1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong chiến tranh cách mạng hậu phương luôn là một nhân tố quyết
định thắng lợi, “khơng có qn đội nào trên thế giới khơng có hậu phương mà
lại chiến thắng địch” [61, tr.172]. Kế thừa những kinh nghiệm quý báu của
dân tộc, trên cơ sở tiếp thu lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng và chiến tranh giải phóng, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức và quan tâm sâu sắc vấn đề xây dựng căn cứ
địa, hậu phương, coi đó là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi.
Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng đã
lãnh đạo khẩn trương xây dựng các vùng tự do, căn cứ địa nhằm cung cấp nhu
cầu về sức người, sức của cho cuộc kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, các căn cứ địa kháng chiến được xây dựng trên
nhiều vùng, miền của đất nước, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc.
1.2. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân và
dân miền Nam Trung bộ dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng mà trực tiếp
là Liên khu V, các Đảng bộ đã xây dựng và giữ vững một vùng tự do trải dài
từ Quảng Nam (phía Bắc cầu Bà Rén) qua các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định
đến hết tỉnh Phú Yên. Mặc dù liên tục bị quân đội Pháp bao vây, đánh phá với
quy mô và mức độ ngày càng ác liệt, Vùng tự do Nam Trung bộ vẫn vững
mạnh trong suốt cuộc kháng chiến, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ căn cứ địa,
góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến ở miền Nam Trung bộ, cũng
như thắng lợi của cả nước, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế với hai nước
bạn Lào và Campuchia.
1.3. Thực tiễn xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam Trung bộ diễn
ra hết sức sinh động, chứa đựng nhiều sáng tạo, đã thu hút nhiều nhà nghiên
2
cứu quan tâm. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề, như sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Trung ương Đảng, của Liên khu uỷ V; những sáng tạo của các Đảng bộ địa
phương trong việc xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam Trung bộ thành
căn cứ địa - hậu phương của cuộc kháng chiến; vai trò của vùng tự do đối với
khu vực Nam Trung bộ, các tỉnh Tây Nguyên cũng như Hạ Lào và Đông bắc
Campuchia… chưa được luận giải một cách thấu đáo và toàn diện.
1.4. Trong công cuộc đổi mới đất nước, mở cửa hội nhập quốc tế hiện
nay, Đảng ta đã xác định xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là
nhiệm vụ then chốt, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực của
sự phát triển. Để thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng cũng như nghiên cứu, phát triển đường lối xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cần thiết nghiên cứu, vận dụng những kinh nghiệm
về xây dựng và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các Đảng bộ địa phương
cũng như những kinh nghiệm về vận động, tổ chức quần chúng, nhân dân
trong lịch sử đấu tranh cách mạng, trong đó có những kinh nghiệm về lãnh
đạo phong trào cách mạng, về vận động nhân dân xây dựng căn cứ địa vùng
tự do trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Nghiên cứu “Đảng lãnh đạo xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam
Trung bộ (1947 - 1954)” để làm sáng tỏ thêm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng
và những đặc điểm chiến tranh cách mạng, đánh giá một cách khách quan
những thành công, hạn chế của Đảng trong quá trình lãnh, đúc kết những kinh
nghiệm lãnh đạo, tổ chức nhân dân xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam
Trung bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp có thể vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đến nay, đã có nhiều cơng trình, đề tài viết về chiến tranh cách mạng,
về cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là những tác phẩm viết về chiến tranh
3
cách mạng ở Liên khu V, Nam Trung bộ như: “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam (1920 - 1954)”, tập I của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1981; “Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 1954)”, 2 tập của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1994; “Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 - 1975)”,
của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997;
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc xây dựng các vùng tự do lớn
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954”, của Đào Trọng Cảng,
Luận án Phó tiến sĩ khoa học lịch sử, bảo vệ tại Viện nghiên cứu chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh năm 1993; “Hồ Chí Minh với vấn đề
xây dựng hậu phương”, của Nguyễn Nhâm, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 5
năm 1998; “Về xây dựng căn cứ địa, hậu phương trong kháng chiến chống
Pháp”, của Ngô Vy Thiện, Tạp chí LSQS, số 18 năm 1987; “Khu V - 30 năm
chiến tranh giải phóng”, tập I, của Bộ Tư lệnh Quân khu V xuất bản 1986;
“Nam Trung bộ kháng chiến (1945-1975)”, của Viện Lịch sử Đảng - Hội
đồng biên soạn lịch sử Nam Trung bộ kháng chiến, Hà Nội 1992; “Lịch sử
quân giới Khu V (1945-1975)”, của Quân Khu V - Cục kỹ thuật, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1995; “Vùng tự do Liên khu V trong kháng chiến chống
thực dân Pháp 1945 - 1954”, của Lê Văn Đạt, Luận án tiến sĩ khoa học lịch
sử, bảo vệ tại Đại học sư Phạm năm 2002; “Đảng bộ Liên khu V lãnh đạo xây
dựng kinh tế trong kháng chiến chống Pháp 1945 - 1954”, của Nguyễn Thị
Hậu, Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử, bảo vệ tại Viện Lịch sử Đảng năm
2005. Những cơng trình đó đã có nêu lên các mặt hoạt động của của quân dân
ta trong kháng chiến chống Pháp, trong đó có đề cập đến các vùng tự do nói
chung và nam Trung bộ nói riêng. Các tác phẩm cũng đều khẳng định vai trò
to lớn của vùng tự do - căn cứ địa trong kháng chiến chống thực dân Pháp;
những thành tựu các mặt mà Vùng tự do Nam Trung bộ đạt được. Tuy nhiên
các cơng trình này chưa đề cập cụ thể về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong
4
lãnh đạo xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở nam Trung bộ. Luận án Phó tiến
sĩ của Đào Trọng Cảng chỉ nêu lên vai trò lãnh đạo vùng tự do chung của cả
nước chứ chưa nêu đầy đủ chi tiết sự lãnh đạo của Đảng và quá trình các
Đảng bộ địa phương chỉ đạo thực hiện; Luận án Tiến sĩ của Lê Văn Đạt có
nêu lên các mặt, nhưng đây là cơng trình thuộc chun ngành lịch sử cận và
hiện đại nên chỉ dừng lại ở dạng trình bày hoạt động bằng những sự kiện, diễn
biến của nhân dân ở vùng tự do.
