1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành xu thế có
tác động mạnh tới đời sống kinh tế của tất cả các quốc gia, thúc đẩy quá trình
đầu tư sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ và du lịch theo hướng tự do, thơng
thống nhưng quy luật cạnh tranh cũng gay gắt, khốc liệt hơn. Để tồn tại, phát
triển mỗi quốc gia phải tìm cách phát huy nội lực, đồng thời điều chỉnh cơ
cấu, chính sách kinh tế của nước mình để hội nhập với kinh tế thị trường khu
vực và quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế khu vực và giao lưu biên giới với
nước láng giềng đóng vai trị quan trọng, đặc biệt là những nước có đường
biên giới dài như nước ta (4512km).
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng “Núi liền núi, sơng
liền sơng”, có đường biên giới chung dài 1463 km, với nhiều nét tương đồng
về lịch sử, chính trị, kinh tế và văn hố, có quan hệ truyền thống lâu đời vì
vậy có điều kiện mở ra cơ hội hợp tác rất lớn. Trong hai thập niên trở lại đây,
Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn về phát triển kinh tế, là một thị trường
rộng lớn với hơn 1,3 tỷ dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong
nhiều năm nên nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng tăng lên rất nhanh. Sau khi
Việt Nam và Trung Quốc bình thường hố (1991), quan hệ hai nước ngày
càng phát triển tốt đẹp, diễn ra toàn diện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực và
được nâng nên tầm cao mới, thể hiện tập trung trong phương châm mười sáu
chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng
tới tương lai”. Gần đây, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thống nhất hợp tác
thực hiện chiến lược “Hai hành lang một vành đai” nhằm khai thác, phát triển
khu vực Tây Nam - Trung Quốc và các tỉnh miền núi, trung du phía Bắc Việt
Nam. Do đó, thúc đẩy giao lưu kinh tế - thương mại Việt - Trung qua các cửa
2
khẩu là nhu cầu chính đáng của cư dân khu vực biên giới hai nước nói riêng
và yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế mỗi nước nói chung.
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới nằm ở phía Bắc của Việt Nam,
giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc có đường biên giới chung dài 203,305 km
trong đó có 59,175 km biên giới đất liền, 144,130 km sông suối; có Cửa khẩu
quốc tế Lào Cai, Cửa khẩu quốc gia Mường Khương, 04 cặp cửa khẩu tiểu
ngạch và nhiều lối mở qua lại biên giới. Là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát
triển kinh tế, với hệ thống giao thông thuận lợi gồm: Đường sắt Hà Nội - Lào
Cai nối với Côn Minh - Trung Quốc, đường bộ, đường thuỷ và khả năng phát
triển đường hàng không. Trong lịch sử, Lào Cai đã là một trong những cửa
ngõ chính thơng thương giữa nước ta với Trung Quốc. Ngày nay, với vị trí địa
chính trị - kinh tế cùng với đường lối đổi mới của đất nước đã tạo cho tỉnh
Lào Cai những điều kiện thuận lợi để phát triển khu kinh tế cửa khẩu
(KTCK), biến tiềm năng thành lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội, xố đói
giảm nghèo góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước: "Tập trung xây dựng Khu
KTCK Lào Cai trở thành cửa khẩu lớn, hiện đại đáp ứng yêu cầu xuất khẩu
hàng hoá cũng như nhu cầu vận tải quá cảnh của Trung Quốc, Việt Nam, Hiệp
hội các nước Đơng Nam Á (ASEAN), thực hiện vai trị đầu tàu, động lực phát
triển kinh tế Lào Cai và cả vùng" [9, tr. 5]; nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò
quan trọng của khu KTCK trong phát triển kinh tế - xã hội; Đảng bộ tỉnh Lào
Cai đã quán triệt và vận dụng những quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, phát
triển khu kinh tế, KTCK để lãnh đạo phát triển Khu KTCK Lào Cai ngày
càng hiện đại đáp ứng nhu cầu trao đổi thương mại và hội nhập kinh tế quốc
tế.
3
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, quá trình lãnh đạo phát
triển Khu KTCK Lào Cai từ năm 2001 đến năm 2008, từ đó tổng kết, đánh
giá kết quả, chỉ ra hạn chế, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm trong
quá trình lãnh đạo phát triển khu KTCK của Đảng bộ tỉnh Lào Cai là vấn đề
cấp thiết hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu đề tài "Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo
phát triển khu kinh tế cửa khẩu từ năm 2001 đến năm 2008” có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hố quan hệ (1991),
nhiều hình thức hợp tác, liên kết kinh tế đã được thiết lập như hình thành các
khu cơng nghiệp, khu chế xuất, khu cơng nghệ cao… và gần đây là mơ hình
khu KTCK. Thực tế cho thấy phát triển các khu KTCK Việt - Trung là một tất
yếu khách quan, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh
- quốc phòng của mỗi quốc gia. Hệ quả trực tiếp của mở cửa biên giới và phát
triển các khu KTCK đã thu hút sự chú ý của báo giới, các nhà quản lý, các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, tiêu biểu như:
TS. Phạm Văn Linh, Quan hệ kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới
Việt - Trung với việc phát triển kinh tế hàng hoá các tỉnh miền núi phía Bắc,
Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1999; TS. Phạm Văn Linh, Các khu KTCK biên giới
Việt - Trung và tác động của nó tới sự phát triển kinh tế hàng hố ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; TS. Trịnh Tất Đạt, TS Vũ Tuấn Anh,
TS. Hồng Cơng Hồn, Tác động kinh tế - xã hội của mở cửa biên giới", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; TS. Nguyễn Văn Lịch, Phát triển thương
mại trên hành lang kinh tế Côn Minh, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng", Nxb
Thống kê, Hà Nội, 2005.
TS. Phạm Văn Linh (đề tài cấp bộ - 2000), “Tác động của khu vực
KTCK với quá trình phát triển hàng hoá ở nước ta”; HL (2005) “KTCK: Thế
4
mạnh của Lào Cai”, tạp chí Kinh tế Việt nam (20) tr.13; Đặng Nguyễn (2007),
“Phát triển các khu KTCK”, Thời báo kinh tế Việt Nam (109) tr.16; Vũ Xuân
Cường (2007), “Khu KTCK động lực phát triển kinh tế Lào Cai”, Báo Lào
Cai (39) tr. 5.
Hồ Sơn Nga (2003) “Phát triển thương mại tại khu KTCK Việt Nam Thực trạng và giải pháp”, Luận văn tốt nghiệp lý luận chính trị cao cấp, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Thị
Thanh Huyền (2005), “Tác động của sự phát triển Khu KTCK Lào Cai đến
đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh”, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Thị Hồng Minh
(2006), “Giải pháp hoàn thiện quản lý Khu KTCK Lào Cai trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội; Bùi Minh Hùng (2008), “Khu KTCK Đồng Tháp trong
hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Bùi Văn Cơi (2009) “Khu KTCK Đồng
Đăng - Lạng Sơn trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận văn thạc sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Vũ Thị
Thanh Nga (2009) “Phát triển Khu KTCK Lào Cai trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các cơng trình nêu trên tương đối đa dạng, phong phú, đã đề cập cả về
lý luận và thực tiễn phát triển khu KTCK. Tuy nhiên các cơng trình mới chỉ
tập trung cứu dưới góc độ kinh tế, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
và trình bày một cách có hệ thống q trình Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo
phát triển khu KTCK dưới dạng một luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu
5
+ Hệ thống hố quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển khu
kinh tế, KTCK.
+ Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh vận dụng chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước để lãnh đạo phát triển khu KTCK từ năm 2001 đến 2008,
từ đó tổng kết, đánh giá thành tựu và rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo phát
triển khu KTCK ở Lào Cai.
- Nhiệm vụ của luận văn
+ Làm rõ yêu cầu khách quan hình thành, phát triển Khu KTCK
Lào Cai.
+ Nghiên cứu chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và quá trình
vận dụng lãnh đạo phát triển khu KTCK của Đảng bộ tỉnh Lào Cai.
+ Tổng kết, đánh giá thành tựu và rút ra một số kinh nghiệm của Đảng
bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo phát triển khu KTCK.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những chủ trương,
chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển
khu kinh tế, KTCK của Đảng, Nhà nước và sự vận dụng lãnh đạo phát triển
khu KTCK của Đảng bộ tỉnh Lào Cai.
- Phạm vi nghiên cứu: Quá trình Đảng bộ tỉnh Lào Cai lãnh đạo phát
triển khu KTCK ở địa phương trong thời gian từ năm 2001 đến năm 2008
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
- Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế,
phát triển khu kinh tế, KTCK. Ngồi ra, luận văn cịn kế thừa có chọn lọc
6
những kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học, các bài viết đã được
cơng bố có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lơgíc, kết hợp chặt
chẽ giữa phương pháp lịch sử với phương pháp lơgíc. Ngồi ra, luận văn cịn
sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... để trình bày và
làm rõ nội dung.
- Nguồn tài liệu
+ Các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, VII,
VIII, IX, X; chỉ thị, nghị quyết, quyết định, nghị định… của Trung ương, Bộ
Chính trị và Chính phủ về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc
tế, phát triển khu kinh tế, KTCK,
+ Các văn kiện Đại hội của Đảng bộ tỉnh Lào Cai khoá X, XI, XII, XIII;
các nghị quyết, quyết định, báo cáo hàng năm của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân
(UBND) tỉnh, các sở, ban, ngành, đặc biệt là của Ban Quản lý khu KTCK,
Văn phòng UBND tỉnh, Văn phòng Tỉnh uỷ và Cục Thống kê tỉnh Lào Cai,
+ Những cơng trình nghiên cứu khoa học có liên quan đã được cơng bố,
+ Tạp chí Cộng sản, tạp chí Lịch sử Đảng, các báo, tạp chí kinh tế có
liên quan và một số báo điện tử...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trình bày tương đối hệ thống và tồn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Lào
Cai lãnh đạo phát triển khu KTCK từ năm 2001 đến năm 2008.
- Chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân từ đó rút ra một số kinh
nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo phát triển khu KTCK của Đảng bộ tỉnh Lào Cai.
- Cung cấp thêm những tư liệu thực tế về quá trình lãnh đạo phát triển
khu KTCK, giúp các cơ quan của Trung ương và địa phương nghiên cứu,
hoạch định các chủ trương, chính sách cho phù hợp.
7
- Góp phần nghiên cứu, tổng kết Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lào Cai giai đoạn
2001 - 2008.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
8
Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH LÀO CAI LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KHU KINH TẾ CỬA KHẨU TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2008
1.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN KHU KINH
TẾ CỬA KHẨU LÀO CAI
1.1.1. Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu
Khái niệm khu KTCK mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm
gần đây và hình thành trên cơ sở khái niệm: "Giao lưu kinh tế qua biên giới".
Theo nghĩa hẹp, khái niệm này bao gồm các hoạt động thương mại, trao đổi
hàng hoá của cư dân và các doanh nghiệp nhỏ đóng tại địa bàn biên giới xác
định, thường là những nơi có các cửa khẩu biên giới. Trên thực tế, những hình
thức này có thể được thực hiện ở các chợ biên giới, thậm chí ở các đường
mòn biên giới với một khối lượng và giá trị hàng hoá theo quy định của Nhà
nước hoặc chính quyền địa phương. Đây là hình thức diễn ra phổ biến ở tất cả
các quốc gia có đường biên giới chung trong điều kiện hồ bình. Tuy nhiên,
điều dễ thấy là quy mô, mức độ hoạt động kinh tế - thương mại diễn ra rất
khác nhau giữa các vùng, miền, khu vực biên giới của đất nước vì nó phụ
thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau: trình độ phát triển kinh tế; điều kiện
tự nhiên; vị trí địa lý; chính sách biên mậu của nước láng giềng; các tiềm
năng, thế mạnh tại chỗ; sự ổn định về an ninh chính trị... Cùng với q trình
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, khái niệm "Giao lưu
kinh tế qua biên giới" bao hàm một nội dung rộng lớn, bao quát hơn trước,
không chỉ đơn thuần là bn bán, trao đổi hàng hố thơng thường, mà còn bao
gồm cả các hoạt động kinh tế - thương mại, hợp tác khoa học - công nghệ,
đầu tư hai chiều, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), liên doanh phát triển cơ
sở hạ tầng, du lịch qua biên giới... Như vậy, khái niệm giao lưu kinh tế qua
biên giới được phát triển từ hình thức trao đổi hàng hố thông thường thành
9
các hoạt động sản xuất, kinh doanh đa dạng. Trên thế giới và khu vực hợp tác
kinh tế song phương hoặc đa phương giữa các quốc gia có đường biên giới
chung đã có nhiều hình thức liên kết với những cấp độ khác nhau như: khu
vực thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung; liên minh kinh
tế; liên minh tiền tệ. Bên cạnh đó, ở những vùng, địa phương có những điều
kiện khác nhau đã xuất hiện nhiều hình thức, mơ hình kinh tế cụ thể như: các
vùng tăng trưởng kinh tế, các đặc khu kinh tế... Trong tính đa dạng của các
loại hình kinh tế, Đảng và Chính phủ lựa chọn một mơ hình kinh tế cụ thể phù
hợp với trình độ phát triển kinh tế của từng địa phương, đảm bảo những điều
kiện cần và đủ từ đó cho phép áp dụng những cơ chế, chính sách riêng trong
một phạm vi khơng gian, thời gian xác định mà ở đó giao lưu kinh tế biên giới
phát triển để hình thành khu KTCK.
Qua những phân tích trên, có thể hiểu: "Khu KTCK là một khơng gian
kinh tế xác định gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc khơng có dân cư sinh sống
và được thực hiện những cơ chế, chính sách phát triển riêng phù hợp với đặc
điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, do Chính phủ hoặc
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập".[45, tr.14]
Khu KTCK có những điểm giống và khác so với khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao... Để rõ hơn về khu KTCK, chúng ta có thể
so sánh với các mơ hình kinh tế khác:
Khu cơng nghiệp, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất cơng nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, khơng có dân cư sinh sống, được hưởng một số cơ chế,
chính sách ưu tiên của Chính phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Khu chế xuất, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động
10
xuất khẩu, có ranh giới xác định, khơng có dân cư sinh sống, được hưởng một
số chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hay Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập.
Khu cơng nghệ cao, là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm
nghiên cứu, triển khai khoa học - cơng nghệ, đào tạo, các dịch vụ có liên
quan, có ranh giới địa lý xác định, được hưởng chế độ ưu tiên nhất định, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Như vậy, khu cơng nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba
loại hình của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát
từ mục đích, đối tượng tham gia, mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế.
Khu công nghiệp thường được thành lập ở những vùng đình trệ về kinh tế, nơi
có nhiều người thất nghiệp, nhưng lại có sẵn ưu thế phát triển nguồn tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi. Được Chính phủ và chính quyền
địa phương dành ưu tiên nhất định nên có vai trị thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. So với khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được xác định là
khu công nghiệp nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất, chế
biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trị
then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Cịn
khu cơng nghệ cao, điểm khác biệt chính là ở mục đích phát triển cơng nghệ
kỹ thuật cao, thu hút cơng nghệ nước ngồi, tiếp thu và chuyển giao cơng
nghệ cao, nâng cao năng lực công nghệ trong nước.
Những đặc điểm cơ bản của các loại hình kinh tế trên cho thấy, khu
KTCK có điểm giống và khác cơ bản như sau:
Những điểm giống nhau: Về tư cách pháp nhân, các mơ hình kinh tế
này đều được thành lập theo quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ; được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa
11
phương; có một khơng gian kinh tế xác định; đều nhằm mục đích phát huy
hiệu quả hoạt động của nó để thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương, vùng
và đất nước phát triển.
Những điểm khác nhau: Điểm khác nhau dễ thấy giữa khu KTCK với
các hình thức kinh tế nói trên là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập
được khu KTCK, điều kiện tiên quyết là phải gắn với vị trí cửa khẩu, là khu
vực có hoặc khơng có dân cư sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước,
nước ngồi hoạt động. Mục đích thành lập khu KTCK nhằm ưu tiên phát triển
thương mại, XNK, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất
là hoạt động thương mại, dịch vụ như: Hoạt động XNK, tạm nhập, tái xuất,
vận chuyển hàng hoá quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ
triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng
xuất khẩu và các chi nhánh đại diện các công ty trong nước, nước ngồi, chợ
cửa khẩu...
Khác với khu chế xuất và khu cơng nghiệp, nguồn hàng hố để trao đổi
ở khu KTCK có thể là tại chỗ, có thể là từ nơi khác đưa đến. Các chính sách ưu
tiên cũng khác nhau phù hợp với đặc thù của từng loại hình và địa phương nơi
chúng được thành lập. Do khu KTCK đặt lên hàng đầu là các hoạt động về
thương mại, dịch vụ, gắn với cửa khẩu, chịu tác động mạnh mẽ của khu vực
kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có đường biên giới
chung. Cho nên, nguồn hàng hoá tại chỗ và từ nơi khác (các vùng kinh tế, khu
công nghiệp, khu chế xuất) là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả hoạt động
của nó. Mặt khác, hoạt động của khu KTCK còn liên quan nhiều đến thông lệ
quốc tế, vấn đề chủ quyền, an ninh biên giới, các chính sách chung của hai
nước thơng qua cặp cửa khẩu và hệ thống các đường giao thông. Do vậy, tuỳ
theo điều kiện cụ thể của mình, mỗi địa phương cần lựa chọn cho mình một mơ
hình khu KTCK cụ thể và áp dụng cơ chế, chính sách cho phù hợp.
