xác định mục tiêu tổng quát trong
những năm 1998 - 2003 là
Xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức, lao động và tổ chức
Cơng đồn thủ đơ vững mạnh, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích
18
hợp pháp, chính đáng của cơng nhân, viên chức, lao động góp
phần thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng Thủ đơ
giàu đẹp, văn minh [32, tr.293].
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về xây dựng và phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước đã có nhiều biện pháp sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước và tăng
cường hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Tính đến đầu năm 2002, thành
phố Hà Nội đã tiến hành cổ phần hóa 87 doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có
69 doanh nghiệp tồn bộ, 18 doanh nghiệp cổ phần hóa bộ phận.
Sự chuyển dịch cơ cấu và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã
tác động mạnh mẽ đến giai cấp công nhân, phát triển nhanh số lượng và
chất lượng, trong tất cả các ngành nghề và thành phần kinh tế. Đã hình
thành đội ngũ cơng nhân, viên chức, lao động có trình độ chun mơn
nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật cao trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước. Mặc dù chiếm tỷ lệ không lớn trong dân số và lực lượng lao động
xã hội và còn những yếu kém nhưng thực tế đã khẳng định bản chất cách
mạng, sự kiên định vững vàng về chính trị của giai cấp công nhân. Giai cấp
công nhân vẫn luôn giữ vai trị tiên phong, cơ sở chính trị - xã hội quan
trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà
nước, giữ vai trò nịng cốt trong khối liên minh giai cấp cơng nhân với giai
cấp nơng dân và đội ngũ trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc, đi đầu trong
sự nghiệp đổi mới.
Tuy số lượng Cơng đồn cơ sở và số đồn viên cơng đồn trong khu vực
Nhà nước, do Liên đoàn Lao động thành phố quản lý trực tiếp toàn diện có
giảm đi, nhưng tổ chức Cơng đồn Thủ đơ được phát triển bổ sung các Cơng
đồn trong thành phần kinh tế tập thể, tư nhân và liên doanh. Trước biến động
trên, Liên đoàn Lao động Thành phố Hà Nội đã coi trọng việc sắp xếp, kiện
19
tồn hệ thống Cơng đồn các cấp, đổi mới cơng tác chỉ đạo, cải tiến nội dung
phương thức hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu tình hình mới.
Cơng đồn Thủ đô đã coi trọng công tác tuyên truyền pháp luật như
nghiên cứu Bộ luật Lao động, Luật Cơng đồn, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư nước ngoài, Chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp và giải quyết tranh
chấp lao động, chính sách tiền lương, Nghị định 59/CP của Chính phủ về
quản lý tài chính, tài sản. Với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với điều kiện
làm việc của cơ sở như tuyên truyền thông qua triển lãm, hệ thống phát thanh,
bản tin, hỏi đáp, sổ tay Cơng đồn, trả lời trên báo…. đã làm cho công nhân,
lao động hiểu biết sâu sắc hơn về chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà
nước, người lao động thấy rõ quyền và trách nhiệm của mình trong việc thực
hiện quyền và nhiệm vụ của cơ quan, doanh nghiệp và tự mình điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội.
Trên cơ sở nhận thức ngày càng sâu sắc vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức Cơng đồn Hà Nội đã khơng ngừng phấn đấu để khẳng định, phát huy vị
trí, vai trị của mình trong sự nghiệp cách mạng ở Thủ đơ. Tổ chức Cơng đồn
Hà Nội đã khơng ngừng tự hồn thiện về tổ chức, đổi mới phương thức hoạt
động để ngày càng tham gia một cách có hiệu quả vào quá trình quản lý kinh
tế - xã hội, trở thành một bộ phận trọng yếu trong hệ thống chun chính vơ
sản ở Thủ đô.
Tuy nhiên, bên cạnh những cố gắng, những ưu điểm nổi bật, tổ chức
cơng đồn Hà Nội bộc lộ những hạn chế, thiếu sót. Trước hết là năng lực tổ
chức và hoạt động còn hạn chế của đội ngũ cán bộ cơng đồn; sự thiếu chủ
động, năng động của các cấp cơng đồn; một số cán bộ cơng đồn cịn hạn
chế về lý luận và phương pháp tổ chức giáo dục, hướng dẫn quần chúng. Nhìn
chung, tổ chức cơng đồn đã phát huy được vai trị của mình trong sự nghiệp
cách mạng Thủ đơ, nhưng có nơi, có lúc, vai trị đó chưa được thể hiện nổi
bật, sự chủ động, độc lập công tác chưa rõ nét.
20
Hệ thống tổ chức Cơng đồn tuy ngày càng được kiện tồn, mở rộng
nhưng cịn cồng kềnh, trì trệ, thụ động, hoạt động thiếu hiệu quả. Với tư cách
là một tổ chức rộng rãi nhất nhưng các cấp cơng đồn Thủ đô vẫn thiếu sự
chủ động trong đề xuất, thực hiện các án tổng thể để giải quyết các vấn đề cấp
bách của đời sống. Vì vậy nhiều phong trào được phát động, nhiều biện pháp
được áp dụng, nhưng phần lớn mới dừng lại ở mức độ đối phó, chắp vá, lặp đi
lặp lại.. chưa đủ sức cải biến tình hình một cách cơ bản, chưa tạo ra sự chuyển
đổi sâu sắc trong phương thức tổ chức, hoạt động công đoàn. Trong hoạt động
vẫn chưa thực sự chú ý đến vấn đề gốc rễ là vấn đề người lao động. Cơng
đồn chưa có những biện pháp hiệu quả để giáo dục công nhân viên chức, để
chăm lo thiết thực đời sống vật chất, tinh thần của người lao động, chưa đủ
sức đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của công nhân viên chức trong cơ
quan, đơn vị.
Công nhân, lao động ở một số ngành, một số cơ sở đang đứng trước
những vấn đề khó khăn, phức tạp nảy sinh trong q trình đổi mới. Tuy việc
làm có bớt gay gắt hơn trước, song hàng nghìn cơng nhân vẫn phải nghỉ việc,
thiếu việc. Tỷ lệ công nhân chưa được đào tạo cơ bản và trình độ tay nghề
thấp, chiếm tới gần 50%. Trình độ nghề nghiệp, tác phong cơng nghiêp cịn
thấp xa so với địi hỏi của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở khu vực
kinh tế Nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, phương án sản xuất kinh doanh không ổn định, sản phẩm làm ra bị ứ đọng thì số lượng cơng nhân,
lao động lại giảm đi đáng kể, việc làm không ổn định, thiếu việc, nghỉ việc…
1.2. YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI TỔ CHỨC CƠNG ĐỒN HÀ NỘI NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
Hà Nội là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hố của đất
nước, việc tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một trung tâm kinh tế
lớn là một yêu cầu cấp bách. Với một vị trí địa lý thuận lợi cho mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh và hợp tác với các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp
21
trong nước cũng như ở nước ngoài, Hà Nội tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa với những u cầu rất cao gắn liền với kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
Điều này đặt ra những yêu cầu mới đối với tổ chức Cơng đồn Thủ đơ những
năm đầu thế kỷ XXI.
Dưới sự tác động của nhiều yếu tố, giai cấp cơng nhân Hà Nội đã có sự
biến động mạnh về số lượng. Sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời, số doanh
nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh tăng lên nhanh chóng đã thu
hút một lượng lớn cơng nhân, lao động tham gia vào sản xuất. Sự thay đổi hệ
thống chính sách của Đảng và Nhà nước đã khuyến khích các nhà doanh
nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường
đầu tư, đã làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên với tốc độ cao, kéo theo là
tăng một khối lượng cơng nhân đơng đảo. Cũng từ đó lực lượng cơng nhân
được thu hút vào làm việc ở các doanh nghiệp cũng có sự biến đổi.
Số cơng nhân làm việc trong khu vực nhà nước ở Hà Nội vẫn tăng. Một
phần do một số cơng ty Nhà nước đóng trên địa bàn Hà Nội vẫn cịn là những
cơng ty làm ăn phát đạt, một phần vì mặt hàng mà cơng ty sản xuất là những
mặt hàng trọng yếu đối với nền kinh tế quốc dân nên vẫn thu hút đông đảo
công nhân đến làm việc. Tuy nhiên, trong điều kiện một số doanh nghiệp nhà
nước tiến hành sắp xếp, đổi mới lại, phá sản, giải thế do làm ăn thua lỗ, nên
một số lượng đáng kể công nhân chuyển sang đầu quân cho các doanh nghiệp
ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Sự chuyển dịch
cơ cấu giai cấp công nhân cũng diễn ra theo chiều hướng tăng lên của cơng
nhân, lao động nhóm ngành cơng nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ.…
Có thể nói, về cơ bản đội ngũ cơng nhân nước ta nói chung, đội ngũ
cơng nhân Hà Nội nói riêng có tuổi đời trẻ. Độ tuổi bình qn của cơng nhân
nước ta nhìn chung thấp. Xu hướng chung là tuổi đời và tuổi nghề của cơng
nhân ngày càng trẻ hóa, nhất là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Chất lượng đội ngũ công nhân, lao động cũng ngày càng được nâng cao. Do
22
phải liên tục thay đổi cơng nghệ sản xuất địi hỏi cơng nhân có trình độ ngày
càng cao và số công nhân không đáp ứng được yêu cầu sẽ chuyển ngành nghề
khác. Hiện nay, xuất hiện xu hướng những người tốt nghiệp đại học chuyên
ngành gia nhập đội ngũ công nhân có kỹ thuật cao, lao động khơng phải sử
dụng cơ bắp mà có là lao động trí óc, lao động chuyển từ thủ cơng là chính
sang lao động kỹ thuật cao, sử dụng máy móc là chính.
Sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, của hàng loạt các
doanh nghiệp có vốn đấu tư nước ngồi đã tạo thêm được rất nhiều việc làm
cho công nhân, lao động Thủ đô. Tuy nhiên, do một lực lượng đông đảo
người nông dân mất đất canh tác nên xin chuyển vào làm cơng nhân trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đóng trên địa bàn nên vẫn giữ tác
phong làm việc nơng nghiệp, thiếu tính chun nghiệp, kỷ luật lao động lỏng
lẻo, trình độ học vấn, tay nghề thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đội
ngũ công nhân Thủ đơ.
Trước những thuận lợi và khó khăn của Thủ đô và đất nước, giai cấp
công nhân và tổ chức Cơng đồn có trách nhiệm nặng nề, tập trung vào một
số nội dung:
Thứ nhất, các cấp cơng đồn cần chăm lo làm tốt hơn nữa nhiệm vụ xây
dựng giai cấp cơng nhân xứng đáng là lực lượng nịng cốt, đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thời kỳ hiện nay, đội ngũ cơng nhân Hà Nội có sự phân hóa nhanh và
liên tục so với cơng nhân ở các vùng kinh tế khác. Đó là do sự tác động mạnh
mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại làm cho trình độ của lực lượng sản
xuất thay đổi, phân cơng lao động cao. Điều đó địi hỏi công nhân phải không
ngừng học tập và tự đào tạo để đáp ứng yêu cầu của công việc. Đa số cơng
nhân có tay nghề cao cố gắng học hỏi, tiếp cận với công nghệ tiên tiến và trở
thành lực lượng nòng cốt. Mặt khác, Hà Nội cũng là trung tâm khoa học của
cả nước, là nơi tập trung của các viện khoa học, trung tâm nghiên cứu và các
23
trường đại học, cao đẳng. Những yếu tố trên tác động đã làm tăng xu hướng
trí thức hóa cơng nhân.
Kinh tế Hà Nội có tốc độ phát triển nhanh, liên tục và tương đối toàn
diện so với các địa phương khác trong cả nước. Cơ cấu kinh tế thay đổi đã
kéo theo sự thay đổi của cơ cấu lao động: lao động trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ tăng lên, lao động trong nông nghiệp giảm cả tương đối và
tuyệt đối (công nhân, lao động trong nông nghiệp giảm từ 40,09% năm 1995
xuống còn 30,18% năm 2000 và 20,06% năm 2004). Hà Nội vẫn là trung tâm
kinh tế lớn của cả nước với 29.408 doanh nghiệp đang hoạt động trên các lĩnh
vực sản xuất khác nhay thu hút nhiều lao động [29, tr.18].
Trong lĩnh vực cơng nghiệp: ngồi 9 khu cơng nghiệp vốn có, Hà Nội
cũng đầu tư vào xây dựng 5 khu công nghiệp tập trung, 2 khu công nghiệp
vừa và nhỏ, giải quyết hơn 26 vạn lao động có việc làm ổn định [29, tr.19].
Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, Hà Nội vẫn là thị trường phát triển
sơi động, hàng hóa phong phú, đa dạng khơng chỉ đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của người tiêu dung, nơi trao đổi hàng hóa, dịch vụ và thực hiện các
giao dịch mà còn là lĩnh vực hiện đang giải quyết việc làm cho số lượng lớn
lao động ở Hà Nội và các tỉnh lân cận. Công nhân, lao động trong toàn ngành
thương mại, dịch vụ tăng từ 37,99% năm 1995 lên 45,36% năm 2000 và
50.62% năm 2004 [29, tr.19].
Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hoá của đất nước, việc tiến hành cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở một trung tâm kinh tế lớn là một yêu cầu cấp bách.
Với một vị trí địa lý thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và hợp
tác với các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp trong nước cũng như ở nước
ngồi, Hà Nội tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với những yêu cầu rất
cao gắn liền với kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại
Chính vì vậy mà yếu tố trình độ, vấn đề trí tuệ của người công nhân là
một vấn đề hết sức quan trọng để có thể đáp ứng những yêu cầu của cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Thủ đơ.
24
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn có những địi hỏi người công nhân
phải thực hiện những yêu cầu sau:
- Tiêu chuẩn hố. Tiêu chuẩn hố liên quan đến trình độ và năng lực
của người thợ đến thiết bị máy móc của quy trình sản xuất cho tới sản phẩm
của nó. Nếu tốc độ của người lao động khơng cao, năng lực sản xuất thấp thì
sẽ khơng đáp ứng được tiêu chuẩn và hậu quả là người lao động bị loại trừ,
máy móc ngưng trệ, sản phẩm bị phế thải và cuối cùng nhà doanh nghiệp bị
thất bại.
Người công nhân trong các nhà máy không thể làm mọi việc như người
nông dân hay thợ thủ công mà chỉ đảm nhận một nhiệm vụ nhất định với vài
thao tác nhất định. Nghĩa là khi lao động, họ phải đứng ở một vị trí xác định,
phải được chun mơn hố ở độ cao, thành thạo trong những thao tác của họ.
Có như vậy họ mới thích ứng được với nền sản xuất cơng nghiệp có sự phân
cơng lao động xã hội ngày càng tinh vi, phức tạp. ở thời kỳ đầu, tiêu chuẩn
hoá chưa trở thành một nguyên tắc cơ bản, bởi sản xuất vẫn chủ yếu là thủ
công kết hợp với máy móc nên tính chất của lao động chưa phức tạp. Nhưng
càng về sau, nguyên tắc này càng tác động mạnh mẽ tới đội ngũ công nhân,
nhất là ở những nhà máy xí nghiệp có máy móc hiện đại.
- Chun mơn hố. Đây là u cầu bắt buộc của nền sản xuất cơng
nghiệp, chính yếu tố này tạo ra sự phân công lao động ngày càng sâu sắc
trong các xưởng và giữa những người thợ; đồng thời gây ra sự phân hố trong
hàng ngũ cơng nhân: những người có trình độ kỹ thuật cao thích ứng với nền
cơng nghệ hiện đại và những người lao động giản đơn, kỹ thuật thấp rất dễ rơi
vào nguy cơ bị đuổi ra khỏi nhà máy. Cơng nhân đã được tiêu chuẩn hố và
đồng bộ hoá khi tham gia sản xuất. Họ phải vận động theo nhịp độ của máy
móc và tuân theo những quy định nghiêm ngặt về kỹ thuật mà không thể tự ý
sửa đổi hay rời bỏ vị trí. Chính điều này là sự tác động tiêu cực nhất đối với
công nhân, làm cho họ “què quặt” về mặt thể xác và tinh thần như C.Mác đã