Ngồi ra, cịn có các cơng trình lịch sử Đảng bộ địa phương khi viết về
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược cũng đã phản ánh về quá
trình xây dựng căn cứ địa kháng chiến ở địa phương, như: “Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng (1945-1954)”, tập 2, của Đảng bộ tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, 1990; “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định, thời
kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (8-1945 đến 5-1955)”, tập 2,
của Đảng bộ tỉnh Bình Định, Nxb Tổng hợp Bình Định 1992 ; “Lịch sử Đảng
bộ tỉnh Quảng Ngãi 1945-1975”, tập 2, của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng
Ngãi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;... Đồng thời, trong những năm qua,
trên các tạp chí khoa học, các hội thảo khoa học xuất hiện nhiều bài viết phản
ảnh, phân tích về cơng tác xây dựng vùng tự do ở Nam Trung bộ, như: “Tìm
hiểu quá trình xây dựng kinh tế tự túc, tự cấp ở vùng tự do Nam Trung bộ trong
kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)”, của Lê Văn Đạt, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, số 1 năm 2005; “Vài nét về tình hình giáo dục ở vùng tự do
Liên khu V trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)”, của Lê Văn Đạt, Tạp
chí nghiên cứu lịch sử, số 2 năm 2001... Tuy nhiên, đứng ở góc độ lịch sử Đảng,
chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về quá trình lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng trong việc xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam Trung bộ
trong kháng chiến chống Pháp từ 1947 đến 1954. Nhưng những cơng trình trên
là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả trong việc tiếp cận nguồn sử
liệu, xác định phương pháp nghiên cứu thực hiện luận văn.
5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Đảng lãnh đạo xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam
Trung bộ (1947 - 1954)” góp phần phát triển cơng tác nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đúc kết kinh nghiệm, cung cấp một số luận
cứ khoa học cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích quan điểm về sự lãnh đạo của Đảng, Liên khu uỷ V, các
Đảng bộ về xây dựng và giữ vững Vùng tự do Nam Trung bộ trong những
năm 1947 - 1954.
- Tái hiện, luận giải quá trình xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam
Nam Trung bộ trong những năm 1947 - 1954.
- Làm rõ những đóng góp của vùng tự do ở Nam trung bộ đối với cuộc
kháng chiến của nhân dân ta và hai nước bạn Lào, Campuchia.
- Đánh giá một cách khoa học những đặc điểm, thành công và hạn chế
của quá trình xây dựng, giữ vững Vùng tự do ở Nam Trung bộ, đúc kết những
kinh nghiệm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo
của Đảng, phong trào cách mạng ở các địa phương; những đóng góp của
Đảng bộ và nhân dân các địa phương trong quá trình xây dựng và giữ vững
vùng tự do ở Nam Trung bộ những năm 1947 - 1954.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây dựng và giữ vững Vùng tự do
ở Nam Trung bộ trong thời gian từ 1947 đến 1954. Địa bàn được nghiên cứu
bao gồm Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
6
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào quan điểm của chủ Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng về chiến tranh nhân dân, khối đại đoàn kết toàn
dân, về xây dựng căn cứ địa - hậu phương trong kháng chiến.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và logic, ngồi ra cịn
sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điền dã…
5.3. Nguồn tài liệu
Luận văn chủ yếu dựa vào Văn kiện Đảng toàn tập thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp; các Nghị quyết, Hội nghị của Đảng bộ Liên khu V, các
báo cáo của Liên khu uỷ, Uỷ ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ
thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp; Lịch sử Đảng bộ và tài liệu lưu trữ
ở trung tâm lưu trữ Quốc gia, các địa phương Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú n có liên quan đến đề tài, hồi ký của những nhân chứng sống.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
6.1. Về tư liệu
Thu thập, sưu tầm, hệ thống hoá nguồn sử liệu liên quan đến quan điểm
và thực tiễn lãnh đạo xây dựng, giữ vững Vùng tự do ở Nam Trung bộ từ
1947 đến 1954, trong đó có những sử liệu mới.
6.2. Về nội dung
- Dựng lại quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở
Nam Trung bộ từ 1947 đến 1954.
- Phân tích chủ trương, phương pháp vận động, tổ chức quần chúng
nhân dân xây dựng và giữ vững Vùng tự do ở Nam Trung bộ từ 1947 - 1954.
- Đưa ra một số nhận xét chung về quá trình lãnh đạo xây dựng Vùng
tự do ở Nam Trung bộ từ 1947 - 1954; nhấn mạnh tính tích cực, chủ động,
7
linh hoạt của các cấp uỷ Đảng địa phương trong việc xây dựng và giữ vững
căn cứ địa vùng tự do đối với cuộc kháng chiến ở Việt Nam và 3 nước
Đơng Dương.
7. Bố cục của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung chính của luận văn gồm ba chương, 6 tiết.
8
Chương 1
XÂY DỰNG, CỦNG CỐ VÙNG TỰ DO Ở NAM TRUNG BỘ
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
(1947 - 1950)
1.1. VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TRUYỀN
THỐNG ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN VÙNG TỰ DO Ở NAM TRUNG BỘ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Ở vào khoảng giữa của Tổ quốc và khu vực biên giới ba nước Đông
Dương, Vùng tự do ở Nam Trung bộ bao gồm Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, với tổng diện tích gần 2.300km 2. Phía bắc giáp vùng
địch tạm chiếm (Bắc Quảng Nam), phía nam giáp vùng địch tạm chiếm
Khánh Hồ, phía tây giáp vùng địch tạm chiếm Đắklắk, Gia Lai, Kon Tum và
Hạ Lào, phía đơng giáp biển Đơng.
Địa hình vùng tự do khá đa dạng, gồm các vùng: rừng núi, trung du và
đồng bằng ven biển.
Vùng rừng núi và trung du (bao gồm miền tây các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) chiếm 2/3 tổng diện tích vùng tự do. Do
cấu tạo địa chấn, hệ thống núi, đèo của vùng tự do khá đa dạng.
Phía tây Quảng Nam chạy dọc theo dãy Trường Sơn có các đỉnh núi
cao, như núi Lun Heo (2045m), núi Gole Dang (2218m), núi Ngọc Linh
(2598m)… Phía bắc tỉnh có núi và đèo Hải Vân hùng vĩ chắn ngang đường quốc
lộ 1A, phân chia ranh giới hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Bán đảo
Sơn Trà với độ cao 690m nằm án ngữ cửa biển Đà Nẵng. Phía nam tỉnh cịn có
dãy núi Chúa là ranh giới phân chia hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Phía tây Quảng Ngãi có núi rừng bao la tạo thành vịng cung hai đầu
nhơ ra sát biển, ơm lấy đồng bằng. Phía nam tỉnh có núi Cao Mun với độ cao
1000m quanh năm mây phủ vốn là căn cứ của đội du kích Ba Tơ trước cách
9
mạng Tháng Tám 1945. Phía bắc tỉnh có núi Cà Đam cao 1650m gắn với
vùng rừng núi Quảng Nam.
Phía tây Bình Định là dãy Trường Sơn trải dài từ miền tây Quảng Nam
đến địa phận tỉnh Bình Định hình thành một vòng cung lớn, bao quanh cả ba
mặt bắc, tây, nam của tỉnh với nhiều dãy núi nhô ra sát biển như dãy núi Đá
Lửa, núi Lo, núi Lớn….Ngọn núi cao nhất là núi Bà (1100m), núi Ông
(1000m), núi Kim Sơn (800m)….Ở phía bắc Bình Định có đèo Bình Đê ranh
giới phân chia hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi.
Vùng rừng núi Phú Yên hiểm trở, chiếm 3/4 diện tích tự nhiên của tỉnh,
có nhiều ngọn núi cao như ngọn La Hiên (1228m), ngọn Hịn Dù (1470m);
dãy núi Cù Mơng (có đèo Cù Mơng) ở phía bắc cùng dãy núi Chủ Mủ (có đèo
Cả) ở phía nam là hai nhánh của dãy Trường Sơn chạy thẳng đến biển hình
thành ranh giới thiên nhiên với tỉnh Bình Định ở phía bắc và tỉnh Khánh Hồ
ở phía nam.
Nhìn chung, vùng rừng núi và trung du có địa thế hiểm trở, giao thơng
liên lạc khơng thuận tiện, nhưng là vị trí quan trọng để xây dựng căn cứ kháng
chiến, vận dụng chiến thuật trong tác chiến đánh địch của các lực lượng vũ
trang cách mạng, nhất là trong thời kỳ đầu mới xây dựng.
Vùng đồng bằng ven biển chiếm 1/3 diện tích vùng tự do, tuy nhỏ hẹp,
bị sơng ngịi, đồi núi che cắt thành nhiều mảnh, song khá màu mỡ, thích hợp
với nhiều loại cây trồng, như lúa, hoa màu (mì, khoai lang) và các loại cây
cơng nghiệp như: bơng, dâu, mía, đậu phụng, dừa, cói… Nhìn chung, vùng
đồng bằng ven biển vùng tự do có vai trị quan trọng, dân cư đơng đúc, có
nhiều thành phố, thị xã, là nơi tập trung nhân tài và vật lực của Nam Trung
Bộ. Các thị trấn Hà Lam, Tam Kỳ (Quảng Nam), Sông Vệ (Quảng Ngãi),
Bồng Sơn, Đập Đá (Bình Định), Sơng Cầu (Phú Yên) là những trung tâm giao
lưu, buôn bán, trao đổi hàng hố và sản xuất các mặt hàng thủ cơng nghiệp
của vùng tự do. Hàng năm, nếu không bị thiên tai, sản xuất nông nghiệp của
10
vùng tự do không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của địa phương mà còn
dư thừa. Đây là một đặc điểm thuận lợi cho việc phát huy vai trị của hậu
phương kháng chiến.
Hệ thống sơng, suối ở Vùng tự do hầu hết đều bắt nguồn từ vùng rừng
núi miền Tây của bốn tỉnh1, chảy theo chiều Tây - Đông, vừa là nguồn cung
cấp nước tưới chủ yếu cho nông nghiệp, vừa tạo ra mạng lưới giao thông nội
địa khá thuận tiện. Tuy vậy, phần lớn các con sông đều ngắn, độ dốc lớn và
chảy xiết nên thường gây ra lũ lụt lớn trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa
khơ, gây nhiều khó khăn cho sản xuất nơng nghiệp các địa phương.
Do cấu tạo địa lý, Vùng tự do ở Nam Trung bộ nằm trong khu vực khí
hậu nhiệt đới khô, ẩm và được chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ
tháng 3 đến tháng 8. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến cuối tháng 2 năm sau, là
mùa thường có bão, lũ. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1597 ly. Nhiệt độ
trung bình 260c, thấp nhất là 160c, cao nhất là 380c. Giờ nắng trong năm bình
qn 200 giờ/tháng.
Về giao thơng vận tải, Vùng tự do ở Nam Trung bộ có nhiều tuyến
đường chiến lược quan trọng, là hành lang giao thông Bắc - Nam, có quốc lộ
1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua.
Dân cư Vùng tự do Nam Trung bộ rất đông đúc, đã sinh cơ lập nghiệp
cùng nhau chung sống, lao động, sản xuất và đấu tranh chống thiên tai, chống
áp bức, chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc. Ngoài người Kinh chiếm
hơn 90% dân số, các tỉnh vùng tự do có gần 10% dân số là các dân tộc ít
người, như Cơ Tu, Triêng, Xê Đăng, Ca Dong, Cor, Ba Na, Chăm, Hrê,
Tày…. Trong suốt nhiều thập kỷ, cộng đồng các dân tộc nơi đây đã chung
lưng đấu cật chống chọi với thiên tai, địch hoạ, xây dựng quê hương. Con
người vùng tự do ở Nam Trung bộ mang phẩm chất, phong cách và truyền
1
* Vùng tự do ở Nam Trung bộ phần lớn các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (trừ Bắc
Quảng Nam) để tiện trình bày, tác giả sử dụng thuật ngữ “bốn tỉnh” vùng tự do để chỉ các địa phương trên.
11
thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, yêu nước nồng nàn, cần cù, dũng cảm,
khẳng khái, sống có nghĩa tình, đồn kết và dám xả thân vì nghĩa lớn.
Nhân dân vùng tự do Nam Trung bộ chủ yếu sinh sống bằng nghề nơng.
Bên cạnh cây trồng chính là cây lúa, nhân dân các địa phương còn trồng các
cây lương thực khác như: cây sắn, khoai, ngô….Cùng với nghề nông, nhân
dân các địa phương cịn có nhiều nghề thủ cơng truyền thống, như dệt vải, dệt
lụa, nấu đường, ép dầu, làm muối, làm giấy, làm gốm, làm chiếu…Về công
nghiệp, do chính sách kìm hãm kinh tế thuộc địa của thực dân Pháp, cơng
nghiệp của vùng tự do khơng có điều kiện phát triển. Ngoài một số nhà máy
nhỏ phục vụ chủ yếu nhu cầu sinh hoạt của chính quyền thực dân được đặt ở
thành phố Đà Nẵng và các thị xã như nhà máy điện, nhà máy nước… thực
dân Pháp chỉ cho xây dựng một vài cơ sở công nghiệp nhỏ, như nhà máy sửa
chữa tàu thuỷ Đà Nẵng, nhà máy ươm tơ Giao Thuỷ, chế biến chè Đức Phú,
gạch ngói Hội An (Quảng Nam), nhà máy dệt Đơ li nhơng (Bình Định), nhà
máy chế biến mía đường Đồng Bị (Phú Yên)…, nhưng công nghệ lạc hậu và
sản lượng rất thấp.
Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên như vậy, vùng tự do Nam
Trung bộ có những điều kiện thuận lợi để phịng thủ trước các mũi tấn cơng của
kẻ thù và xây dựng nơi đây thành một vùng căn cứ địa, hậu phương của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Ngay cả trong trường hợp bị kẻ thù bao vây,
vùng tự do Nam Trung bộ vẫn có khả năng tự cấp, tự túc mọi mặt để đánh giặc.
Phát huy sức mạnh to lớn của chiến tranh nhân dân, tiến hành cuộc
chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài, quân và dân Vùng tự do Nam Trung
bộ vừa chiến đấu vừa xây dựng; vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa
vụ quốc tế, từng bước đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn chiến tranh nham hiểm
của thực dân Pháp, phát động được phong trào du kích trong vùng địch, giữ
vững và xây dựng vùng tự do thành căn cứ địa vững chắc, góp phần cùng cả
nước đánh bại thực dân Pháp trong cuộc kháng chiến thần thánh.
12
1.1.2. Truyền thống đấu tranh yêu nước và cách mạng
Nhân dân vùng tự do vốn có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại
xâm. Dưới chế độ phong kiến, phong trào khởi nghĩa của nông dân ở đây
chống áp bức, bất công diễn ra mạnh mẽ. Cuối thế kỷ XVIII, phong trào khởi
nghĩa của nông dân càng sôi nổi quyết liệt, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa nông
dân Tây Sơn. Phong trào nông dân Tây Sơn là đỉnh cao của tinh thần quật
khởi, chống áp bức bất công của nông dân Nam Trung bộ1 và cả nước.
Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công vào cửa
biển Đà Nẵng, chính thức xâm lược nước ta. Đứng trước nguy cơ mất nước,
với truyền thống đấu tranh bất khuất, nhân dân Nam Trung bộ tiên phong
chiến đấu chống quân xâm lược. Tháng 6 - 1867, khi Nam Kỳ lục tỉnh bị Pháp
chiếm, quân và dân bốn tỉnh Nam, Ngãi, Bình, Phú tăng cường phịng thủ bờ
biển, củng cố các đồn luỹ, sẵn sàng chiến đấu.
Tháng 7 - 1885, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương kêu gọi mọi người phò vua cứu nước. Hưởng ứng chiếu
Cần Vương, nhiều văn thân sĩ phu yêu nước đã vận động nhân dân, tổ chức
nghĩa quân đứng lên khởi nghĩa. Suốt những năm 1885 - 1889, phong trào
khởi nghĩa vũ trang chống Pháp đã diễn ra sôi nổi trên khắp địa bàn bốn tỉnh.
Tại Quảng Ngãi, ngay sau khi dụ Cần Vương được phát ra, các văn thân sĩ
phu yêu nước cùng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Lê trung Đình, Nguyễn Tự
Tân khởi nghĩa đánh Pháp. Tuy cuộc khởi nghĩa chỉ tồn tại trong thời gian
ngắn (13 - 7 - 1885 đến 23 - 7 - 1885) nhưng có ý nghĩa to lớn, được xem là
mốc mở đầu cho phong trào Cần Vương ở Nam Trung bộ. Tại Quảng Nam,
tháng 9 - 1885, Nghĩa hội Cần Vương Quảng Nam do Trần Văn Dư, Nguyễn
Duy Hiệu lãnh đạo đã nổi dậy đánh Pháp. Dựa vào những nơi hiểm yếu, nghĩa
quân đắp đồn luỹ, xây dựng địa bàn Trung Lộc (Quế Sơn) thành trung tâm
1
Trong lịch sử, khu vực các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận được gọi cả những danh xưng khác nhau, để
tiện trình bày, luận văn sử dụng danh xưng trung bộ.
13
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Tại Bình Định, từ giữa tháng 8 - 1885, hưởng ứng
chiếu Cần Vương, dưới sự lãnh đạo của các văn thân yêu nước, nhân dân
tham gia nghĩa quân, đứng lên khởi nghĩa. Năm 1898 nhân dân các dân tộc
Phú Yên lại đứng lên tiến hành cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Võ Trứ
và Trần Cao Vân. Cuộc khởi nghĩa đã tô thắm thêm truyền thống đoàn kết,
anh dũng của đồng bào Kinh, Thượng, sẵn sàng hy sinh xương máu để gìn giữ
non sơng đất nước.
Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân vùng này cuối cùng đều thất bại,
nhưng đã nêu cao lòng yêu nước, ý chí quật cường của nhân dân Nam, Ngãi,
Bình, Phú trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược,
đi vào củng cố nền thống trị và khai thác thuộc địa. Phong trào yêu nước của
nhân dân Nam Trung bộ nói chung vùng tự do nói riêng tiếp tục sơi nổi. Tiêu
biểu là hoạt động của "Duy tân hội" (5 - 1904) ở Quảng Nam. Phan Châu
Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp cùng nhiều sĩ phu yêu nước khác
đề xướng phong trào canh tân, cải cách: "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh". Phong trào “Đông du” và “Duy Tân” được các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng mạnh mẽ, tạo tiền đề cho cao trào “chống xâu, chống thuế” (kháng
thuế) diễn ra mạnh mẽ và nổi tiếng vào năm 1908 ở khắp các tỉnh Trung bộ,
gây chấn động lớn trên cả nước.
Trong những năm hai mươi của thế kỷ XX, phong trào cách mạng ở
bốn tỉnh mang sắc thái mới. Bên cạnh các phong trào đấu tranh theo khuynh
hướng tư sản, phong kiến, phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản
xuất hiện. Đầu năm 1927, các chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ra
đời ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Tháng 3 1930 chi bộ đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam ở hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình
Định đã ra đời. Đến tháng 10 - 1930 chi bộ đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam
14
tỉnh Phú Yên được thành lập. Đầu năm 1931, Tỉnh uỷ lâm thời bốn tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên được thành lập, trực tiếp lãnh
đạo phong trào cách mạng địa phương.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh của nhân dân bốn
tỉnh diễn ra liên tục, sôi nổi. Năm 1930, lần đầu tiên nhân dân Nam Trung bộ
tổ chức kỷ niệm ngày quốc tế Lao động (1-5). Cuối năm 1930, khắp các tỉnh
rộ lên phong trào ủng hộ công nông Nghệ Tĩnh, chống khủng bố trắng, địi thả
tù chính trị. Phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ và hồ bình, chống phát xít
và chiến tranh những năm 1936 - 1939 có quy mơ và ảnh hưởng rộng lớn.
Đặc biệt trong thời kỳ 1939 - 1945, tiếp thu chủ trương của Đảng đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, Đảng bộ bốn tỉnh đã lãnh đạo nhân dân
xúc tiến chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, các căn cứ địa cách mạng được
xây dựng làm nơi đứng chân của các cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa như căn cứ
địa Nghi Sơn, Phúc Nam, Ba Nghi, Trung Phước (Quảng Nam), Ba Tơ
(Quảng Ngãi), An Đỗ, An Sơn (Bình Định)… Trong cao trào cách mạng 1939
- 1945, nhân dân Quảng Ngãi dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh đã làm nên
cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (11 - 3 - 1945), thành lập đội du kích Ba Tơ - lực
lượng vũ trang tập trung đầu tiên của tỉnh, một trong những đơn vị đầu tiên
của quân đội ta ở miền Nam Trung Bộ.
Thời cơ thuận lợi đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam, Ngãi,
Bình, Phú đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền. Nhờ chuẩn bị chu đáo, chỉ
trong vòng hai tuần lễ (từ 16 - 8 đến 31 - 8 - 1945) khởi nghĩa đã giành thắng lợi
trọn vẹn trên cả bốn tỉnh. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng
Tám năm 1945, nhân dân Nam Trung bộ đã vùng lên khởi nghĩa thắng lợi. Đặc
biệt, tỉnh Quảng Ngãi là một trong những địa phương giành chính quyền sớm
nhất trong cả nước, góp phần cùng cả nước đánh đổ ách thống trị của phát xít
Nhật và thực dân Pháp, giành chính quyền về tay nhân dân, góp phần lập nên
một thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX.
15
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nhân dân thốt khỏi cảnh
sống nơ lệ, trở thành người chủ quê hương, đất nước và vận mệnh của mình. Tuy
nhiên, đất nước vừa mới giành độc lập, tình hình đất nước lại bộn bề khó khăn,
nạn nội phản và ngoại xâm lại diễn ra hết sức phức tạp, nhân dân cả nước nói
chung, bốn tỉnh vùng tự do nói riêng phải tiếp tục công cuộc bảo vệ thành quả
cách mạng trước âm mưu quay trở lại xâm lược của thực dân Pháp. Quân dân
Nam Trung bộ đã đoàn kết chiến đấu ngăn chặn địch từng bước, xây dựng thực
lực về mọi mặt, tạo cơ sở vững chắc để bước kháng chiến lâu dài.
Qua những phác hoạ trên đây, có thể thấy điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của bốn tỉnh Vùng tự do Nam Trung bộ có những thuận lợi nhất định
cho một nền kinh tế tự túc, tự cấp, nhờ đó quân và dân vùng tự do có thể vượt
qua được những khó khăn khi bị địch bao vây, cắt giao thơng, tiếp tế. Đồng
thời nó cũng tạo thuận lợi cho hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương,
phát triển chiến tranh du kích, đánh nhỏ, cơ động và giữ gìn lực lượng. Con
người nơi đây cần cù lao động, có truyền thống đấu tranh quật cường chống
đế quốc và phong kiến tay sai. Điều đó giúp mỗi người dân sớm nhận thức
mục tiêu, yêu cầu của cuộc kháng chiến, tham gia tích cực vào cơng cuộc xây
dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên, Vùng tự do Nam Trung bộ
cũng có nhiều khó khăn nhất định, đó là kinh tế chậm phát triển, lại bị chia
cắt, địa bàn xa Trung ương, gây khó khăn trong việc phịng thủ, xây dựng và
bảo vệ địa phương.
1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ GIỮ VỮNG
VÙNG TỰ DO Ở NAM TRUNG BỘ (1947 - 1950)
1.2.1. Chủ trương của Đảng về xây dựng vùng căn cứ địa hậu
phương trong kháng chiến; sự hình thành vùng tự do ở Nam Trung bộ
Trong lịch sử nhân loại, một dân tộc muốn tự giải phóng mình khỏi ách
nơ lệ của nước ngồi hay một cuộc chiến tranh bên ngoài đều phải tiến hành
16
làm cách mạng hoặc chiến tranh cách mạng. Trong chiến tranh, nhân tố
thường xuyên quyết định thắng lợi đó là hậu phương của chiến tranh.
V.I.Lênin từng nói: “Qn đội khơng thể tồn tại lâu dài được nếu khơng có
hậu phương vững chắc. Muốn cho tiền tuyến đứng vững thì quân đội nhận
được tiếp viện, đạn dược, lương thực một cách đều đặn” [61, tr.12]. “Những
quân đội lớn nhất, được trang bị tốt nhất, đều đã bị tan rã và biến thành tro
bụi, vì khơng có hậu phương vững chắc, khơng có sự đồng tình và ủng hộ của
hậu phương, của nhân dân lao động” [61, tr.13]. Vì vậy, muốn tiến hành chiến
tranh một cách thực sự phải có một hậu phương được tổ chức một cách vững
chắc. Đặc biệt là trong các cuộc chiến tranh nhân dân, một nước nhỏ phải
chiến đấu với kẻ thù hơn mình gấp nhiều lần, thì sự chi viện của hậu phương
càng quan trọng hơn. “Một quân đội giỏi nhất, những người trung thành nhất
với sự nghiệp cách mạng cũng đều lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không
được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ” [60, tr.479]. Lênin đã
nhấn mạnh vai trị của hậu phương trong chiến tranh:
Khơng có một qn đội nào trên thế giới khơng có hậu phương
vững chắc mà lại có thể chiến thắng được…Hậu phương có một tầm
quan trọng bậc nhất đối với tiền tuyến; chính hậu phương và chỉ có
hậu phương mới cung cấp cho tiền tuyến chẳng những các nhu cầu đủ
loại, mà cịn cả binh lính, cả tình cảm lẫn tư tưởng nữa [61, tr.18].
Những quan điểm nêu trên của chủ nghĩa Mác - Lênin về tầm quan
trọng của hậu phương trong chiến tranh, soi sáng con đường đi đến thắng lợi của
các cuộc chiến tranh cách mạng. Trong nội chiến ở Nga (1918 - 1920), quân đội
cách mạng non trẻ đã chiến thắng được bọn Bạch vệ và quân đội của 14 nước đế
quốc can thiệp vào nước Nga. Vì họ có một hậu phương chiến lược được tổ chức
chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich và Nhà nước Xô viết. Quân đội
cách mạng được nhân dân che chở, cung cấp lương thực, thực phẩm; con em
nhân dân tham gia tòng quân vào đội quân cách mạng.
17
Trong truyền thống dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam luôn
phải đối chọi với những kẻ thù xâm lược có sức mạnh hơn mình gấp nhiều
lần. Cha ơng ta ngay từ thuở ban đầu đã biết vận dụng đến sức mạnh toàn dân,
biết xây dựng hậu phương vững chắc để thực hiện các cuộc kháng chiến tồn
dân. Có khi lực lượng kháng chiến chưa có một vùng đất để làm căn cứ nhưng
đã có một hậu phương vững chắc đó là lịng dân. Trong bất luận cuộc chiến
tranh với kẻ thù nào trong lịch sử của dân tộc, nếu cả nước đồng lịng, qn
dân một dạ thì chúng ta nhất định giành được thắng lợi, dù có phải trải qua
nhiều khó khăn gian khổ.
Tuân thủ những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tầm quan
trọng của hậu phương trong chiến tranh cách mạng, vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm xây
dựng hậu phương của cha ông ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Sau
ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trước nguy cơ mất cịn của chế độ
do thù trong, giặc ngồi và nạn đói, nạn dốt gây nên, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định những nhiệm vụ chủ yếu, trước mắt của cách mạng là
củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản và cải
thiện đời sống nhân dân. Những chủ trương đó được thể hiện tập trung trong
bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” ngày 25-11-1945 của Trung ương Đảng.
Chỉ thị nêu rõ cách mạng nước ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ
kháng chiến và kiến quốc: “Kháng chiến phải đi đơi với kiến quốc. Kháng
chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành cơng. Kiến quốc có chắc thành
cơng, kháng chiến mới mau thắng lợi” [67, tr.99].
Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu tranh giữ
vững chính quyền, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tạo nên sức
mạnh vượt qua mọi thác ghềnh hiểm trở đánh bại âm mưu và hành động xâm
lược của bọn đế quốc và tay sai. Chỉ thị phản ánh rõ nét một quy luật lớn của
cách mạng Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám là “xây dựng chế độ mới
18
phải gắn liền với bảo vệ chế độ mới và ngược lại, bảo vệ chế độ mới phải dựa
trên cơ sở xây dựng chế độ mới” [4, tr.448]. Phương châm kết hợp và tiến
hành đồng thời nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc là quy luật đã đảm bảo
cho cả nước và Nam - Ngãi -Bình - Phú giành được thắng lợi trong thời kỳ
1945 - 1946 và cũng là phương châm hành động cơ bản, xuyên suốt cả thời
kỳ kháng chiến chống Pháp.
Cuối năm 1946, trước những động thái mới của quân xâm lược Pháp,
Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh
mọi mặt công cuộc chuẩn bị cuộc chiến tranh tổng lực với kẻ thù. Với tầm
nhìn chiến lược, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử cán bộ
lãnh đạo quay trở lại Việt Bắc gây dựng cơ sở, nhằm xây dựng nơi đứng chân,
căn cứ địa kháng chiến của cả nước. Đầu tháng 11 - 1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết Văn kiện Cơng việc khẩn cấp bây giờ, nêu những phương hướng và
nhiệm vụ chủ yếu của kháng chiến và vạch rõ ta sẽ kháng chiến lâu dài, vừa
kháng chiến vừa kiến quốc.
Sau khi những nhân nhượng có ngun tắc của Chính phủ và nhân dân
ta bị thực dân Pháp đáp lại bằng sự bội ước và gây hấn, trước tình thế hết sức
nghiêm trọng, ngày 18 và 19 - 12 - 1946, Ban Thường vụ trung ương Đảng
họp Hội nghị mở rộng (Hà Đông). Hội nghị quyết định phát động cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược trên phạm vi cả nước. Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” và Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến”. Chỉ thị Toàn dân
kháng chiến của Trung ương Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối kháng chiến của Đảng ta, của dân tộc ta
trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đường lối kháng
chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng đã dẫn dắt và tổ chức nhân dân ta tiến
hành cuộc kháng chiến lâu dài gian khổ và anh dũng. Những quan điểm lý
luận trong đường lối kháng chiến đã góp phần xây dựng kho tàng lý luận về
chiến tranh cách mạng, bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
19
Trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến, đường lối quân sự,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề xây dựng căn cứ
địa hậu phương của cuộc kháng chiến phù hợp với đặc điểm Việt Nam, là
nhân tố quan trọng bảo đảm thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Ngày 12 - 1 - 1947, Ban thường
vụ Trung ương Đảng họp Hội nghị quân sự trước mắt thực hiện đường lối
kháng chiến của Đảng. Trong Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh
đã báo cáo về đường lối kháng chiến. Để cụ thể hố đường lối kháng chiến
trong tình hình trước mắt và kịp thời rút ra kinh nghiệm những tháng đầu của
cuộc kháng chiến toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã triệu tập
Hội nghị cán bộ Trung ương từ ngày 3 đến ngày 6 - 4 - 1947. Hội nghị khẳng
định sự cần thiết xây dựng căn cứ địa - hậu phương kháng chiến chống Pháp
trên các mặt chính trị, kinh tế, qn sự và văn hố, nhằm làm cho “toàn dân
đoàn kết kháng chiến lâu dài”, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc và lập nên
nền kinh tế tự túc”, “vừa kháng chiến, dân tộc ta vừa dựng nên một nền văn
hoá mới” [36, tr.178-182]. Hội nghị rút ra kết luận:
Việt Nam khơng thể có căn cứ địa rộng rãi và vững chắc như
Trung Quốc. Những căn cứ địa ở Việt Nam đều có thể bị địch đánh
xuyên mũi dùi vào hoặc bao vây. Nhưng Việt Nam đã có một mặt
trận đồn kết tồn dân, nhân dân đã được hưởng chế độ dân chủ
rộng rãi và liều chết giữ vững chế độ ấy. Tình hình Pháp lại đặc biệt
nguy khốn và nước Pháp lại xa nước Việt Nam hàng vạn cây số, nên
Việt Nam vẫn có thể kháng chiến và nắm chắc thắng lợi bằng cách
mở rộng mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay ở cả sau
lưng địch, trong ruột địch, và tổ chức căn cứ địa không những ở
rừng núi mà cả ở đồng bằng [36, tr.180].
Hội nghị nhấn mạnh vấn đề củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất chống thực dân Pháp xâm lược, mở rộng hơn nữa Hội Liên hiệp quốc
20
dân Việt Nam, tăng cường và đẩy mạnh công tác vận động các tầng lớp nhân
dân tham gia kháng chiến. Thực hiện khẩu hiệu “Toàn dân đoàn kết kháng
chiến lâu dài” [36, tr.182]. Để có chỗ đứng chân chỉ đạo cuộc kháng chiến
cần “Tổ chức căn cứ địa ở miền rừng núi và đồng bằng” [36, tr.184]. Mỗi căn
cứ du kích của ta trong vùng địch kiểm sốt khác nào bị địch bao vây. Nhưng
tất cả các căn cứ du kích cộng với căn cứ rộng lớn của các vùng tự do, họp lại
thành một cái lưới bủa vây quân địch.
Những chủ trương của Hội nghị quân sự và Hội nghị cán bộ Trung
ương đã giúp các Đảng bộ và nhân dân Vùng tự do Nam Trung bộ bảo vệ và
xây dựng địa phương thành vùng tự do, căn cứ của cuộc kháng chiến ở Nam
Trung bộ.
Nắm vững đường lối kháng chiến của Đảng qua Chỉ thị "Kháng chiến
kiến quốc" và nhận thức rõ thuận lợi và khó khăn trong xây dựng hậu phương
kháng chiến. Căn cứ vào chủ trương xây dựng căn cứ địa, hậu phương của
Hội nghị cán bộ Trung ương, Hiệp định sơ bộ ngày 6 - 3 - 1946 được ký kết,
nhưng ở Nam Trung bộ, thực dân Pháp không thi hành Hiệp định, chúng tập
trung nhiều lực lượng hịng tấn cơng chiếm đóng các tỉnh chúng chưa đặt
chân lên được. Cuộc chiến đấu ở Nam Trung bộ khơng lúc nào ngừng. Cuộc
kháng chiến tồn quốc bùng nổ, từ đêm 19 - 12 - 1946, quân dân Nam Trung
bộ như được tiếp thêm sức mạnh, càng hăng hái chiến đấu hơn. Phối hợp với
cuộc chiến đấu trong cả nước, quân và dân Nam Trung bộ khẩn trương thực
hiện triệt để phá đường sá, cầu cống, nhà cửa, thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
Đồng thời kiên quyết chặn đánh, ngăn chặn từng bước các cuộc tiến công lớn
của địch, tổ chức đánh du kích ở những vùng địch mới tràn qua, đẩy mạnh
chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch, bám đánh địch trên các trục
đường giao thông…
Tại Quảng Nam, ngày 20 - 12 - 1946, nhân dân cùng với bộ đội và lực
lượng tự vệ bao vây, tiến cơng các vị trí của qn Pháp trong thành phố Đà
21
Nẵng. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, hàng ngàn tự vệ và nhân dân các
huyện Hoà Vang, Điện Bàn đã tiếp sức cho quân dân Đà Nẵng. Đầu tháng 1 1947, mặc dù địch huy động một lực lượng lớn, phối hợp với quân đổ bộ từ
biển lên ồ ạt tấn cơng phịng tuyến của ta ở ngoại vi thành phố Đà Nẵng,
nhưng cuối cùng đã bị ta bẻ gảy bước tiến của địch. Ngày 7 - 6 - 1947, trên
3.000 quân Pháp vừa đổ bộ đường biển vào phía Nam Cửa Đại (Quảng Nam),
vừa tổ chức vượt sơng mở cuộc tiến cơng mới sang phía Nam sơng Thu Bồn.
Bộ đội và du kích ta vừa bám đánh ở phía trước, vừa liên tục phục kích, tập
kích phía sau đội hình hành quân của địch. Bị tiêu hao và mệt mỏi, cuối tháng
6 - 1947, quân Pháp buộc phải dừng lại ở phía Nam sơng Bà Rén (Quảng
Nam), từ đây các huyện phía nam tỉnh Quảng Nam được giữ vững hồn tồn.
Ở mặt trận phía Nam, từ bàn đạp Hảo Sơn - Núi Hiểm, giặc Pháp đánh
lên Nhất Sơn, Đồng Bị. Chúng mưu toan chiếm tồn bộ vùng phía Nam sông
Đà Rằng, cắt đường liên lạc tiếp tế vào Khánh Hoà của ta. Thực hiện chủ
trương của Đảng và Bộ chỉ Khu VI, quân dân toàn tỉnh Phú Yên đã anh dũng
chiến đấu, chặn đứng cuộc tiến công của thực dân Pháp ở đèo Cả - ranh giới
giữa hai tỉnh Khánh Hồ và Phú n. Bị tấn cơng liên tục, cuối tháng 1 - 1947
địch buộc phải rút chạy về nam sông Bàn Thạch, chốt giữ núi Hiềm (Tuy Hoà).
Để giải toả cho cứ điểm núi Hiềm và mở rộng vùng chiếm đóng, tháng 6 - 1947
Pháp huy động 1 trung đồn từ Khánh Hồ mở cuộc tấn cơng vào Phú Yên
hòng cắt đứt đường liên lạc, tiếp tế của ta và mở rộng vùng chiếm đóng. Trước
tình hình đó, quân dân Phú Yên đã đánh trả quyết liệt buộc thực dân Pháp phải
rút về chốt giữ núi Hiềm như cũ. Bị chặn đứng ở Quảng Nam và Phú Yên,
tháng 7 - 1947 Pháp huy động hàng ngàn quân và trang thiết bị, từ An Khê (Gia
Lai) mở cuộc tấn cơng xuống Bình Khê, làm bàn đạp đánh chiếm Bình Định.
Quân dân Bình Định dưới sự chỉ đạo của Đảng đã chủ động bố trí lực lượng,
bao vây đánh địch giành thắng lợi. Chiến thắng của quân dân Bình Định đã
góp phần giữ vững khơng cho địch mở rộng vùng chiếm đóng.
22
Chiến tranh ngày càng lan rộng, các tỉnh cực Nam Trung bộ, Tây
Nguyên và Bắc Quảng Nam dần dần trở thành những vùng tạm bị địch
chiếm đóng. Khu vực Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên
trở thành nơi tản cư của nhân dân các địa phương bị tạm chiếm, đồng thời
là hành lang, làm bàn đạp vận chuyển lực lượng, trang bị vũ khí của Trung
ương và các tỉnh phía Bắc vào Nam Bộ. Đến đầu tháng 7 - 1947, sau khi
quân và dân Nam Trung bộ đánh bại hồn tồn các cuộc tấn cơng lớn của
Pháp nhằm chiếm đóng bốn tỉnh thì phạm vi lãnh thổ Vùng tự do Nam
Trung bộ tương đối ổn định. Vùng tự do Nam Trung bộ hình thành, được
xây dựng, củng cố, phát triển cho đến khi kháng chiến chống thực dân Pháp
thắng lợi. Vùng này được giữ vững và trở thành nơi đúng chân của các cơ
quan Quân, Dân, Chính, Đảng Nam Trung bộ, làm nhiệm vụ hậu phương
đối với các chiến trường Nam Trung bộ và nghĩa vụ quốc tế với nhân dân
Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia.
1.2.2. Chỉ đạo xây dựng và bảo vệ Vùng tự do ở Nam Trung bộ
(1947 - 1950)
Sau khi Vùng tự do Nam Trung bộ hình thành, dưới sự lãnh đạo của
Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, Đảng bộ, quân và dân nơi đây
đã tích cực khẩn trương tiến hành chuyển hướng mọi hoạt động sang thời
chiến, tiến hành công cuộc xây dựng và giữ vững vùng tự do ở Nam Trung bộ
trên mọi phương diện.
Tiến hành xây dựng và củng cố hệ thống chính trị đủ năng lực lãnh
đạo xây dựng và bảo vệ Vùng tự do
Sau khi kháng chiến tồn quốc nổ ra, các tổ chức Đảng, chính quyền,
đồn thể quần chúng ở bốn tỉnh đã có những thay đổi lớn và đứng trước nhiều
thử thách mới. Xác định việc củng cố và phát triển Đảng, hệ thống chính quyền
các cấp và các tổ chức quần chúng là nhiệm vụ quan trọng lúc bấy giờ ở bốn
tỉnh vùng tự do Nam Trung bộ, mà trước hết là về công tác xây dựng Đảng.
23
Theo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Khu uỷ V và Khu uỷ
VI, các Đảng bộ đã đẩy mạnh công tác phát triển Đảng, xây dựng tổ chức
Đảng ở các cấp, tăng cường vai trò lãnh đạo và đội ngũ cán bộ đảng viên
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
Thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng về việc phát
triển đảng viên “Lớp tháng Tám” ngày 28 - 7 - 1947, hàng nghìn cơng nhân, nơng
dân, trí thức cách mạng và chiến sĩ lực lượng vũ trang ưu tú gia nhập Đảng.
Tháng 4 - 1948, đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Trung ương Đảng
và Chính phủ triệu tập Hội nghị quân - dân - chính - đảng tồn Nam Trung
bộ. Sau khi phân tích tình hình mọi mặt của chiến trường, Hội nghị vạch ra
những chủ trương và biện Pháp cụ thể cho vùng tự do.
Hội nghị chỉ rõ trên cơ sở củng cố khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các
dân tộc ra sức củng cố và tăng cường bộ máy kháng chiến tỉnh, huyện, xã.
Hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, ra sức phát triển đảng viên mới,
chú trọng giáo dục ý thức giai cấp và đạo đức cách mạng cho đảng viên, phát
động phong trào tự phê bình và phê bình trong tồn Đảng bộ, xây dựng chi bộ
tự động cơng tác.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị, công tác giáo dục chính trị, cơng
tác xây dựng Đảng trong các lực lượng vũ trang được tiến hành mạnh mẽ.
Hầu hết các xã trong Vùng tự do đều có chi bộ và chi uỷ. Sinh hoạt đảng và
sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng đi vào nền nếp. Cấp uỷ từ huyện trở lên có
Ban tun huấn, Ban tổ chức, Văn phịng, đảng đồn chính quyền, Đảng đồn
Mặt trận Việt Minh và Liên Việt. Các Đảng bộ đều có phân cơng cấp uỷ viên
chuyên trách công tác tổ chức, tuyên huấn, dân vận và dân quân. Đảng viên
phần lớn là thanh niên bần nông, trung nông tiểu tư sản được rèn luyện thử
thách qua chiến đấu và công tác kháng chiến, dần dần trưởng thành, hăng hái
gương mẫu trong cơng tác, có uy tín với quần chúng. Chi bộ từng bước lãnh
đạo mọi mặt công tác ở địa phương, đơn vị, nhiều chi bộ được công nhận là
“chi bộ tự động công tác”.
24
Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ được coi trọng, nhất là vấn đề
nâng cao trình độ chính trị. Nhiều lớp bồi dưỡng, giáo dục chủ nghĩa cộng
sản, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, công tác quần chúng và đạo đức
cách mạng cần, kiệm, liêm, chính…được tổ chức. Đồng chí Phạm Văn Đồng
trực tiếp giảng bài và nói chuyện với cán bộ về tài liệu “sửa đổi lối làm việc
của XYZ” và “chỉnh phong”. Qua các đợt bồi dưỡng huấn luyện trình độ
chính trị, đạo đức cách mạng và phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ
cán bộ đảng viên được nâng lên rõ nét. Bệnh quan liêu mệnh lệnh, xa rời
quần chúng được khắc phục một bước.
Ngày 20 - 10 - 1948, theo quyết định của Trung ương Đảng và Chính
phủ, Liên khu V được thành lập trên cơ sở hợp nhất các Khu V, VI và Khu
XV. Tháng 3 - 1949, Đại hội đại biểu đảng bộ Liên Khu V lần thứ nhất họp,
đánh giá cao thắng lợi bước đầu về xây dựng vùng tự do. Đại hội chủ trương
đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế tự túc, phát triển chiến tranh du kích, đẩy
mạnh công tác phát triển đảng… Đại hội đã bầu Liên Khu uỷ gồm 13 đồng
chí, đồng chí Nguyễn Duy Trinh được bầu làm bí thư.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Liên Khu lần thứ nhất về công
tác phát triển đảng, đến năm 1949, số lượng đảng viên của bốn tỉnh Vùng tự do
Nam Trung bộ tăng nhanh chóng. Tháng 3 - 1949 tồn Vùng tự do có 10.692
đảng viên, đến tháng 9 - 1949 lên tới 31.336, trong đó 11.892 đảng viên chính
thức và 19.444 đảng viên dự bị [56]. Bước sang năm 1950, số lượng đảng viên
toàn vùng tự do tiếp tục phát triển mạnh. Đầu năm 1950, tổng số đảng viên tỉnh
Phú Yên là 14.814 đồng chí [5, tr.123]. Ở Bình Định, đến cuối 1950 tổng số
đảng viên của Đảng bộ lên tới 39.869 đồng chí [33, tr.131]. Ở Quảng Ngãi chỉ
tính đến tháng 5 - 1950 đã có 46.617 đảng viên [1, tr.87]. Ở vùng tự do Quảng
Nam, đến cuối 1950 tổng số đảng viên là 30.915 đồng chí [35, tr.185].
Việc phát triển và bổ sung đội ngũ đảng viên có tác dụng phát huy vai
trò lãnh đạo của Đảng đến tận cơ sở, thúc đẩy mọi mặt hoạt động ở các địa
phương trong toàn vùng tự do.
25
Tuy nhiên, công tác phát triển đảng của bốn tỉnh Vùng tự do ở Nam
Trung bộ đã bộc lộ một số hạn chế. Do chưa quán triệt đầy đủ chủ trương của
Trung ương Đảng, nhiều cơ sở Đảng phát triển theo chỉ tiêu, chưa chú trọng
công tác giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra, nặng về số lượng mà không coi trọng
đúng mức chất lượng. Điều đó đã ảnh hưởng khơng tốt đến uy tín và năng lực
chỉ đạo của cơ sở Đảng ở địa phương.
Để khắc phục hạn chế trên, tháng 4 - 1950, Ban Thường vụ Liên Khu V
đã họp đánh giá về những lệch lạc, khuyết điểm trong công tác phát triển
Đảng và nêu ra chủ trương: “Chấm dứt và đề phòng nạn phát triển đảng bừa
bãi” [35, tr.186], yêu cầu các Đảng bộ coi trọng đúng mức chất lượng đảng viên.
Thực hiện chủ trương trên, các Đảng bộ đã mở hội nghị bàn về công tác phát
triển đảng. Thơng qua đó, nhiều Đảng bộ đã có chủ trương, biện pháp đúng đắn,
phát triển đảng về số lượng, đồng thời đảm bảo cả chất lượng đảng viên.
Công tác củng cố tổ chức giữ vững sự lãnh đạo của Đảng ở các tỉnh
Vùng tự do cũng được Liên Khu uỷ và Đảng bộ các tỉnh chú trọng. Hệ thống
tổ chức các phòng, ban từ tỉnh đến huyện đã được xây dựng và kiện tồn bảo
đảm cho cơng tác lãnh đạo toàn diện của Đảng ở địa phương. Cho đến cuối
năm 1948, cơ cấu hệ thống tổ chức Đảng ở Vùng tự do từ tỉnh đến thôn, bản
về cơ bản được kiện toàn.
Nhiều Đảng bộ đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu, mỗi xã ít nhất phải xây dựng
được một chi bộ, mỗi thơn có một tổ Đảng, củng cố Chi bộ xã thực sự vững
mạnh, trong sạch đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến, kiến quốc. Ngay từ
tháng 3 - 1949 Liên Khu uỷ và Đảng bộ các tỉnh vùng tự do đã đề ra kế hoạch
cụ thể, đồng thời thành lập các đoàn cán bộ xuống giúp các địa phương xây
dựng chi bộ tự động công tác. Ở Quảng Nam tính đến cuối năm 1949 trong
tổng số 188 chi bộ, đã xây dựng được 55 “chi bộ tự động”, 30 “chi bộ dự bị
tự động” chỉ còn 40 chi bộ thường và 63 chi bộ kém [35, tr.187]. Ở Bình
Định, đến cuối năm 1949, Đảng bộ Bình Định có 115 chi bộ trong đó 43 chi