12
1.1.2. Thực trạng kinh tế cửa khẩu Lào Cai trước năm 2001
* Tiềm năng và lợi thế để Lào Cai phát triển kinh tế cửa khẩu
Vị trí địa lý: Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm ở phía Bắc của
Việt Nam, cách Hà Nội 296 km theo đường sắt, 345 km theo đường bộ. Phía
Đơng giáp tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Yên Bái, phía Tây giáp tỉnh Lai
Châu, phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc với 203,305 km đường biên
giới; có Cửa khẩu Quốc tế Lào Cai, Cửa khẩu Quốc gia Mường Khương, 04
cặp cửa khẩu tiểu ngạch và nhiều lối mở qua lại biên giới thông thương với
tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Đơn vị hành chính trực thuộc của Lào Cai gồm
có 1 thành phố và 8 huyện với 164 xã, phường, thị trấn, trong đó có 138 xã
vùng sâu, vùng xa, biên giới. Diện tích tự nhiên: 6.383,88 km 2 (lớn thứ 19/64
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của cả nước), là tỉnh có hệ thống giao
thơng thuận lợi, có tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội - Lào Cai - Côn
Minh, cùng các tuyến quốc lộ 70, 4E, 79 nối Lào Cai với các tỉnh Yên Bái,
Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội... và tỉnh Vân Nam - Trung Quốc; các quốc lộ
40, 32 nối với Lai Châu, đường 279 nối với các tỉnh Hà Giang, Sơn La. Ngồi
giao thơng đường sắt và đường bộ, Lào Cai cịn tham gia vào mạng lưới giao
thông đường thuỷ quan trọng vào bậc nhất ở phía Bắc là sơng Hồng (chảy qua
tỉnh với chiều dài 130 km, có đoạn là danh giới chung giữa hai nước). Với vị
trí địa lý đặc biệt này, Lào Cai trở thành đầu mối thông thương kinh tế, giao
lưu văn hoá giữa Việt Nam với Trung Quốc nói riêng và quốc tế nói chung.
Tiềm năng phát triển cơng nghiệp: Lào Cai có nguồn tài ngun
khống sản phong phú, tới nay đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên
35 loại khoáng sản khác nhau, trong đó có nhiều loại khống sản q, có chất
lượng cao, trữ lượng lớn hàng đầu Việt Nam và khu vực như: mỏ Apatit Cam
Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Sa - Văn Bàn trữ lượng 124 triệu
tấn, mỏ đồng Sinh Quyền - Bát Xát trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ Molipden Ô
13
Quy Hồ - Sa Pa trữ lượng 15,4 nghìn tấn... Nguồn tài nguyên khoáng sản
phong phú và đa dạng là cơ sở để phát triển ngành công nghiệp khai thác và
chế biến khống sản. Ngồi ra, Lào Cai có hệ thống sông suối dày đặc được
phân bố khá đều trên địa bàn, đó là điều kiện thuận lợi để Lào Cai phát triển
các cơng trình thuỷ điện vừa và nhỏ.
Tiềm năng về nơng - lâm nghiệp: Với địa hình đặc trưng là núi cao,
chia cắt mạnh đã tạo cho Lào Cai một môi trường thiên nhiên rất đa
dạng, nhiều hệ động, thực vật phong phú với những nguồn gien quý hiếm
(dãy núi Hoàng Liên Sơn và Vườn quốc gia Hoàng Liên chiếm khoảng 50%
tổng số loài thực vật quý hiếm của Việt Nam) và các tiểu vùng khí hậu nhiệt
đới, cận ơn đới, ơn đới rất thích hợp cho sản xuất, phát triển các loại cây trồng
nhiệt đới, các loại rau, hoa, chè vùng cao, thảo dược, cây ăn quả ôn đới, nuôi
cá nước lạnh và phát triển du lịch. Đất đai ở Lào Cai có độ phì nhiêu cao, màu
mỡ, đa dạng bao gồm 10 nhóm, 30 loại đất, phù hợp với nhiều loại cây trồng
khác nhau. Nhóm đất phù sa (chiếm 1,47% diện tích tự nhiên) có độ phì nhiêu
tự nhiên cao, thích hợp với các loại cây lương thực, cây cơng nghiệp. Nhóm
đất đỏ vàng (chiếm 40% diện tích tự nhiên) thích hợp với cây cơng nghiệp dài
ngày, cây hàng năm. Nhóm đất mùn vàng đỏ (chiếm 30% diện tích tự nhiên)
có thảm thực vật rừng phong phú, đa dạng, thích hợp trồng các loại cây dược
liệu quý, cây ăn quả và nhiều loại rau ôn đới quan trọng của tỉnh. Nhóm đất
mùn alit trên núi (chiếm 11,42% diện tích tự nhiên) có thảm rừng đầu nguồn
khá tốt, thích hợp với một số loại cây trúc, đỗ quyên, rừng hỗn giao. Nhóm
đất đỏ vàng bị biến đổi màu do trồng lúa (chiếm khoảng 2% diện tích tự
nhiên), đây là các loại đất feralitic hoặc mùn feralitic ở các sườn và chân sườn
ít dốc được con người bỏ nhiều công sức tạo thành các ruộng bậc thang để
trồng trọt hoa màu và tạo nên những cảnh quan ruộng bậc thang rất đẹp, tiêu
biểu là hai huyện Bắc Hà và Sa Pa. Tiềm năng về nông - lâm nghiệp là những
14
điều kiện quan trọng để Lào Cai đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hoá phục
vụ cho xuất khẩu.
Lợi thế về phát triển du lịch: Thiên nhiên đã ban tặng cho Lào Cai
nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng gắn với các địa danh như: Sa Pa, Bắc Hà,
Bát Xát... với nhiều sản phẩm du lịch độc đáo: du lịch sinh thái, du lịch nghỉ
dưỡng, du lịch văn hoá, du lịch leo núi, mạo hiểm. Trong đó khu du lịch nghỉ
mát Sa Pa nổi tiếng trong nước và quốc tế, là một trong những trọng điểm du
lịch quốc gia. Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1,200m đến 1,800m, khí hậu
mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước, là nơi hội tụ
nhiều hoạt động văn hoá truyền thống độc đáo của đồng bào các dân tộc như
chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa... Dãy núi Hồng Liên Sơn có đỉnh Phan Xi
Phăng cao 3,143m - là nóc nhà của bán đảo Đơng Dương - và khu bảo tồn
thiên nhiên Hoàng Liên hấp dẫn nhiều nhà khoa học, khách du lịch. Ngoài ra,
Lào Cai cịn có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh
thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý và
nuôi nước lạnh như cá hồi (Phần Lan), cá tầm (Nga)... Là tỉnh miền núi đang
phát triển nên Lào Cai cịn giữ được cảnh quan mơi trường trong sạch, bản
sắc văn hoá dân tộc rất đa dạng, phong phú và độc đáo.
Lợi thế phát triển thương mại: Với trị trí địa kinh tế - chính trị, hội tụ
đầy đủ các loại hình giao thơng, Lào Cai đóng vai trị là cửa ngõ của phía Tây
nối với các tỉnh Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên. Mặt khác, Lào Cai nằm trên
tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Cửa khẩu
quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu là cửa ngõ thông thương lớn ở phía Bắc nối Việt
Nam, ASEAN với miền Tây rộng lớn của Trung Quốc; là trung tâm của Hành
lang Bắc - Nam trong Chương trình hợp tác các nước tiểu vùng sơng MêKơng
mở rộng (GMS) cho nên Lào Cai có đầy đủ các điều kiện để phát triển thương
mại. Hiện nay, hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động của khu KTCK
15
được Trung ương và địa phương tập trung đầu tư xây dựng nên đang thu hút
ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam, Trung Quốc đến tham gia sản xuất,
kinh doanh xuất nhập khẩu và hoạt động du lịch.
* Thực trạng kinh tế cửa khẩu Lào Cai trước năm 2001
Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới chung trên đất liền và
trên biển. Quan hệ buôn bán giữ hai nước qua cửa khẩu Lào Cai đã có từ lâu,
hai bên đã có quan hệ trao đổi sản vật qua tuyến sông Hồng. Cuối thế kỷ thứ
XIX, cùng với sự ra đời của tuyến đường sắt Cơn Minh - Hải Phịng, quan hệ
giao lưu hàng hoá hai bên đạt được bước tiến mới quan trọng, tạo ra một
tuyến giao thông huyết mạch. Sau khi hai nước giành được độc lập, thiết lập
quan hệ ngoại giao (18-1-1950), quan hệ buôn bán qua biên giới Lào Cai càng
có điều kiện phát triển thuận lợi. Trải qua những thăm trầm của lịch sử trong
khoảng thời gian 10 năm (1979 - 1988), quan hệ hai nước bị gián đoạn, các
hoạt động kinh tế - thương mại bị ngừng trệ, tuy nhiên việc trao đổi hàng hố
qua biên giới vẫn được diễn ra nhưng khơng cơng khai, quy mô cũng không
đáng kể. Từ năm 1986 - 1990 tình hình quan hệ hai nước đã bắt đầu được cải
thiện, với sự thoả thuận của Chính phủ, địa phương hai bên, hàng chục cặp
cửa khẩu tiểu ngạch, nhiều đường mòn đã được mở để nhân dân hai bên biên
giới qua lại và trao đổi hàng hoá. Song hoạt động cịn mang tính manh mún,
tự phát. Để đáp ứng nguyện vọng giao lưu kinh tế, văn hóa của nhân dân hai
nước, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khố VI) đã ra
Thơng báo 118/TB-TW ngày 19-11-1988; Hội đồng Bộ trưởng đã có Chỉ thị
số 32/CT-HĐBT ngày 2-2-1989, Chỉ thị số 405/CT-HĐBT ngày 19-11-1990
để chấn chỉnh công tác quản lý vùng biên giới phía Bắc. Tiếp đó, cuộc gặp gỡ
cấp cao giữa hai Đảng và Nhà nước (tháng 11-1991) đã thống nhất chủ trương
"Khép lại quá khứ, mở ra tương lai" bắt đầu thời kỳ mới bình thường hoá và
mở cửa giữa hai nước.
16
Từ năm 1991 trở đi, đứng trước yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế,
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tăng cường hoạt động đối
ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương:
Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, khơng
phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các ngun tắc
cùng tồn tại hồ bình với phương châm: Việt Nam muốn làm bạn với tất
cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và
phát triển... thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc, từng bước mở rộng hợp tác Việt - Trung, giải quyết các vấn đề
tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng [29, tr.88-89].
Với sự cố gắng, nỗ lực của lãnh đạo cấp cao hai nước, quan hệ Việt Trung được bình thường hố (10-11-1991). Cũng trong năm 1991, tỉnh Lào
Cai được tái lập trên cơ sở tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn. Năm 1992, Chính
phủ đã ra Chỉ thị 98/CT-CP ngày 27-3-1992 về việc mở cửa khẩu tuyến biên
giới Việt - Trung, theo đó 9/21 cặp cửa khẩu trên tồn tuyến biên giới chính
thức được khai thơng (trong đó có cặp cửa khẩu Lào Cai - Hà Khẩu). Tuy
nhiên phải đến ngày 18-5-1993, Cửa khẩu quốc tế Lào Cai - Hà Khẩu mới
được mở sau khi khánh thành cầu Hồ Kiều nối Lào Cai với tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Các lối mòn truyền thống và chợ biên giới cũng hoạt động trở lại
theo thoả thuận chung của hai bên. Ngày 14-2-1996, tuyến đường sắt Việt Trung đã chính thức được thơng xe, ngày 8-4-1997 tuyến đường sắt liên vận
Hà Nội - Côn Minh được khai thông.
Ngay sau khi tái lập tỉnh, quán triệt chủ trương của Đảng và Chính phủ,
Đảng bộ tỉnh Lào Cai đã nghiên cứu, đánh giá tiềm năng, lợi thế của mình, từ
đó đề ra chủ trương:
17
Lào Cai có thế mạnh rất quan trọng thơng qua việc mở cửa khẩu
quốc tế và quốc gia. Cho nên cần chuẩn bị tốt khâu dịch vụ XNK, quá
cảnh, thuận tiện, phù hợp với tập quán quốc tế, hình thành các cơ sở
làm dịch vụ du lịch cho khách hàng trong nước và quốc tế để tăng thu
ngoại tệ cho ngân sách. Có chính sách khuyến khích các thành phần
kinh tế đầu tư vốn để tăng sản phẩm cho xuất khẩu. Khuyến khích hợp
tác kinh tế, mở rộng liên doanh liên kết với nước ngoài, trước hết là với
tỉnh Vân Nam - Trung Quốc; thực hiện chính sách ưu đãi trong việc đầu
tư trực tiếp vào những vùng khó khăn, cơ sở hạ tầng yếu kém.
Phát huy ưu thế của một tỉnh có cửa khẩu quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tỉnh bạn ở tuyến sau, các ngành và đơn vị sản xuất kinh
doanh của Trung ương cùng hợp tác, đầu tư sản xuất mở rộng các cơ sở
dịch vụ, xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ xuất khẩu [24, tr.13,24].
Với chủ trương đúng đắn nêu trên, cùng với việc mở cặp cửa khẩu Lào
Cai - Hà Khẩu, các đường mịn và thơng xe với nước bạn đã góp phần quan
trọng làm cho hoạt động thương mại giữa Lào Cai và Vân Nam - Trung Quốc
trở nên nhộn nhịp trên cả phương diện bn bán chính ngạch, buôn bán tiểu
ngạch. Năm 1992, kim ngạch XNK giữa Việt Nam với Trung Quốc qua Cửa
khẩu quốc tế Lào Cai đạt 6,53 triệu đô la Mỹ (USD), năm 1993 là 58,3 triệu
USD, năm 1994 là 56,2 triệu USD, năm 1995 là 62,2 triệu USD, năm 1996 là
35,6 triệu USD, năm 1997 là 54,9 triệu USD [40, tr.58]. Tuy nhiên kim ngạch
XNK từ năm 1992 đến 1997 có sự tăng giảm thất thường, nguyên nhân là do
cơ sở hạ tầng lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu vận chuyển và lưu thơng
hàng hố phục vụ xuất khẩu, cơng tác quản lý cịn nhiều bất cập, cơ chế chính
sách cịn thiếu và chưa ổn định mặc dù Chính phủ nước Việt Nam và Trung
Quốc đã ký kết trên 30 hiệp định và văn bản thoả thuận, trong đó có khoảng
20 hiệp định về kinh tế thương mại, chính quyền địa phương của hai tỉnh Lào
18
Cai và Vân Nam đã ký nhiều văn bản hợp tác kinh tế mậu dịch song phương.
Có thể nói, cho đến năm 1998, các cửa khẩu của Lào Cai mới chỉ thuần tuý
làm chức năng chính trị, ngoại giao, an ninh - quốc phòng. Trên thực tế, các
hoạt động kinh tế tại các cửa khẩu trên bộ của Lào Cai vẫn chưa được đặt
đúng vị trí của nó, vùng biên giới vẫn cịn trong tình trạng chậm phát triển,
đời sống của nhân dân cịn nhiều khó khăn.
Năm 1998 Khu KTCK Lào Cai được thành lập và được áp dụng thí
điểm các chính sách ưu đãi theo Quyết định số 100/1998/QĐ-TTg ngày 26-51998 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quyết định này, phạm vi hành chính của
Khu KTCK Lào Cai gồm: Cửa khẩu quốc tế Lào Cai, phường Cốc Lếu,
phường Duyên Hải, phường Lào Cai, phường Phố Mới, xã Vạn Hoà, thôn Lục
Cẩu xã Đồng Tuyển thuộc thành phố Lào Cai, thôn Na Mo xã Bản Phiệt thuộc
huyện Bảo Thắng, Cửa khẩu Mường Khương gồm toàn bộ xã Mường
Khương. Khu KTCK Lào Cai được ưu tiên phát triển thương mại, XNK, dịch
vụ, du lịch và công nghiệp theo pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa (XHCN) Việt Nam, phù hợp với các thơng lệ quốc tế. Chính phủ nước
Cộng hồ XHCN Việt Nam tơn trọng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà
đầu tư Việt Nam, nước ngoài tại Khu KTCK Lào Cai phù hợp với pháp luật,
chính sách hiện hành của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hoạt động thương mại và dịch
vụ thương mại tại Khu KTCK Lào Cai gồm: Hoạt động XNK, tạm nhập tái
xuất, dịch vụ quá cảnh hàng hoá, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội
chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công
hàng xuất khẩu, các chi nhánh đại diện, các cơng ty trong nước và nước
ngồi, chợ cửa khẩu... Ngồi ra, Khu KTCK Lào Cai cịn được hưởng chính
sách ưu đãi về đầu tư phát triển sản xuất, huy động vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng, XNK, xuất nhập cảnh (XNC)...
19
Những chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước cùng với sự
vận dụng sáng tạo của địa phương đã thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại,
du lịch, đầu tư giữa tỉnh Lào Cai nói riêng, Việt Nam nói chung với Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ. Theo Báo cáo số 08/BC-UB ngày 25-1-2000 của
UBND tỉnh Lào Cai thì tổng kim ngạch XNK qua các cửa khẩu của Lào Cai
năm 1998 đạt 68,6 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 6,2 triệu USD, nhập
khẩu 62,4 triệu USD; năm 1999 đạt 56,0 triệu USD, xuất khẩu là 11 triệu
USD, nhập khẩu là 45 triệu USD; năm 2000 đạt 132,2 USD (tăng gấp 20 lần
so với năm 1992), xuất khẩu là 34,4 triệu USD, nhập khẩu là 97,8 triệu USD.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong nhiều năm liền, Khu KTCK Lào Cai ln
có giá trị nhập khẩu cao hơn từ 5 đến 10 lần so với giá trị hàng hoá xuất khẩu.
(Xem Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Kim ngạch XNK qua Cửa khẩu quốc tế Lào Cai
giai đoạn 1992 - 2000
Đơn vị: Ngàn USD
Năm
Tổng kim ngạch
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
6,530
58,350
56,250
62,200
35,670
54,960
68,670
56,000
132,200
4,260
5,480
8,880
8,220
3,560
6,260
11,000
34,400
6,530
54,100
50,770
53,340
27,450
51,400
62,410
45,000
97,800
Nguồn: [40, tr.58].
Vì những năm trước đây ngoài việc nhập khẩu nhiều thiết bị thay thế,
một số thiết bị mới phục vụ cho sản xuất, chúng ta còn phải nhập nhiều hàng
tiêu dùng của Trung Quốc. Từ năm 1998 đến 2000, trong tương quan XNK đã
20
bắt đầu có sự thay đổi, hạng mục nhập khẩu của nước ta chủ yếu là các thiết
bị, phụ tùng, vật tư nơng nghiệp, cơng nghiệp. Mặt khác, với chính sách
khuyến khích của Nhà nước, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta
phát triển khá mạnh, hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô, thuỷ hải sản
tươi sống, hoa quả nhiệt đới..., bên cạnh đó cịn có những sản phẩm chế biến,
hàng tiêu dùng như bột giặt, dép nhựa, bàn ghế nhựa... Những phân tích trên
cho thấy, dưới tác động của KTCK và Khu KTCK Lào Cai, thương mại của
tỉnh trong thời gian từ năm 1991 đến năm 2000 phát triển tuy không đồng đều
nhưng tốc độ phát triển khá cao. Như vậy, chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước cho Lào Cai mở cửa khẩu biên giới và thực hiện thí điểm các chính
sách ưu đãi tại khu KTCK là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Lĩnh vực thu hút đầu tư chưa được quan tâm đúng mức, tỉnh Lào Cai
chưa có cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư đến sản xuất, kinh
doanh tại khu vực Cửa khẩu quốc tế Lào Cai. Do vậy, từ năm 1991 đến 1998
dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Lào Cai hầu như không đáng kể. Từ năm
1999 trở đi, Trung ương và địa phương có chính sách ưu đãi để phát triển khu
KTCK nên nguồn vốn FDI vào Lào Cai có bắt đầu tăng. Đến năm 2000, đã có
tổng cộng 9 dự án đầu tư vào tỉnh Lào Cai, với tổng số vốn là 22,9 triệu USD,
vốn pháp định là 13,6 triệu USD [41, tr.13]. Trong đó có 6 dự án thuộc các
đối tác của Trung Quốc, 2 dự án thuộc đối tác của Pháp và 1 dự án thuộc đối
tác Hồng Kông, tập trung vào một số lĩnh vực như chế biến nông - lâm sản,
kinh doanh du lịch, nhà hàng, khách sạn, XNK, sản xuất và lắp ráp máy móc,
hàng gia dụng, điện tử, sản xuất vật liệu xây dựng...
Công tác quản lý qua biên giới còn tương đối lỏng lẻo, các lực lượng
tham gia còn mỏng, phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác quản lý cịn thiếu
thốn cho nên tình trạng bn lậu, trốn thuế, vận chuyển hàng hố trái phép
qua biên giới cịn phổ biến, khó kiểm sốt, thậm chí nhập khẩu cả hàng hoá
21
kém chất lượng, hàng quốc cấm, tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh cho thị
trường trong nước.
Cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề sau Chiến tranh biên giới năm 1979.
Sau gần 10 năm từ khi tái lập tỉnh, Lào Cai đã phối hợp chặt chẽ với các bộ,
ngành Trung ương để xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là giao
thơng vận tải cịn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát
triển kinh tế của địa phương. Đoạn đường từ Lào Cai đến Hà Nội đang xuống
cấp, đường cong nhiều, mặt đường hẹp gây khó khăn cho việc chun chở
hàng hố và hành khách. Đường sắt khổ 1m, được xây dựng từ thời Pháp
thuộc, hiện nay đang chuyên chở tới 70% tổng lượng hàng hoá nhưng đã cũ,
sức vận tải thấp, thiếu toa xe, tốc độ luân chuyển khá chậm. Đường sông Lào
Cai chưa thực sự phát triển do có nhiều ghềnh thác chưa được chỉnh trị nên
khả năng vận tải thấp. Mạng lưới dịch vụ (ngân hàng, bưu điện, nhà hàng,
khách sạn, cảng, chợ, kho chứa hàng, điện, nước, thông tin) đã được nâng
cấp, xây dựng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Sự lạc hậu của hệ
thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông đã hạn chế quá trình phát triển kinh
tế - thương mại tại Cửa khẩu quốc tế Lào Cai.
Có thể nói, giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000, Khu KTCK Lào Cai
đang ở giai đoạn khởi đầu, cơ sở hạ tầng và thể chế quản lý chưa hồn thiện,
chủ trương, chính sách cịn thiếu, chưa đồng bộ,... Vì vậy, để Khu KTCK Lào
Cai thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói
riêng và cả nước nói chung thì Đảng bộ tỉnh Lào Cai cần quán triệt, vận dụng
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với thực tiễn đại
phương, lãnh đạo phát triển khu KTCK nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế của
tỉnh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
22
1.1.3. Yêu cầu khách quan hình thành, phát triển Khu kinh tế cửa
khẩu Lào Cai
*Bối cảnh quốc tế và khu vực địi hỏi hình thành, phát triển khu
kinh tế cửa khẩu
Bước sang thế kỷ XXI, tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra
một cách mạnh mẽ. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực
phát triển kinh tế - thương mại năng động nhất với sự cất cánh kinh tế của
nhiều quốc gia. Khu vực này tập trung nhiều cường quốc kinh tế lớn như Nhật
Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên bang Nga và nhiều nước công nghiệp mới như
Hàn Quốc, Singapore,... Tại đây đã hình thành nhiều tổ chức liên kết kinh tế
khu vực: Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Khu
vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Khu vực Thương mại tự do ASEAN Trung Quốc (CAFTA); Hợp tác các nước GMS... Những hình thức liên kết
kinh tế nói trên sẽ tạo thêm cơ hội cho Việt Nam và các quốc gia trong khu
vực tận dụng những thời cơ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời tạo
ra sức mạnh của khu vực trong việc cạnh tranh với các khu vực khác.
Bối cảnh quốc tế thuận lợi là một trong những điều kiện quan trọng để
Việt Nam và Trung Quốc tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, địa phương dọc tuyến biên
giới của cả hai nước. Mặt khác, phát triển Khu KTCK Lào Cai sẽ tạo cơ hội
để hai nước mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
* Khu KTCK là động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai
Lào Cai là tỉnh nghèo, nhiều dân tộc, trình độ dân trí hạn chế, đời sống
nhân dân cịn nhiều khó khăn: Tổng thu nhập quốc dân (GDP) bình quân đầu
người thấp (bằng trên 40% của cả nước), tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí mới
tương đối cao (41,03%), cơ sở hạ tầng kinh tế, nhất là giao thông lạc hậu, kém
23
phát triển, là một trong 6 tỉnh miền núi phía Bắc đang gặp nhiều khó khăn
nhất cả nước. Do đó, hình thành, phát triển Khu KTCK Lào Cai, đưa khu
KTCK thực sự là mũi nhọn, động lực để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá, đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hố, góp phần nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân là vấn đề cấp bách. Để thực hiện
được mục tiêu trên, cần tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng khu KTCK hiện đại,
cơ chế, chính sách ưu đãi nổi bật, thơng thống, đủ sức hấp dẫn các nhà đầu
tư, trong và ngoài nước đến sản xuất kinh doanh. Đây là yêu cầu không thể
thiếu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và
cả nước nói chung
* Khai thác, phát huy lợi thế của Khu KTCK Lào Cai đối với các địa
phương trong nước và các quốc gia trong khu vực (đặc biệt là vùng Tây
Nam - Trung Quốc).
Cửa khẩu quốc tế Lào Cai là cửa khẩu duy nhất giữa Việt Nam - Trung
Quốc hội tụ đầy đủ các loại hình vận tải, là lối mở ngắn nhất, thuận lợi nhất
để tỉnh Vân Nam nói riêng, vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc nói
chung ra các cảng biển, nối với vùng Đông Nam Á và cả thế giới. Nếu đi
bằng đường sắt từ thành phố Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam) qua Lào Cai
về cảng biển Hải Phịng dài 854 km, trong khi đó tuyến đường sắt nội địa
ngắn nhất đi từ Côn Minh ra cảng Phòng Thành tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc
dài hơn 1.800 km; tuyến đường bộ hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà
Nội - Hải Phòng cũng là tuyến đường ngắn nhất, thuận tiện nhất để vận
chuyển hàng hoá XNK, quá cảnh từ Vân Nam qua Việt Nam ra các nước thứ
ba và ngược lại; tuyến đường sông Hồng - con sông cái của vùng đồng bằng
Bắc Bộ Việt Nam được bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc qua Lào Cai
về Hà Nội cũng là tuyến giao thông quan trọng. Nếu được khai thông, nạo
24
vét, tuyến giao thông đường thủy này sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong việc
vận chuyển hàng hoá, phục vụ du lịch cho cả hai bên.
Cửa khẩu quốc tế Lào Cai là cửa khẩu duy nhất ở phía Bắc Việt Nam
nằm trong lòng một thành phố trực thuộc tỉnh, nên có hệ thống cơ sở hạ tầng
và dịch vụ tương đối đồng bộ đáp ứng tốt cho nhu cầu giao lưu thương mại,
XNK, quá cảnh và du lịch giữa hai nước.
Song song với những thuận lợi trên, đối diện với cửa khẩu Lào Cai là
cửa khẩu Hà Khẩu của cả vùng Tây Nam - Trung Quốc rộng lớn. Đây là vùng
miền núi, nhiều dân tộc, trình độ sản xuất và mức sống của nhân dân chưa
phát triển bằng vùng duyên hải Trung Quốc như: Quảng Đông, Phúc Kiến,
Thượng Hải. Nhằm cải thiện đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giàu
nghèo giữa miền Đông và miền Tây, những năm gần đây, Đảng và Chính phủ
Trung Quốc đã tiến hành triển khai chiến lược "Đại khai phá miền Tây", với
nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, tập trung nguồn vốn lớn để xây dựng cơ
sở hạ tầng, phát triển kinh tế - thương mại cho vùng này. Nhu cầu về hàng hoá
ở đây rất đa dạng nhưng yêu cầu về tiêu chuẩn, chất lượng hàng hố lại khơng
cao, phù hợp với trình độ sản xuất hàng hố hiện có của Việt Nam. Vì vậy,
Tây Nam là một trong những thị trường giàu tiềm năng đối với các doanh
nghiệp Việt Nam, phát triển Khu KTCK Lào Cai là cơ hội hữu ích, thiết thực
cho cả phía Việt Nam và Trung Quốc.
* Đáp ứng yêu cầu đổi mới, cải cách, mở cửa của Việt Nam và
Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước đang thực hiện đường lối đổi
mới, mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Những
năm gần đây, Đảng và Chính phủ hai nước đã có những chủ trương, chính
sách thể hiện sự quyết tâm đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, trao đổi kinh tế thương mại biên giới cho tương xứng với tầm quan hệ hai nước, đặc biệt là
25
mơ hình hợp tác “Hai hành lang, một vành đai”. Trong mối quan hệ này thì
tỉnh Vân Nam và các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam đóng vai trị hết sức
quan trọng vì đây là một thị trường rộng lớn đang phát triển của hai nước:
phía Trung Quốc là khu vực Tây Nam, cịn phía Việt Nam là vùng miền núi
phía Bắc và tồn bộ vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Mở cửa vùng Tây Nam nằm trong chiến lược phát triển kinh tế tổng
thể của Trung Quốc. Từ năm 1984 đến nay, Trung Quốc đã có chủ trương,
chính sách mở cửa và ưu đãi đặc biệt đối với khu vực này, nhất là các tỉnh
như Vân Nam, Quảng Tây. Chiến lược mở cửa của Trung Quốc được thực
hiện với phương châm: "Mở cửa liên kết với bên ngồi, có chính sách ưu đãi,
trao quyền tự chủ cho các địa phương ven biên giới, lấy mở cửa hướng về
Đông Nam Á làm trọng điểm nhằm mở rộng thị trường sang các nước láng
giềng, trước hết là các nước Đông Dương, Mianma" [46, tr.36]. Thực hiện
chiến lược "Đại khai phá miền Tây", Trung Quốc hết sức coi trọng tuyến giao
thông huyết mạch của vùng này qua cửa khẩu Lào Cai ra cảng Hải Phịng, vì
đây là cửa ngõ gần nhất để miền Tây Trung Quốc mở rộng trao đổi kinh tế thương mại với các nước trong khu vực và thế giới.
Các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam là cửa ngõ quan trọng trong quan
hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc. Do vậy, từ năm 2001 Đảng và Nhà
nước đã dành sự quan tâm và tập trung đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội khu
vực này. Một mặt nhằm khai thác, tận dụng tối đa lợi thế về điều kiện tự nhiên,
vị trí địa lý mà Tây Nam - Trung Quốc khơng có để đẩy mạnh phát triển
thương mại, dịch vụ, du lịch, đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của đất
nước; mặt khác nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, rút ngắn
khoảng cách về mức sống giữa miền núi với các vùng khác trong cả nước.
Như vậy, với định hướng chiến lược hai nước đã đưa ra thì việc hình
thành, phát triển Khu KTCK Lào Cai sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại