1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ nói chung và cán bộ cấp cơ sở nói riêng có vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh hết sức quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa
chuyên” bảo đảm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Để có được đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã quan tâm và trực tiếp tiến hành công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
Trong tiến trình cách mạng, học tập và vận dụng quan điểm Hồ Chí
Minh trong cơng tác cán bộ, Đảng cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ. Công cuộc đổi mới của đất nước giành
được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử, thành quả đó đã tạo cơ sở
đưa đất nước bước sang giai đoạn mới - giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước đòi hỏi Đảng cộng
sản Việt Nam phải có chiến lược mới trong công tác cán bộ, công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII và
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khố IX là những định hướng chiến lược
trong cơng tác cán bộ trong tình hình mới. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Cán bộ cơ sở là những người lĩnh hội và cụ thể hoá chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, của cấp trên, tuyên truyền, giải
thích cho nhân dân, là lực lượng tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đồng
thời tập hợp và phản ánh tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân với
Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, là hạt nhân đoàn kết toàn dân,
2
huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội,… Vì thế, đội ngũ cán
bộ cơ sở phải có đủ năng lực, trí tuệ, phẩm chất đạo đức và lịng nhiệt tình
cách mạng.
Tuy nhiên, do những ngun nhân khách quan, cũng như chủ quan trong
những năm qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở cịn có
những hạn chế, thiếu sót, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá
IX đánh giá: “Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng” [27, tr.166].
Nhằm đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
ở cơ sở Đảng chủ trương: “Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hố, hiện đại hố
nơng nghiệp, nơng thơn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân” [23, tr.29]. Để thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng,
địi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ ở cơ sở đủ năng lực, phẩm chất cần thiết,
đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Do đó, cơng
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở là cần thiết và cấp bách.
Đồng Tháp trong những năm qua đã quán triệt sâu sắc quan điểm của
Đảng và đã tập trung nguồn lực đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng ngũ
cán bộ cơ sở. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ cơ sở và công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Đồng Tháp là một tỉnh thuần nông, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương 7 khố X “Về vấn đề nơng nghiệp, nông thôn và nâng dân” ra đời
đã tạo động lực mới cho sự phát triển kinh tế-xã hội. Nhằm thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đất nước và Nghị quyết Trung
ương 7 khoá X, Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp đã tập trung nguồn lực cho công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng được yêu cầu. Đồng thời,
việc chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở là một yêu cầu cấp bách. Do đó, cơng tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở có vị trí, tầm
quan trọng đặc biệt trong q trình lãnh đạo.
3
Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở (2000-2009)” làm luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp
đổi mới, nên trong những năm gần đây đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
của các cá nhân và tập thể có liên quan đến vấn đề này.
Các cơng trình khoa học đã được công bố: Phương thức đào tạo cán bộ
ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trong thời kỳ mới, Đề tài cấp bộ năm
2000-2001, Vụ các trường chính trị-Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
năm 2001; Hệ thống chính trị cơ sở nơng thơn nước ta hiện nay, GS.TS.
Hồng Chí Bảo (chủ biên) Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; Hệ thống
chính trị cơ sở thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004; Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đấy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước,
GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS. Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) (2003),
Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
Trong hai cơng trình: Hệ thống chính trị cơ sở thực trạng và một số giải
pháp đổi mới; Hệ thống chính trị cơ sở nơng thôn nước ta hiện nay, đã khái
quát về thực trạng hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó
chỉ ra những hạn chế, thiếu sót, đồng thời đề ra những giải pháp nhằm nâng
cao vai trị của hệ thống chính trị cơ sở. Trong đó, khẳng định đào tạo, bồi
dưỡng nhằm nâng cao năng lực và phẩm chất cán bộ là khâu then chốt trong
việc nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.
Liên quan đến đề tài cịn có nhiều bài được đăng trên các tạp chí: Tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và một số vấn đề đặt ra trong giai
đoạn hiện nay, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Thuý (2004), Tạp chí Nhà nước
4
và pháp luật, số 12/2004; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, Trần Hữu Thành (2005), Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5/2005; Tiếp tục đổi
mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Lê Bình
(1995), Tạp chí Xây dựng Đảng 11/1995. Từng góc độ nghiên cứu, các tác giả
đã đề cập đến những vấn đề lý luận và giải pháp để nâng cao chất lượng công
tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Đã có các luận văn nghiên cứu về vấn đề này: Đảng bộ tỉnh Khánh Hoà
lãnh đạo sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ thống chính trị cơ sở thời
kỳ 1998-2001, luận văn thạc sĩ 2002 của tác giả Trần Thị Xuân An. Đảng bộ
tỉnh Quảng Nam lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ thống
chính trị cơ sở các huyện miền núi từ 1997-2005, luận văn thạc sĩ 2007 của
tác giả Lê Minh Đức. Ở nhiều khía cạnh khác nhau những cơng trình trên đề
cập đến quan điểm của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở, nêu lên vị trí, vai trị của cán bộ cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các chủ trương lãnh đạo công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
bộ các tỉnh.
Tỉnh Đồng Tháp, trong những năm qua chưa có đề tài nghiên cứu chuyên
sâu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Các công trình nghiên cứu trên và tài liệu có liên quan đến đề tài luận
văn tác giả sẽ tiếp thu, kế thừa trong q trình nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ q trình Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp trong lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở. Chỉ ra thành tựu, hạn chế, trên cơ sở đó
rút ra những kinh nghiệm chủ yếu.
5
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ những nội dung chủ yếu sau:
Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh
Đồng Tháp trước năm 2000; Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp về
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; Quá trình tổ chức chỉ
đạo thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm
2000 đến năm 2009; Những thành tựu và hạn chế trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở và rút ra những kinh nghiệm chủ yếu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng bộ tỉnh
Đồng Tháp trong quá trình lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở .
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn đi sâu nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng
Tháp với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở từ năm 2000
đến năm 2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị, của Trung ương, các văn bản chỉ đạo
của Nhà nước về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp lơgíc để
phân tích, luận giải những vấn đề nghiên cứu dưới góc độ lịch sử Đảng, nhằm
làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp trong công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cơ sở.
6
Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các phương pháp khác: phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát thực tế trên địa
bàn,…để làm rõ những nội dung có liên quan trong q trình nghiên cứu.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp đối với những
chủ trương, quan điểm của Trung ương vào công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Góp phần tổng kết và rút ra kinh nghiệm trong lãnh đạo công tác đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp từ năm
2000 đến năm 2009. Trên cơ sở đó cung cấp những thơng tin, tư liệu giúp
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp đưa ra những chủ trương và biện pháp hiệu quả hơn
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở (2000-2009)
Chương 2: Nhận xét và kinh nghiệm lãnh đạo công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Đồng Tháp
7
Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG THÁP LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ (2000-2009)
1.1. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ CỦA TỈNH TRƯỚC NĂM 2000
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Tháp
Qua hàng trăm năm phát triển, cộng đồng cư dân từ nhiều nơi đến đây
khai hoá đất hoang, sinh cơ lập nghiệp. Không chỉ chinh phục thiên nhiên, các
thế hệ người dân nơi đây còn kiên cường đấu tranh chống lại cường hào, ác
bá. Đặc biệt với quyết tâm không chịu làm nô lệ, nhất là khi có Đảng lãnh
đạo, người dân Đồng Tháp đã đồng lòng vùng lên đấu tranh chống thực dân
Pháp rồi đế quốc Mỹ xâm lược. Đất nước thống nhất, cộng đồng cư dân Đồng
Tháp tiếp tục đào kênh dẫn nước, đắp đê ngăn lũ, tạo nên những cánh đồng
lúa, những vườn cây trái xanh tươi…
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đồng Tháp là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sơng Cửu Long, có diện tích tự
nhiên 3.283km2, nằm trong giới hạn 10 o07’14”-10o58’18” vĩ độ bắc và
105o11’38”-105o56’42” kinh độ đơng; phía Bắc giáp tỉnh Preyveng
(Campuchia) trên chiều dài biên giới là 47,8km với 4 cửa khẩu: Thơng Bình,
Dinh Bà, Mỹ Cân, Thường Phước; phía Đơng giáp tỉnh Long An và Tiền
Giang; phía Tây giáp tỉnh An Giang; phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Thành
phố Cần Thơ. Trung tâm tỉnh lỵ là Thành phố Cao Lãnh, cách Thành phố Hồ
Chí Minh 162km. Theo quy hoạch đến năm 2010, Đồng Tháp có 02 thành
phố là Cao Lãnh và Sa Đéc và 02 Thị xã là Hồng Ngự và Tháp Mười.
Đồng Tháp cách không xa các trung tâm kinh tế lớn ở miền Đơng Nam
Bộ, có các điều kiện phát triển thành một trong những cửa ngõ của miền Tây
8
Nam Bộ. Đặc biệt, khi các tuyến quốc lộ N1, N2, đường Hồ Chí Minh được
xây dựng và hồn thành, hàng hố từ các tỉnh miền Tây có thể lưu thông qua
Đồng Tháp để đến vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Mặt khác, Đồng Tháp
cịn có 47,8km đường biên và 4 cửa khẩu thông thương với Campuchia. Từ
lâu, Đồng Tháp đã trở thành điểm trung chuyển hàng hoá, từ Campuchia về
các tỉnh Đông Nam Bộ và ngược lại. Do đó, Đồng Tháp cịn có tiềm năng rất
lớn về phát triển kinh tế cửa khẩu mở rộng quan hệ thương mại với
Campuchia và xa hơn là các nước trong khu vực.
Theo số liệu điều tra của tỉnh, dân số Đồng Tháp tính đến ngày 01.04.2009
là 1.665.420 người, mật độ dân số trung bình khoảng 500 người/km2. Tỷ lệ tăng
dân số tự nhiên là 1,1%/năm. Đồng Tháp có 12 đơn vị hành chính cấp huyện với
118 xã, 17 phường, 8 thị trấn [phụ lục 2]. Dân số Đồng Tháp tương đối trẻ, số
người trong độ tuổi lao động khoảng một triệu người, chiếm khoảng 60% dân số.
Trong đó, lực lượng lao động trong nơng nghiệp khoảng 780 nghìn người.
Trên địa bàn tỉnh có: 01 trường Cao đẳng cộng đồng (nay là Đại học
cộng đồng), 01 trường Trung học y tế, 01 trường chính trị và 01 trường cao
đẳng sư phạm (nay là Đại học Đồng Tháp). Ngồi ra cịn có các trung tâm bồi
dưỡng chính trị huyện, hàng trăm trung tâm học tập cộng đồng,… đảm bảo
cho nhu cầu học tập của nhân dân tỉnh nhà.
Điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, sông ngồi tương đối thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Dân số trẻ, nguồn lao động dồi dào, đây
là điều kiện thuận lợi để tỉnh Đồng Tháp khai thác tốt các yếu tố thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
1.1.1.2. Kinh tế - xã hội
Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ II (12/1980) đã xác định: nhiệm
vụ hàng đầu là sản xuất lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu.
9
Tiến công vào Đồng Tháp Mười là điều kiện để giải quyết vấn đề này. Công
cuộc cải tạo vùng đất phèn hết sức gian nan, từng nản lòng nhiều chuyên gia
nước ngồi. Với quyết tâm của tồn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đồng
Tháp thành quả đạt được thật xứng đáng. Diện tích và sản lượng lúa khơng
ngừng gia tăng từ 36.000 ha (1995) lên 40.000 ha (2006) với sản lượng đạt
2,4 triệu tấn, vừa đảm bảo lương thực tại chỗ và vươn lên xuất khẩu gạo thứ
hai cả nước (1,5 triệu tấn). Trong giai đoạn 2001-2007 giá trị sản xuất nông
nghiệp của tỉnh tăng từ 5.057 tỷ đồng lên 9.458 tỷ đồng [31, tr.28].
Cùng với nông nghiệp, Đồng Tháp cịn đột phá vào cơng nghiệp với quy
hoạch 3 khu cơng nghiệp, 30 cụm cơng nghiệp (tính đến năm 2006), thu hút
70 dự án (giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn phát triển đạt 11 nghìn tỷ; giai
đoạn 2006-2010 đạt 34 nghìn tỷ đồng), tạo giá trị sản xuất 3.000 tỷ đồng, giải
quyết hàng chục nghìn lao động (năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của
tỉnh Đồng Tháp đạt 3.235 tỷ đồng, gấp 3 lần năm 2000) [31, tr.15].
Bước sang những năm đầu thế kỷ XXI, Đồng Tháp gặp khơng ít khó
khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Lũ lụt lớn xảy ra trong 3 năm liên tiếp
(2000-2002), nắng hạn kéo dài, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém, một
số dịch bệnh nguy hiểm xuất hiện; giá trị các loại vật tư, hàng hoá tăng cao…
Song, với sự nỗ lực, quyết tâm cao của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
trong tỉnh, hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VII đề ra đều hoàn thành, đạt và vượt kế hoạch. Kinh tế Đồng Tháp đã vượt
qua thời kỳ suy giảm về tốc độ tăng trưởng và liên tục phát triển với nhịp độ
khá cao, bình quân đạt 9,93% năm trong giai đoạn 2001-2005; hai năm 2006,
2007 đạt trên 14,27% năm - GDP năm 2007 đạt khoảng 9.700 tỷ đồng gấp 2,1
lần năm 2000; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống cịn 9%; chỗ ở cho nơng dân vùng
ngập sâu cơ bản được giải quyết; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân
được cải thiện…[30, tr. 16].
10
Nhờ đó, Đồng Tháp đã tạo được bước phát triển mới với nhiều kết quả
khả quan: kinh tế duy trì nhịp độ tăng trưởng cao; cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi, thuỷ
sản, du lịch được tăng cường. Thế mạnh riêng có từng bước được phát huy.
Cơng nghiệp-xây dựng duy trì mức tăng trưởng khá; ba khu cơng nghiệp hoạt
động hiệu quả. Thương mại-dịch vụ đã xác định được tiềm năng, phát huy
được lợi thế kinh tế cửa khẩu. Các thành phần kinh tế không ngừng phát triển.
Văn hố -xã hội có nhiều khởi sắc. Tỷ lệ hộ nghèo giảm rõ rệt. Số hộ dân
được dùng điện và nước sạch tăng cao. An ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã
hội được giữ vững, thế trận và tiềm lực quốc phòng được tăng cường, bảo
đảm chủ quyền quốc gia, xây dựng đường biên giới hồ bình, hữu nghị, ổn
định và phát triển.
Mục tiêu đề ra cho tăng trưởng kinh tế đến năm 2010 là 14,5% năm,
GDP đạt 14.600 tỷ đồng gấp 3,16 lần năm 2000 và thu nhập bình quân đạt
8,483 triệu đồng/người/năm (768 USD) [31, tr.18]… Để vươn lên trở thành
tỉnh khá. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên Đảng bộ và chính quyền Đồng
Tháp đã xác định 6 nhiệm vụ trọng điểm phát triển kinh tế xã hội đến năm
2010: Một là, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn. Hai là, phát triển kinh tế-xã hội
vùng Cao Lãnh đến năm 2010. Ba là, phát triển kinh tế-xã hội vùng Sa đéc
đến năm 2010. Bốn là, phát triển kinh tế-xã hội vùng Hồng Ngự đến năm
2010. Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sáu là, đẩy mạnh công
tác kết nạp đảng viên.
Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đến năm
2010 và 06 nhiệm vụ trọng điểm đã được Đảng bộ tỉnh đề ra, một trong
những vấn đề cơ bản của tỉnh là chuẩn bị và xây dựng nguồn nhân lực đảm
bảo đáp ứng yêu cầu phát triển. Tăng cường sự lãnh đạo, đầu tư mọi mặt cho
11
công tác phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu cấp
thiết, là điều kiện tiên quyết quyết định thành cơng của q trình phát triển.
Đồng Tháp là một tỉnh thuần nông, đại bộ phận lao động làm trong nông
nghiệp, đây là thế mạnh những cũng là thách thức trong quá trình phát triển.
Để khai thác tốt nhất nguồn lao động dồi dào ở nông thôn và phát triển nền
nông nghiệp Đồng Tháp theo hướng sản xuất hàng hố, thì vấn đề cơ bản là
phải nâng cao trình độ cho người nơng dân và đưa tiến bộ khoa học và đồng
ruộng, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,…
Đội ngũ cán bộ cơ sở là người đóng vai trị quyết định trong việc thực
hiện thắng lợi mục tiêu trên, nhưng trên thực tế đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh
Đồng Tháp vừa thiếu lại vừa yếu khơng đáp ứng được u cầu. Trước thực tế
đó, Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp xác định nhiệm vụ trọng tâm là phải xây dựng và
nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở đáp ứng được yêu cầu. Đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở là yêu cầu cấp bách cho việc
thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 và chuẩn bị tiền đề
cho giai đoạn tiếp theo.
Với đặc thù về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của vùng đất mới được
khai phá, Đồng Tháp đã ghi vào lịch sử bằng những thành công trong công
cuộc khai phá đất đai, đấu tranh với kẻ thù xâm lược và sự nghiệp đổi mới.
Với những thành quả đạt được, Đồng Tháp đã tạo dựng được vóc dáng mới.
Với những nỗ lực không ngừng, các thế hệ cư dân Đồng Tháp hôm nay đang
tiếp tục dựng xây vùng đất này.
1.1.2. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở của tỉnh Đồng Tháp trước năm 2000
1.1.2.1. Vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ cơ sở
Trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992),
Điều 118 quy định về hệ thống cấu trúc hành chính, lãnh thổ của nước ta chia
12
làm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (bao gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương),
huyện (bao gồm quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh) và xã (gồm
xã, phường, thị trấn), trong đó cấp xã được xác nhận là đơn vị hành chính
thấp nhất (cịn gọi là cấp cơ sở), là nền tảng của tổ chức bộ máy hành chính
Nhà nước. Ở nước ta hiện nay khi đề cập đến cấp cơ sở thường bao gồm cả
một hệ thống các cơ quan - gọi là hệ thống chính trị cấp cơ sở.
Ở nước ta khái niệm hệ thống chính trị được Đảng ta sử dụng từ Hội
nghị Trung ương 6 khoá VI (3.1989) thay cho khái niệm hệ thống chun
chính vơ sản. Hệ thống chính trị “là nói tới hệ thống tổ chức bộ máy, nội dung
và phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và
các đồn thể chính trị-xã hội của quần chúng ở cơ sở bao gồm xã, phường, thị
trấn, gọi chung là cấp xã [7, tr.10].
Như vậy, hệ thống chính trị cơ sở là tồn bộ các thiết chế chính trị
như tổ chức Đảng, chính quyền, các đồn thể nhân dân được tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc nhất định và gắn bó hữu cơ với nhau
nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở [35, tr.10].
Cơ sở là nền tảng của chế độ, cơ sở suy yếu là khởi đầu của những suy
yếu của cả hệ thống, vì vậy, để chăm lo cuộc sống và sự phát triển của nhân
dân thì phải chăm lo sự bền vững của cơ sở, từ cơ sở làm cho hệ thống chính
trị cơ sở phải thật sự là nơi thể hiện và phát huy bản chất của chế độ, thật sự là
một nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Là cấp hành chính gần dân “là chính quyền trong lịng dân” nên hệ thống
chính trị cơ sở có vai trị, vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là cấp chấp hành, là
cầu nối trực tiếp giữa tồn bộ hệ thống chính trị với nhân dân; chi phối mạnh
mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội…của cộng đồng dân cư.
Hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay gồm: tổ chức Đảng cơ sở, chính quyền
13
(Hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân), các đoàn thể chính trị-xã hội (Mặt trận
tổ quốc, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Hội nơng dân,
Hội cựu chiến binh…) cùng với đó là đội ngũ cán bộ tương ứng.
Cán bộ trước hết là chỉ chung tất cả những người thốt ly gia đình hoạt
động cách mạng tham gia kháng chiến, xây dựng đất nước, làm việc trong bộ
máy chính quyền, Đảng, đồn thể, qn đội, được hưởng lương, phụ cấp từ
ngân sách nhà nước.
Hiện nay cán bộ ở nước ta được dùng với nhiều nghĩa khác nhau. Trong
tổ chức Đảng, đoàn thể được dùng với hai nghĩa. Một là, chỉ những người
được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy, từ cơ sở đến Trung ương. Hai là,
những người làm công tác chuyên trách, hưởng lương trong các tổ chức Đảng,
đoàn thể. Trong hệ thống bộ máy nhà nước khái niệm cán bộ về cơ bản trùng
với khái niệm công chức.
Cán bộ theo từ điển Tiếng Việt của nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1998 thì
cán bộ có hai nghĩa: Cán bộ là người làm cơng tác có nghiệp vụ, chun mơn
trong cơ quan nhà nước; Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan,
một tổ chức, phân biệt với người thường không có chức vụ. Theo định nghĩa
này thì cán bộ là người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn khơng chỉ
trong cơ quan nhà nước mà trong cả hệ thống chính trị. Nói đến cán bộ là phải
đề cập đến quan hệ của cán bộ với đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng,
với tổ chức và với phong trào cách mạng của quần chúng.
Điều 4 của Luật cán bộ, công chức (2008):
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, ở tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (cấp huyện), trong biên chế và được hưởng lương từ
ngân sách nhà nước [49, tr.2].
14
Cấp cơ sở: là cấp hành động, tổ chức hành động, đưa đường lối,
nghị quyết chính sách vào cuộc sống. Là cấp hành động, tổ chức thực
hiện nên cán bộ cơ sở phải gần dân, hiểu dân, sát dân và năng lực của
cán bộ cơ sở là năng lực thực hành, tổ chức công việc, thường xuyên
giáo dục, tuyên truyền vận động quần chúng [7, tr.173].
Thực hiện được yêu cầu trên, đội ngũ cán bộ cơ sở mới thật sự là những
người đóng vai trị “cầu nối” giữa dân với Đảng, Nhà nước, đưa chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước đến với mọi người dân. Đồng thời
nhờ tiếp xúc trực tiếp với nhân dân nên cán bộ cơ sở có điều kiện kiểm
nghiệm tính khả thi, hiệu quả của chủ trương chính sách từ đó phản ánh kịp
thời với Đảng, Chính phủ.
Theo Hồ Chí minh cán bộ là: “Người đem đường lối chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho quần chúng được rõ và thi hành. Đồng
thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ
để đặt chính sách cho đúng” [51, tr.269].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh cán bộ là lực lượng nồng cốt của Đảng và
của nhà nước làm nhiệm vụ triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện đường
lối chính sách của Đảng, nhà nước trong hoạt động thực tiễn; là cầu nối giữa
Đảng, nhà nước với quần chúng nhân dân.
Trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, cơ cấu đội ngũ cán bộ nói chung (cán
bộ chủ chốt và cán bộ chuyên môn) cần được vận động và phát triển cùng với
sự phát triển của nền kinh tế-xã hội với nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Kinh tế-xã hội trên từng địa bàn có phát triển được hay không phụ thuộc đến
năng lực của cán bộ cơ sở. Đó là địi hỏi tất yếu, bởi “muốn thực hiện được tư
tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [50, tr.181].
Kế thừa luận điểm trên, Lênin lãnh tụ cách mạng thiên tài cũng cho rằng:
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cần phải đào tạo nên những con
15
người “sử dụng lực lượng thực tiễn”, đó là “những người có uy tín nhất, có
ảnh hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất được bầu ra giữ những trách nhiệm
trọng yếu nhất”[48, tr.30]. Vì vậy, cần xây dựng một đội ngũ cán bộ-những
nhà cách mạng chuyên nghiệp cho phong trào vô sản, để lãnh đạo giai cấp vơ
sản hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đó là cơng tác mà:
Chưa giành được chính quyền, vấn đề cán bộ cần hết sức quan tâm,
khi đã có chính quyền vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách
hơn. Đòi hỏi Đảng phải đào tạo, bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ đủ
cả về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ cách
mạng. Nếu khơng sẽ khơng thể nào hồn thành nhiệm vụ [46, tr.477].
Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm mác xít vè cơng tác cán bộ vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ là gốc
của mọi công việc”; “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [51, tr.273]. Người luôn quan tâm đến công tác đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở, những người trực tiếp với phong trào. Người
khẳng định: Có cán bộ tốt, sẽ đề ra được đường lối đúng và lãnh đạo thực
hiện đường lối đó hiệu quả, mọi cơng việc của Đảng được hồn thành. Người
chỉ rõ: “đào tạo thật nhiều cán bộ … chỉ có như thế chúng ta mới xây dựng
thắng lợi chủ nghĩa xã hội” [53, tr.311], coi công tác “huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng” [51, tr.269].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn “coi công tác
cán bộ là quan trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt”[25, tr.22]. Đó
là vấn đề quan tâm, là một trong những việc làm thường xuyên của Đảng,
luôn được đề cập trong các văn kiện, nghị quyết, nhằm đào tạo những cán bộ
có tài, có đức phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Trong thời kỳ đổi mới, công tác cán bộ cần được tăng cường, trong đó
đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng được một đội ngũ cán bộ đủ năng lực là một
16
trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. Bởi “nền tảng của mọi công tác là
cấp xã” [52, tr.458], “cấp xã gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi cơng việc đều xong xuôi” [51, tr.371].
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cần được hiểu một cách đúng đắn:
Đào tạo là một quá trình truyền thụ kiến thức mới để người cán bộ thơng
qua q trình đó trở thành người có trình độ cao hơn trước, có năng lực theo
những tiêu chuẩn nhất định. Năng lực ở đây bao gồm trình độ về kiến thức
chuyên môn, nhận thức sự việc, điều hành, tổ chức thực hiện, về sơ kết, tổng
kết rút kinh nghiệm, đề xuất giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu.
Thơng thường đào tạo là một q trình trang bị kiến thức cơ bản mới
hoặc ở trình độ cao hơn, thời gian đào tạo thường dài hơn thời gian bồi dưỡng
và ít nhất cũng tương đương với một năm học.
Bồi dưỡng là quá trình hoạt động nhằm bổ sung, cập nhật tăng thêm
những kiến thức, kỹ năng chuyên môn mới cho cán bộ khi những kỹ năng
kiến thức được đào tạo trước đây khơng đủ thực hiện có hiệu quả hoạt động
lãnh đạo, quản lý, hoạt động chuyên mơn nghiệp vụ trong cơng tác.
Bồi dưỡng với mục đích chủ yếu là bổ sung kiến thức mới hoặc chuyên
sâu, cập nhật những vấn đề liên quan đến công việc đang đảm nhiệm, thời
gian bồi dưỡng thường là một, hai tuần đến một, hai tháng, cho nên đây là
công việc thường xuyên.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở là làm cho cán bộ cơ sở có được năng
lực theo những tiêu chuẩn chức danh quy định. Năng lực ở đây phải được
hiểu một cách toàn diện cả về phẩm chất (chính trị, đạo đức, lối sống…); trình
độ (học vấn, chuyên môn, phương pháp công tác…) lẫn năng lực tổ chức thực
hiện (lãnh đạo, quản lý, điều hành, vận động quần chúng…).
Đào tạo, bồi dưỡng là một nội dung không thể thiếu trong quy trình quy
hoạch. Xây dựng phương án cán bộ dự nguồn mới chỉ là bước đầu, sau đó là
17
cả một q trình cơng phu, lâu dài, gian khổ, địi hỏi phải đầu tư cơng sức rất
lớn cho cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đố với cán bộ đã
được quy hoạch.
Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu và toàn diện
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Biết bao vấn đề khó khăn đặt ra từ
cơng cuộc đổi mới, điều đó địi hỏi phải chú trọng cơng tác đào tạo, bồi dưỡng
nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cơ sở có chất lượng, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng. Đại hội VIII của Đảng nhấn
mạnh: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tồn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất
đạo đức, trình độ chun mơn và năng lực thực tiễn. Đồng thời còn nhấn
mạnh: việc học tập của cán bộ phải được quy định thành chế độ và phải thực
hiện nghiêm ngặt.
Đào tạo là khâu then chốt trong công tác cán bộ, quy hoạch cán bộ là bộ
phận trọng yếu của chiến lược cán bộ. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
và việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, cho cách mạng.
Đẩy mạnh công tác cán bộ, kịp thời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, Đại
hội VI, Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định cùng với quá
trình đổi mới là quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm yêu cầu phát
triển. Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thư 3 (khóa VIII) đã bàn về cán
triển công tác cán bộ, đề ra nghị quyết chuyên đề về công tác này. Nghị quyết
chỉ rõ “Vấn đề cán bộ là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định toàn bộ sự
nghiệp cách mạng” bởi “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”[25, tr.66].
Đây là lần đầu tiên Ban chấp hành trung ương bàn sâu và toàn diện về vấn đề
cán bộ, Nghị quyết trung ương 3 (khoá VIII) ra đời, có ý nghĩa rất quan trọng,
khơng chỉ chỉ đạo cho công tác cán bộ trong những năm trước mắt mà cịn
cho cả thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
18
Công tác cán bộ tiếp tục được Đại hội IX của Đảng (4/2001) nhấn mạnh
và bổ sung cụ thể hơn:
Sau khi có đường lối đúng, phẩm chất và năng lực của cán bộ là
vấn đề có ý nghĩa quyết định, không những quyết định việc tổ chức
thực hiện thành công mà cịn quyết định cả mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng với nhân dân [27, tr.141].
Do đó, trong cơng tác cán bộ đòi hỏi phải: “xây dựng đội ngũ cán bộ
cơng chức trong sạch, có năng lực” và “hồn thiện chế độ công vụ, quy chế
cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo đức”[27, tr.148]. Do đó, nâng cao năng
lực toàn diện cũng như năng lực quản lý nhà nước, nhuần nhuyễn lý luận với
thực tiễn, sáng tạo trong cơng việc, biết rõ phương hướng hành động, có bản
lĩnh, dám chịu trách nhiệm, năng động, nhạy bén, thật sự là những người “óc
nghĩ, mắt nhìn, miệng nói, tai nghe, chân đi, tay làm”[51, tr.699]. Đó là điều
kiện để đội ngũ cán bộ cơ sở có đủ khả năng hồn thành tốt nhiệm vụ trong
giai đoạn hiện nay. Đồng thời, cũng là yếu tố để phát huy vai trò quan trọng,
quyết định của hệ thống chính trị trong việc hoạch định đường lối, phương
pháp cách mạng đúng đắn, tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định vấn đề đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị các cấp là nhiệm vụ cấp bách và thường xuyên, nhất là đối với hệ
thống chính trị cấp cơ sở, cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị nhưng có vai trị
rất quan trọng, bởi đó là cấp chấp hành, cấp hành động; là cấp trực tiếp với dân,
có trách nhiệm tuyên truyền, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Vì lẽ đó, việc kiện tồn hệ thống
chính trị cơ sở có quan hệ đến hệ thống chính trị các cấp, đồng thời phải dùng
sức mạnh của cả hệ thống chính trị để xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở
vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
19
Thực tiễn cho thấy, hệ thống chính trị cơ sở trong quá trình phát triển đất
nước quả đã khẳng định được vị trí và tầm quan trọng cũng như khẳng định
hiệu quả trong hoạt động, song bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được cũng
cịn những hạn chế, nhiều mặt bất cập. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
trung ương lần thư 5 khoá IX của Đảng đánh giá:
Trong thời gian qua, hệ thống chính trị ở phần lớn cơ sở đã tích
cực thực hiện nhiệm vụ, thực hiện quy chế dân chủ, cùng với nhân dân
tạo nên những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội làm thay
đổi bộ mặt nông thôn và thành thị.
Tuy nhiên, hệ thống chính trị hiện nay cịn nhiều mặt yếu kém, bất
cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động
quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ,
vừa vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, vừa vi phạm kỷ cương phép
nước, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ
phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách
nhiệm không rõ: nội dung và phương pháp hoạt động chậm đổi mới,
còn nhiều biểu hiện cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ
cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng, chính sách đối với cán bộ cơ sở cịn
chấp vá [27, tr.166]
Để xây dựng được hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, đáp ứng được
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, các cấp bộ Đảng, các ngành
hữu quan phải tiến hành đồng bộ nhiều mặt công tác. Hệ thống chính trị mạnh
hay yếu, chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước đến quần chúng nhân dân
nhanh hay chậm, có phát huy được tác dụng hay khơng, đời sống của nhân
dân địa phương có được cải thiện hay không tất cả đều tuỳ thuộc vào công tác
cán bộ của Đảng vào vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó cơng tác đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ là mắt khâu trọng yếu.
20
1.1.2.2. Thực trạng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cấp cơ sở tỉnh
Đồng Tháp
Trong quá trình chiến đấu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đội ngũ cán bộ
cơ sở tỉnh Đồng Tháp đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Tỉnh nhà và
đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước. Cùng với sự phát triển của
cách mạng, đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh ngày càng được bổ sung về số
lượng, nâng cao về chất lượng. Tuy vậy, nhìn chung năng lực và trình độ cán
bộ cơ sở tỉnh Đồng Tháp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển.
Tính bình quân, độ tuổi của cán bộ cơ sở tỉnh Đồng Tháp, từ 30 - 40 tuổi
chiếm đến trên 70%, độ tuổi dưới 30 chiếm khoảng 15-20% và độ tuổi từ 50
trở lên chiếm từ 10-15%. Từ thực tế này cho thấy, công tác tổ chức quy hoạch
cán bộ phải chú ý đến đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực có phẩm chất đạo đức
để đưa đi đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ phục vụ cho công tác lâu
dài của địa phương. Trẻ hoá đội ngũ cán bộ cơ sở là một yêu cầu cấp bách.
Trong đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của Tỉnh cịn có sự chênh lệch lớn tỷ lệ
cán bộ giữa nam và nữ. Cán bộ nữ chưa đến 10% trong tổng số cán bộ và chủ
yếu là làm công tác thanh niên, phụ nữ.
Trình độ văn hố của cán bộ cơ sở thấp, năng lực cơng tác cịn hạn chế.
Tính đến trước năm 2000, trình độ văn hố của đội ngũ cán bộ cơ sở ở Đồng
Tháp chủ yếu là cấp I và cấp II. Đây là vấn đề hết sức khó khăn trong công
tác cán bộ, công tác đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Không chỉ
thấp về trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị và quản lý nhà nước cũng
cịn có nhiều hạn chế.
Do thấp về trình độ học vấn, ít được đào tạo, bồi dưỡng qua các trường lớp
nên năng lực tư duy, kỹ năng công tác của cán bộ cơ sở tỉnh Đồng Tháp còn
nhiều hạn chế, việc quán triệt, tiếp thu đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên còn thụ động.
21
Trong thời kỳ đổi mới, đội ngũ cán bộ cơ sở vẫn tiếp tục phát huy tốt
truyền thống cách mạng, có ý chí, quyết tâm đổi mới vươn lên đáp ứng những
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luôn trân
trọng và phát huy truyền thống của các thế hệ đi trước, thuỷ chung với cách
mạng, trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân. Nét nổi bật đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở của Đồng Tháp là phẩm chất đạo đức trong sáng, trung thực,
thật thà, thẳng thắn đấu tranh với tiêu cực, tệ nạn xấu, chống tham ô, tham
nhũng, ln gần dân, sát dân và sát thực tế tình hình. Đặc biệt, trong thời kỳ
đổi mới, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Đồng Tháp đã ý thức được sự hạn
chế về trình độ, năng lực cơng tác, từ đó, xác định được nhu cầu và tinh thần
vượt khó vươn lên để học tập, nâng cao trình độ mọi mặt.
Bên cạnh những phẩm chất tích cực, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh
Đồng Tháp cũng còn những mặt hạn chế. Một bộ phận cán bộ cịn có tư tưởng
ngại khó, thiếu ý chí khắc phục khó khăn, thường đổ lỗi cho hồn cảnh. Một
số cán bộ cịn có tính tự ti, thói quen an phận, trung bình chủ nghĩa, kinh
nghiệm chủ nghĩa, từ đó dẫn đến việc ngại học tập tiếp thu tri thức mới. Một
bộ phận khơng nhỏ cán bộ cịn mang nặng tư tưởng ỷ lại, thụ động chờ cấp
trên, thiếu tính quyết đốn, sáng tạo, dám làm dám chịu trách nhiệm. Đó là
những nguyên nhân làm chậm sự chuyển biến trong nhận thức và hành động
của cán bộ cơ sở.
Có cán bộ cịn có tác phong gia trưởng, độc đốn, khơng phát huy được
tính dân chủ trong cơng tác. Một số có thói quen tự do, tuỳ tiện, khơng chấp
hành kỷ luật, khơng hành động theo pháp luật. Trong cơng tác cịn có tư tưởng
gia đình, dịng họ, do đó, khi xử lý cơng việc cịn nể nang, cảm tính, dẫn đến
vi phạm quy định, quy chế, vi phạm pháp luật.
Dưới tác động của cơ chế thị trường, trong khi đội ngũ cán bộ chưa được
chuẩn bị đầy đủ cả về nhận thức, năng lực và phẩm chất nên đã xuất hiện
22
nhiều vấn đề tiêu cực. Có một số cán bộ thiếu rèn luyện, tu dưỡng, nhận thức
lệch lạc, sai trái dẫn đến vi phạm pháp luật trong lãnh đạo, điều hành làm mất
lòng tin trong quần chúng nhân dân.
Dù còn có những hạn chế nhất định, song đội ngũ cán bộ cơ sở vẫn đảm
đương được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại
hố địi hỏi một u cầu cao về nhận thức, trình độ, năng lực và cả phẩm chất
của đội ngũ cán bộ cơ sở. Do đó, đây là vấn đề đặt ra cho cơng tác cán bộ nói
chung và cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng, nhằm đạt được yêu
cầu, mục tiêu phát triển kinh tế tỉnh nhà.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986 đề ra
đường lối đổi mới toàn diện. Đổi mới trước hết: “Đổi mới tư duy, trước hết là
tuy duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách
lãnh đạo và công tác” [20, tr.124].
Với quan điểm đó, tinh thần Đại hội VI chỉ rõ đổi mới đội ngũ cán bộ là
phải đánh giá, lựa chọn và phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ tiêu
chuẩn về phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Con đường để đạt
được vấn đề đó, có nhiều con đường nhưng con đường quyết định nhất là phải
thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng. Trên tinh thần đó, Đại hội VI chủ
trương: “phải cải cách tồn diện cơng tác của các trường đảng, nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp”[20, tr.130].
Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, từ đó tạo ra bước chuyển lớn trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói các cấp và cán bộ cấp cơ sở.
Dưới ánh sáng của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng, Đảng bộ tỉnh Đồng
Tháp đã tổ chức nghiên cứu, đánh giá tình hình cơng tác đào tạo, bồi dưỡng
23
cán bộ và thực trạng công tác cán bộ các cấp của tỉnh để trên cơ sở đó đề ra
những chủ trương và giải pháp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ cơ sở của tỉnh.
Ngày 05 tháng 9 năm 1994 Ban bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định
định số 88/QĐ-TW “Về thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương”. Thực hiện Quyết định số 88/QĐ-TW của Ban bí thư,
Hướng dẫn số 07-TC/TW của Ban tổ chức trung ương về hướng dẫn thực hiện
Quyết định số 88. Ban thường vụ tỉnh uỷ ra Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 01
tháng 01 năm 1995 thống nhất chủ trương hợp nhất Trường Đảng, trường
Hành chính và các trường Đồn thể thành trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp.
Nhằm tập trung thống nhất và tiếp tục nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ công chức trong hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển trong
giai đoạn cách mạng mới. Trường chính trị tỉnh Đồng Tháp được thành lập
ngày 16 tháng 02 năm 1995 theo Quyết định số 04/QĐ-UB của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Đồng Tháp.
Trường chính trị ra đời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đào tạo cán
bộ nhất là cán bộ cơ sở. Đối tượng được đào tạo tại trường Chính trị tỉnh
Đồng Tháp bao gồm cán bộ chuyên trách và khơng chun trách cấp cơ sở;
trưởng, phó phịng huyện; trưởng, phó phịng của các ban ngành cấp tỉnh và
cán bộ dự nguồn cho các chức danh trên. Đào tạo ngắn hạn các đối tượng trên
về lý luận chính trị, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, quản lý hành
chính nhà nước về cơng tác vận động quần chúng, thâm gia công tác khoa học
và tổng kết công tác thực tiễn của địa phương. Việc thành lập trường chính trị
đã tạo sự chủ động trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hệ thống chính
trị cơ sở.
Trường chính trị tỉnh được thành lập đã tạo điều kiện cho việc mở các
lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh trong đó chủ yếu tập trung đào tạo cán
24
bộ cơ sở. Trong những năm trước năm 2000, trường đã tập trung mở các lớp:
trung cấp chính trị; trung cấp hành chính; trung cấp luật; trung cấp thanh vận, phụ
vận,…đã đạt được những kết quả bước đầu, tạo điều kiện cho việc chuẩn hố một
bộ phận cán bộ, trình độ và năng lực cán bộ cũng được nâng lên một bước.
Để tăng cường cơng tác chính trị tư tưởng, thường xuyên bồi dưỡng
đường lối, chính sách của Đảng cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo thực hiện các
chương trình giáo dục lý luận chính trị, nhằm nâng cao trình độ kiến thức và
nghiệp vụ cho cán bộ Đảng, chính quyền, đồn thể.
Ngày 03 tháng 6 năm 1995, Ban bí thư trung ương Đảng (khoá VII) ra
Quyết định số 100-QĐ/TW “Về việc tổ chức trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện”. Nhiệm vụ của trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện là bồi
dưỡng về lý luận chính trị, nội dung các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của nhà nước cho cán bộ trên địa bàn huyện không thuộc đối tượng đào
tạo, bồi dưỡng của trường chính trị.
Trên cơ sở đó, Ban thường vụ tỉnh Đồng Tháp ra thơng tư về việc thành
lập trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Trong năm 1995, tất cả các
huyện, thị của tỉnh Đồng Tháp đều thành lập trung tâm bồi dưỡng chính trị và
tiến hành cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Sau khi thành lập, các trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thị đã
tiến hành mở lớp quán triệt nghị quyết, bồi dưỡng trên các hệ chương trình,
kết hợp mở lớp đào tạo… hàng trăm lớp được tổ chức với hàng ngàn lượt cán
bộ được đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng yêu cầu công tác của địa phương. Huyện
Tân Hồng là một huyện biên giới với những điều kiện hết sức khó khăn, nhưng
trong 10 năm thực Quyết định 100 của Ban bí thư trung ương Đảng, trung tâm
bồi dưỡng chính trị huyện Tân Hồng đã tổ chức mở được 520 lớp các loại và có
37.695 học viên theo học. Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Tháp Mười
trong 10 năm đã mở được 490 lớp và đã có 35.750 học viên [45, tr.12].
25
Tính đến trước năm 2000, cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
mà đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở của tỉnh Đồng Tháp đã đạt những những kết
quả nhất định. Bước đầu đã khẳng định được sự nhận thức về tầm quan trọng
của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở của toàn Đảng bộ, của các cấp,
các ngành, trên cơ sở đó có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư về cơ sở vật
chất. Đó là những điều kiện cơ bản để công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ cơ sở đạt được những kết quả và bước đầu thực hiện đào tạo và đào tạo
lại cán bộ, đội ngũ này đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của công cuộc phát
triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ
sở cũng cịn có nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất đầu tư cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ rất hạn chế. Các thiết bị phục vụ cho cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng khơng có gì, cơng tác đổi mới nội dung dạy và học gặp rất nhiều khó
khăn. Đội ngũ những người làm cơng tác đào tạo, bồi dưỡng nói chung và
giảng viên trực tiếp giảng dạy còn hạn chế nhiều mặt, chưa và ít được đào tạo
chuyên sâu, chủ yếu là tự làm, tự học. Cơ chế chính sách cho cơng tác này
cịn nhiều bất cập.
Nguyên nhân của những vấn đề trên có nhiều, song nguyên nhân trong
lĩnh vực lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng của các cấp uỷ Đảng là một vấn
đề quan trọng:
Công tác đào tạo cán bộ trong một thời gian dài chỉ nặng về bồi
dưỡng những kiến thức chính trị cơ bản, khơng đi sâu theo chun
ngành, không chú ý đầy đủ những vấn đề nghiệp vụ, nhất là nghiệp vụ
quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước, vì thế đã có tình trạng thừa cán bộ
chỉ đạo “chung chung”, nhưng thiếu cán bộ có năng lực điều hành cụ thể
[61, tr.548].
Đó là những vấn đề lớn có tác động đến hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị địa phương. Lãnh đạo cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội