1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng đã và đang
mang lại những thành quả to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Những năm
qua, đất nước ta đã từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo
được những tiền đề và điều kiện cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển
mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh".
Qua hơn 20 năm đổi mới tồn diện đất nước với trọng tâm là cải cách
kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với "chủ trương thực hiện nhất quán và
lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa" [6, tr.86] và từng bước chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Nền kinh tế Việt Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đã đạt được
những thành tựu nhất định, các quan hệ kinh tế trở nên sôi động, đa dạng và
phức tạp tác động sâu sắc đến hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật
kinh tế nói riêng. Cũng vì vậy mà tranh chấp kinh tế (TCKT) phát sinh ngày
một nhiều hơn, đa dạng về chủng loại và phức tạp về nội dung. Mặt khác khi
nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiều quan hệ kinh tế
xuất hiện với những sắc thái diện mạo mới. Song song với sự đa dạng phong
phú của các quan hệ này, các TCKT ngày càng mn hình mn vẻ, số
lượng các tranh chấp phát sinh ngày càng lớn thì hoạt động giải quyết TCKT
ngày càng bộc lộ nhiều bất cập: Quan niệm về TCKT không rõ ràng và thiếu
nhất quán; thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế còn phức tạp và thường bị
kéo dài, phán quyết nhiều khi khơng chính xác; khả năng thi hành kết quả
giải quyết tranh chấp trong thực tế rất hạn chế. Hậu quả là quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp không được bảo vệ triệt để, ý thức tôn
2
trọng pháp luật của các chủ thể kinh doanh không được đề cao, nhiều lực cản
đối với việc hoàn thiện môi trường kinh doanh trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế đã xuất hiện.
Vĩnh Phúc từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997) cũng khơng nằm ngồi quy
luật phát triển đó. Để theo kịp những yêu cầu phát triển trong thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, với những thành tựu mang tính bản lề
trong khoảng hơn 20 năm đổi mới Vĩnh Phúc đang hướng tới những mục tiêu
chiến lược trong việc phát triển kinh tế nhanh, mạnh và bền vững. Cùng với
việc phát triển kinh tế, các mối quan hệ pháp luật qua các giao dịch kinh tế,
thương mại cũng trở nên rất đa dạng và phức tạp. Các hợp đồng mua bán có
giá trị lớn và rất lớn liên quan đến các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước
được ký kết và thực hiện nhưng các điều kiện về pháp luật được ghi trong hợp
đồng chưa bảo đảm, thiếu tính cụ thể và chặt chẽ, rất dễ phát sinh tranh chấp gây
thiệt hại cho các bên và gây ra các tiêu cực cho xã hội. Số lượng tranh chấp trong
lĩnh vực kinh tế, thương mại trong những năm gần đây ngày càng tăng, các loại
tranh chấp ngày càng phong phú, đa dạng và không kém phần phức tạp địi hỏi
phải được giải quyết chính xác, nhanh chóng, dân chủ, cơng bằng, hiệu quả và
thỏa đáng; bằng một phương thức thích hợp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên, góp phần tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, thuận
lợi.
Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc trong giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại thời gian qua: hầu
hết các bản án và quyết định của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, khách
quan, dân chủ, thấu tình đạt lý, đúng thời hạn luật định và có tính giáo dục ý
thức tơn trọng pháp luật trong quần chúng nhân dân. Chính điều này đã góp
phần rất quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội
trên địa bàn tỉnh, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
3
các cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên số lượng các vụ
án bị hủy hoặc bị cải sửa do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và do áp
dụng sai pháp luật về nội dung trong q trình xét xử khơng nhiều nhưng vẫn
là nhược điểm lớn trong hoạt động xét xử. Có khơng ít trường hợp vụ án đã
được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm
và hồn tồn khơng có căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm nhưng các đương
sự vẫn khiếu nại kéo dài ở nhiều cấp, nhiều ngành, tới nhiều cơ quan lãnh đạo
với hy vọng để được xem xét lại. Có những vụ án có sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật, đánh giá chứng cứ, nhưng hết thời hiệu xem xét lại hoặc
khơng cịn cấp xét xử để xem xét.
Vì vậy, thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
ngành Tòa án nhân dân cả nước nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng đã và
đang đặt ra những yêu cầu vừa cấp bách, vừa lâu dài để không ngừng nâng
cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án trong quá trình thực hiện cải
cách tư pháp ở nước ta theo đúng đường lối của Đảng.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định "đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù
hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế" [6, tr.329]. Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"
đã đề ra yêu cầu cấp bách là "xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các
hình thức giải quyết tranh chấp như hịa giải, trọng tài, nhằm góp phần xử lý
đúng và nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và
giảm nhẹ cơng việc cho tịa án và cơ quan nhà nước khác" [10]. Nhiệm vụ
trong tình hình mới là phải bảo đảm tính dân chủ và tính khách quan trong
hoạt động tư pháp, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc hiến định như mọi
4
cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải thực sự độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Bản án và quyết định của Tòa án phải thực sự là kết quả của
việc xem xét, thẩm tra, đối chiếu, đánh giá các chứng cứ tài liệu đã thu thập
được trong hồ sơ và qua tranh tụng cơng khai tại phiên tịa. Như vậy, chất
lượng áp dụng pháp luật trong trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế của
Tòa án nhân dân nhân dân là một trong những yếu tố quan trọng và có tính
chất quyết định chất lượng trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế của Tòa án
nhân dân nhân dân.
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử nói chung, làm rõ các khía cạnh pháp lý của TCKT và giải
quyết TCKT nói riêng từ đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong giải
quyết các TCKT trong thời gian qua để tìm ra nguyên nhân của những khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết TCKT, chú trọng phát huy những
kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế, nhược điểm trong hoạt động
này đã và đang trở thành yêu cầu cấp thiết của ngành Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
Xuất phát từ vị trí, vai trị và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp
kinh tế tại Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Tác giả lựa chọn đề tài "Áp dụng
pháp luật trong giải quyết tranh chấp kinh tế của Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc" làm luận văn thạc sĩ luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà
nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Áp dụng pháp luật trong giải quyết TCKT luôn thu hút được sự quan
tâm không chỉ của nhiều nhà khoa học pháp lý mà còn của các nhà kinh
doanh, các doanh nghiệp. Bởi vậy đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ở các
cấp độ khác nhau về các khía cạnh pháp lý của TCKT, giải quyết TCKT và áp
5
dụng pháp luật trong giải quyết các TCKT. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp bộ của
Bộ Tư pháp "Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam hiện
nay" (1999), Đề tài khoa học cấp bộ của Tịa án nhân dân tối cao (2001)
"Tính đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động - Những
vấn đề lý luận và thực tiễn". Bên cạnh đó cịn một số luận văn thạc sĩ và luận
án tiến sĩ cũng đề cập đến khía cạnh nhất định của nội dung áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết TCKT, của TS. Đào Văn Hội “Giải quyết tranh chấp
kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam”; của Phan Thị Hương
Thủy "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi"; của Chu Đức Thắng “Áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Toà án nhân dân cấp tỉnh ở
Việt Nam hiện nay”. Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết đề cập đến các vấn đề của
TCKT và giải quyết TCKT như các bài "Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án và Trọng tài" của GS.TSKH Đào
Trí Úc, "Về mối quan hệ giữa tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế" của TS. Phạm
Duy Nghĩa, "Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay" của PGS.TS Phạm Hữu Nghị, "Hòa giải, thương lượng trong
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế" của TS. Trần Đình Hảo, "Tăng
cường vai trị của Tịa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế" của TS. Phan
Chí Hiếu, “Bản chất của hồ giải trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế tại
Toà án” của Thạc sỹ Đào Xuân Lan, “Những bất cập của pháp luật về thẩm
quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án” của Thạc sỹ Nguyễn Thị Kim
Vinh…
Trong những mức độ nhất định, các cơng trình nói trên đã đề cập từng
khía cạnh riêng biệt về áp dụng pháp luật hoặc về TCKT, từng phương thức
giải quyết tranh chấp kinh tế chứ chưa đặt vấn đề nghiên cứu một cách hệ
thống và toàn diện về áp dụng pháp luật trong việc giải quyết TCKT. Luận
văn là cơng trình khoa học đầu tiên ở cấp độ thạc sĩ nghiên cứu một cách cụ
6
thể và toàn diện về áp dụng pháp luật trong việc giải quyết TCKT tại Toà án
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, đánh giá sự ảnh hưởng của quá trình phát triển kinh
tế trên địa bàn tỉnh đến quan niệm về TCKT và giải quyết TCKT, chỉ ra các
đặc thù của hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp và mối
liên hệ giữa chúng, đánh giá hoạt động giải quyết TCKT trong thời gian qua
và đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết
TCKT.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn:
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TCKT,
giải quyết TCKT và áp dụng pháp luật trong TCKT tại Toà án; đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật về giải quyết TCKT tại Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc trong thời gian qua. Với những mục đích nghiên cứu như vậy, luận văn
phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bản chất pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT;
- Xây dựng khái niệm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết TCKT
tại Tòa án nhân dân, đặc điểm và các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải
quyết TCKT của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc cũng như mối liên hệ giữa
chúng với nhau.
- Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật trong giải
quyết TCKT tại Tòa án nhân dân. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong
giải quyết TCKT ở tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua từ đó chỉ rõ các vướng
mắc, bất cập trong hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết TCKT.
- Khẳng định sự cần thiết phải nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật
trong giải quyết TCKT đồng thời đưa ra phương hướng và các giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết TCKT của
Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
7
Hoạt động áp dụng pháp luật của Toà án nhân dân trong việc giải
quyết TCKT mang tính đặc thù riêng và là một vấn đề rộng. Nhưng trong
khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật học, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu làm rõ
các khía cạnh pháp lý về TCKT và giải quyết TCKT với nội dung trọng tâm là
đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết TCKT của
Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2005 đến nay. Trên cơ sở đó đưa ra
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết
TCKT của Toà án nhân tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và ngành Tồ án nhân dân
nói chung. Nhận thức tầm quan trọng hoạt động áp dụng pháp luật của tòa án
đối với việc giải quyết TCKT trong điều kiện thực tế tại tỉnh Vĩnh Phúc, luận
văn tập trung nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong giải quyết TCKT của
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh để luận giải mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ
sở hạ tầng, mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật, vai trò của hoạt động áp
dụng pháp luật trong việc điều chỉnh quan hệ phát sinh trong việc giải quyết
tranh chấp kinh tế. Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
đường lối đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam luận văn đã đề xuất phương hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật về
giải quyết TCKT nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ
thống hóa, khảo sát thực tiễn. Phương pháp so sánh luật học được sử dụng
để tham khảo kinh nghiệm giải quyết TCKT ở nước ngồi. Luận văn sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa để làm rõ các quy
định của pháp luật hiện hành về TCKT, chỉ ra các bất cập của pháp luật và
đề xuất giải pháp khắc phục.
8
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới sau đây:
- Luận văn xây dựng được khái niệm về TCKT, giải quyết TCKT, áp
dụng pháp luật trong giải quyết TCKT, vai trò từng giai đoạn áp dụng pháp
luật, vai trị của Tồ án trong giải quyết TCKT.
- Thơng qua các ví dụ thực tiễn, luận văn đã đánh giá một cách toàn
diện thực trạng giải quyết TCKT qua các giai đoạn áp dụng pháp luật của tòa
án; chỉ ra các bất cập, vướng mắc trong pháp luật về giải quyết TCKT và phân
tích nguyên nhân của những bất cập, vướng mắc đó.
- Trên cơ sở các quan điểm, phương hướng hoàn thiện cơ chế giải
quyết TCKT, luận văn đã đưa ra những đề xuất mới nhằm nâng cao hiệu quả
của việc áp dụng pháp luật và hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKT trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một công trình khoa học trình bày một cách cụ thể về TCKT
và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết TCKT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát
triển lý luận phục vụ yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết TCKT của Tịa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc. Góp phần nâng cao nhận thức của những người trực tiếp làm cơng
tác xét xử của ngành Tồ án nhân dân trong việc giải quyết các TCKT và làm
phong phú thêm cơ sở khoa học cho tiến trình cải cách tư pháp nói chung.
Nội dung luận văn cũng có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và các cán bộ làm công tác xét xử tại Toà án nhân dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
9
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM TRANH CHẤP KINH TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH TẾ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh tế
Ở nước ta, khái niệm về tranh chấp kinh tế (TCKT) có những điểm
khác nhau qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Trong cơ chế kinh tế
kế hoạch tập trung, nền kinh tế được quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là
chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống. Nhà nước can
thiệp khá sâu vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Sản xuất cái
gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai đều do Nhà nước quyết định. Nhà
nước vừa hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mơ vừa trực tiếp chỉ đạo các
đơn vị kinh tế cơ sở thực hiện các kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đặc điểm nổi
bật của cơ chế kinh tế này là vai trò tuyệt đối của Nhà nước, trong đó có các
Bộ, Tổng cục, ủy ban nhân dân, các cơ sở chuyên môn… là chủ thể chi phối
các quan hệ kinh tế. Các chủ thể kinh doanh khá đơn điệu về hình thức tổ
chức pháp lý, hầu hết là các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã.
Để thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch do Nhà nước giao, các đơn vị kinh
tế cơ sở cần phải ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế (HĐKT). Tuy
nhiên, HĐKT trong thời kỳ này khơng chỉ là một hình thức pháp lý để triển
khai các hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế mà cịn được
sử dụng như một cơng cụ quản lý kinh tế của Nhà nước. Ký kết và thực hiện
HĐKT là một kỷ luật bắt buộc chứ khơng xuất phát từ lợi ích kinh tế cụ thể
của các đơn vị kinh tế. Bởi vậy, các chủ thể tham gia ký kết HĐKT không
quan tâm nhiều đến việc hợp đồng có được thực hiện đầy đủ hay khơng, vì
thực hiện hay khơng thực hiện cũng khơng ảnh hưởng đến "túi tiền của họ,
11
đằng nào Nhà nước cũng bao cấp" [21, tr.17]. Trách nhiệm thực hiện hợp
đồng giữa các bên tham gia quan hệ với nhau không được coi trọng bằng
trách nhiệm của các bên đối với cơ quan chủ quản của mình. Điều đó có nghĩa
là trách nhiệm phát sinh do vi phạm HĐKT nhẹ về yếu tố tài sản (vật chất) mà
nặng về tính chất hành chính [17, tr.16].
Nghiên cứu lịch sử phát triển của pháp luật về HĐKT và pháp luật về
giải quyết tranh chấp HĐKT, chúng ta thấy: Trước khi ban hành bản điều lệ
tạm thời về hợp đồng kinh doanh kèm Nghị định số 735/TTg ở nước ta khơng
có sự phân biệt HĐKT với hợp đồng dân sự; bởi vậy cũng khơng có sự phân
biệt giữa TCKT với các loại tranh chấp mang tính chất tài sản khác. Các tranh
chấp mang yếu tố tài sản được giải quyết theo một thủ tục chung tại tòa án.
Cùng với sự ra đời của Bản điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh đã xuất
hiện khái niệm "hợp đồng kinh doanh". Lẽ đương nhiên, tranh chấp phát sinh
từ việc ký kết và thực hiện loại hợp đồng này được gọi là tranh chấp kinh
doanh. Các tranh chấp kinh doanh chủ yếu được giải quyết bởi một số cơ
quan hành pháp. Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp kinh doanh theo sự khởi tố
của các cơ quan đăng ký kinh doanh trong một số trường hợp cần thiết.
Ngày 04/1/1960, Nhà nước ta ban hành Bản điều lệ tạm thời về HĐKT
kèm Nghị định số 04/TTg. Thuật ngữ "hợp đồng kinh tế" ra đời và chính thức
được sử dụng trong các văn bản pháp luật sau đó như: Nghị định số 54/CP
ngày 10/3/1975 ban hành Điều lệ về chế độ HĐKT; Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế ngày 25/9/1989. Cùng với khái niệm HĐKT, khái niệm tranh chấp kinh
doanh cũng được thay thế bằng khái niệm TCKT, mà thực chất là tranh chấp
HĐKT. Các tranh chấp loại này được giải quyết bằng trọng tài kinh tế, với tư
cách là một cơ quan quản lý nhà nước.
Như vậy, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan hệ kinh
tế vốn dĩ khá đơn giản về nội dung và thành phần chủ thể, lại được điều hành
12
thống nhất bởi Nhà nước, nên các TCKT xuất hiện không nhiều và chủ yếu là
các tranh chấp phát sinh từ HĐKT được ký kết giữa các đơn vị kinh tế XHCN
với nhau để triển khai các kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê duyệt
từ trước.
Từ năm 1986, nước ta khởi động quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường địi hỏi phải xóa bỏ chế độ
độc tơn của một hình thức sở hữu, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các
thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế đang chuyển đổi xuất hiện ngày càng
nhiều các chủ thể kinh doanh. Bên cạnh các chủ thể kinh doanh truyền thống
là doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã cịn xuất hiện doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu
tư nước ngồi), doanh nghiệp tư nhân, các loại hình công ty và hộ kinh doanh
cá thể. Các quan hệ kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức ngày
càng phong phú và tính chất ngày càng phức tạp. Bên cạnh các quan hệ kinh
tế phát sinh từ hợp đồng cịn có các quan hệ kinh tế xuất hiện từ hoạt động
đầu tư vốn vào kinh doanh thông qua việc góp vốn thành lập cơng ty hay việc
sở hữu cổ phiếu, trái phiếu do công ty phát hành.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, Nhà nước không can thiệp
trực tiếp và sâu vào hoạt động kinh doanh hợp pháp của các chủ thể kinh tế.
Bằng các chính sách và pháp luật, Nhà nước tạo lập một môi trường kinh
doanh lành mạnh để các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp được xây
dựng và thực hiện trên cơ sở ngun tắc tự do, bình đẳng, cùng có lợi và tự
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Việc thiết lập hay khơng
thiết lập quan hệ kinh tế hoàn toàn xuất phát từ kế hoạch kinh doanh cụ thể
của từng đơn vị và vì lợi ích cá biệt của chúng. Kinh doanh đúng pháp luật để
đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu tối thượng của các doanh nghiệp. Tình hình đó
làm phát sinh rất nhiều tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các quyền và
13
nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các quan hệ kinh tế. Điều đó đồng thời
đặt ra nhu cầu phải mở rộng nội hàm của khái niệm TCKT.
Mặc dù các TCKT đã xuất hiện từ lâu trong đời sống kinh tế và pháp lý
của nước ta, nhưng khái niệm loại tranh chấp này chưa được sử dụng một
cách thống nhất; nội hàm của khái niệm cũng chưa được xác định chính xác.
Trong từng ngữ cảnh cụ thể, để chỉ các xung đột về lợi ích giữa các tổ chức,
cá nhân khi họ tham gia các quan hệ kinh tế, người ta đang sử dụng những
thuật ngữ khác nhau như: TCKT, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp thương
mại.
Đến năm 1994 khái niệm TCKT được đề cập trong Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994. Theo Điều 12 (PLTTGQCVAKT) và
Nghị định 116/CP ngày 05/9/1994 đã liệt kê các tranh chấp sau đây được coi là
TCKT thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa kinh tế và trọng tài kinh tế:
1. Các tranh chấp về HĐKT giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp
nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh;
2. Các tranh chấp giữa cơng ty với các thành viên của công ty, giữa
thành viên của công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể
công ty;
3. Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
4. Các TCKT khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, theo Điều 87 PLTTGQCVAKT thì Tịa án Việt Nam có thể
giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế các TCKT tại Việt Nam, nếu một hoặc
các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Các tranh chấp này có
thể là tranh chấp hợp đồng, tranh chấp trong nội bộ công ty hoặc tranh chấp
liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Như vậy, theo quy định của PLTTGQCVAKT thì TCKT được hiểu theo
14
nghĩa rất hẹp, không bao quát hết các tranh chấp đã và sẽ phát sinh trong quá
trình đổi mới quản lý kinh tế ở Việt Nam. Thực chất, TCKT là một khái niệm
có nội hàm rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế chứ khơng
chỉ bao gồm các tranh chấp kinh tế nêu trên. Do đó rất nhiều loại tranh chấp
phát sinh từ quan hệ kinh doanh nhưng không được coi là TCKT và không
được giải quyết bằng thiết chế tài phán kinh doanh là những thiết chế giải
quyết tranh chấp linh hoạt, nhanh chóng, chính xác và điều này dẫn đến lợi
ích của các bên tranh chấp không được bảo đảm triệt để, dẫn đến nguy cơ tạo
ra những rào cản đối với quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, trong bối cảnh pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, pháp luật quốc
tế và tập quán thương mại quốc tế đều quan niệm TCKT theo nghĩa rộng.
Khi Luật Thương mại ngày 10/5/1997 ra đời thì trong pháp luật thực
định của nước ta còn xuất hiện thêm khái niệm tranh chấp thương mại . Nhiều
người cho rằng đã xuất hiện thêm một loại tranh chấp mới, tồn tại độc lập bên
cạnh TCKT và tranh chấp dân sự là tranh chấp thương mại. Về mối tương
quan giữa "tranh chấp kinh tế" và "tranh chấp thương mại" có quan điểm cho
rằng: Tranh chấp thương mại là một dạng của TCKT bởi chúng đều phát sinh
từ hoạt động kinh doanh và có quan hệ mật thiết với hoạt động này. Theo
Điều 238 Luật Thương mại năm 1997 thì tranh chấp thương mại là tranh chấp
phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong
hoạt động thương mại. Tức là sự thỏa thuận giữa thương nhân với thương
nhân, thương nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại. Nói đến hợp đồng trong hoạt
động thương mại là nói đến những hợp đồng riêng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại, cũng giống như khi ta nói đến hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng
(hợp đồng xây dựng), hợp đồng trong lĩnh vực vận chuyển (hợp đồng vận
15
chuyển), hợp đồng trong lĩnh vực bảo hiểm (hợp đồng bảo hiểm), hợp đồng
trong lĩnh vực tín dụng (hợp đồng tín dụng)...
Khi thỏa mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp đồng
theo quy định hiện hành thì hợp đồng trong hoạt động thương mại mang tính
chất của HĐKT. Ví dụ: các hợp đồng trong hoạt động thương mại được ký kết
bằng văn bản giữa các thương nhân, trong đó ít nhất một bên là pháp nhân, để
phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Các trường hợp khác, hợp đồng trong hoạt
động thương mại mang tính chất của hợp đồng dân sự. Ví dụ: Những hợp
đồng trong hoạt động thương mại được ký kết giữa các thương nhân khơng có
tư cách pháp nhân; giữa thương nhân với công dân hay những hợp đồng
không được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Như vậy, tranh chấp thương mại, xét về tính chất là tranh chấp hợp
đồng; xét về nội dung là tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh
thương mại như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại hay các
hoạt động xúc tiến thương mại; xét về chủ thể là tranh chấp giữa thương nhân
(một loại chủ thể kinh doanh thực hiện các hoạt động thương mại một cách
độc lập và thường xuyên) với thương nhân, thương nhân với các bên có quan
hệ với thương nhân trên cơ sở hợp đồng.
Khi đề cập tới khái niệm TCKT, tranh chấp kinh doanh, Giáo trình Luật
Kinh tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội viết:
Các tranh chấp kinh tế trong kinh doanh ở phạm vi nhất định có sự
khác biệt với tranh chấp kinh tế. Khái niệm kinh tế cũng như "quan hệ kinh
tế" thông thường được hiểu rộng hơn khái niệm "kinh doanh" với "quan hệ
kinh doanh". Trong kinh tế có sự bao hàm cả yếu tố quản lý và yếu tố chính
trị - xã hội khác liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó,
kinh doanh chỉ là một hoạt động mang tính nghề nghiệp như sản xuất, bn
bán, dịch vụ... gắn với mục đích lợi nhuận. Do tính chất của quan hệ kinh
16
doanh như vậy, việc giải quyết trong kinh doanh cũng mang những đặc thù
nhất định so với giải quyết tranh chấp kinh tế nói chung [40, tr.307-364].
Theo quan niệm này thì rõ ràng khái niệm TCKT mang nội hàm rộng
hơn khái niệm tranh chấp kinh doanh.
Cuốn "Tìm hiểu luật kinh tế Việt Nam" sử dụng thuật ngữ "tranh chấp kinh
tế", "tranh chấp kinh doanh" hầu như khơng có sự phân biệt [37, tr.187-194].
Trong cuốn sách "Hợp đồng kinh tế và vấn đề giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước
ta hiện nay" các tác giả cho rằng: "Từ trước đến nay, nói đến tranh chấp kinh
tế thì thường chỉ nghĩ đến tranh chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế" [24, tr.51].
Gần như tương đồng với quan điểm này một số tác giả cho rằng "về mặt lý
thuyết sẽ là khó xác định được bản chất của tranh chấp kinh tế nếu thiếu một khái
niệm chính xác về hợp đồng kinh tế, bởi vì hầu hết các tranh chấp kinh tế đều phát
sinh từ việc ký kết, thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng kinh tế" [23, tr.35].
Khái niệm TCKT cịn có thể được tiếp cận dưới góc độ pháp luật tố
tụng. Trong nhiều trường hợp thì pháp luật tố tụng đã mở ra cách tiếp cận dễ
hơn với khái niệm "tranh chấp kinh tế" [4, tr.48]. Với cách tiếp cận này,
TCKT được hiểu là các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ
quan tài phán như tòa án và trọng tài. Pháp luật tố tụng chỉ ra một số nhóm
tranh chấp mang tính chất kinh tế được giải quyết theo thủ tục tư pháp (Tòa
án) và theo thủ tục trọng tài. Việc xem xét các TCKT nào thuộc thẩm quyền
giải quyết của Trọng tài (phi Chính phủ) hoặc được tòa án giải quyết theo thủ
tục tố tụng kinh tế cần xem xét đến các văn bản về tố tụng kinh tế hiện hành
như: Bộ luật tố tụng dân sự (2004), Pháp lệnh Trọng tài thương mại (2003),
Nghị định số 45/2004/NĐ - CP quy định chi tiết pháp lệnh.
Từ sự phân tích nói trên, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng tranh
chấp thương mại thực chất là một dạng của TCKT theo nghĩa rộng. Tuy
nhiên, cũng cần lưu ý rằng không phải mọi tranh chấp thương mại thuộc thẩm
17
quyền giải quyết của tòa án Việt Nam đều được giải quyết theo quy định tại
Điều 29, 30 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tiếp cận khái niệm TCKT hiểu theo nghĩa rộng, theo tác giả thì TCKT
là những mâu thuẫn hay bất đồng liên quan đến quyền và lợi ích kinh tế của
các tổ chức, cá nhân khi tham gia các quan hệ kinh tế.
Từ khái niệm đó chúng ta thấy TCKT có các dấu hiệu pháp lý cơ bản
sau đây:
Thứ nhất: TCKT phát sinh trực tiếp từ các quan hệ kinh tế và có liên
quan mật thiết đến hoạt động kinh doanh.
Quan hệ kinh tế là những quan hệ được thiết lập giữa các chủ thể kinh
doanh hoặc giữa các bên có liên quan trong q trình các chủ thể kinh doanh
tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Kinh doanh hiện nay được hiểu
với nội hàm rất rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động từ đầu tư vốn đến sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi. Đây là những quan hệ có tính chất tài sản với mục đích phục vụ
kinh doanh, thu lợi nhuận. Đó có thể là hoạt động đầu tư vốn (góp vốn vào
công ty hay mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoán khác); hoạt
động sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội hay hoạt động mua
bán, trao đổi và cung ứng các loại dịch vụ.
So với hoạt động dân sự thì các hoạt động kinh doanh mang nhiều đặc
thù: mục đích của việc thực hiện các hoạt động kinh doanh là lợi nhuận; chủ
thể thực hiện các hoạt động kinh doanh là tổ chức, cá nhân thỏa mãn các điều
kiện do pháp luật quy định và được Nhà nước thừa nhận là chủ thể kinh
doanh; các hoạt động kinh doanh thường gắn liền với việc dịch chuyển những
giá trị tài sản lớn. Chính đặc thù này làm cho TCKT hoàn toàn khác với tranh
chấp dân sự, ngay cả đối với các tranh chấp mang yếu tố tài sản. Trong khi
các TCKT phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh khi chúng tiến hành các hoạt
18
động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận thì các tranh chấp dân sự thường chỉ phát
sinh giữa các tổ chức, cá nhân khơng có tư cách chủ thể kinh doanh khi chúng
tham gia quan hệ nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó mang tính sinh hoạt, tiêu
dùng. Việc thiết lập các quan hệ kinh doanh địi hỏi phải nhanh chóng, đơn
giản, linh hoạt. Bởi vậy, việc giải quyết tranh chấp từ các quan hệ này cũng
phải mềm dẻo, nhanh chóng, dứt điểm để hạn chế đến mức tối đa sự gián
đoạn trong quá trình kinh doanh. Vì lý do này mà các TCKT phải được giải
quyết bằng một cơ chế riêng so với việc giải quyết tranh chấp dân sự thông
thường.
Thứ hai: Việc giải quyết các TCKT luôn thuộc quyền tự định đoạt của
các bên tranh chấp.
Như phần trên đã trình bày, các TCKT phát sinh từ các quan hệ kinh
doanh. Các quan hệ kinh doanh được thiết lập giữa các chủ thể ở vị trí pháp lý
hồn tồn độc lập và bình đẳng với nhau. Đây là quan hệ theo chiều ngang và
mang yếu tố tài sản. Quan hệ kinh doanh được thiết lập giữa các chủ thể trên
nguyên tắc tự nguyện, tự do ý chí. Chính bởi lẽ đó mà khi tranh chấp phát
sinh, các bên cũng được toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến việc
giải quyết chúng. Các bên được tự thỏa thuận với nhau để lựa chọn phương
thức giải quyết phù hợp; được tự quyết định về nội dung tranh chấp; được tự
thương lượng, hòa giải với nhau ngay cả khi đã đưa tranh chấp ra cho một cơ
quan tài phán giải quyết. Chính đặc điểm này của TCKT quyết định tính đa
dạng của các phương thức giải quyết tranh chấp và nguyên tắc cơ bản nhất để
giải quyết TCKT là nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận.
Thứ ba: TCKT là những tranh chấp mang yếu tố tài sản và thường gắn
liền với giá trị tài sản lớn.
TCKT phản ánh các xung đột về mặt lợi ích kinh tế của các bên có liên
quan trong một quan hệ kinh tế nhất định. Yếu tố vật chất và lợi ích kinh tế
19
của nội dung TCKT là một đặc điểm riêng để phân biệt với các loại tranh
chấp khác trong đời sống xã hội. Yếu tố tài sản được quy định bởi tính chất,
mục đích của các quan hệ kinh tế trong xã hội. Giá trị vật chất (tài sản) của
các TCKT được các bên liên quan đưa ra yêu cầu các bên đối tác phải bồi
hoàn, khắc phục bằng những số liệu cụ thể (mức tiền bồi hoàn) số lượng, chất
lượng tài sản, hàng hóa cụ thể. Trong cơ chế thị trường, nhiều TCKT liên
quan đến giá trị tài sản lớn, hoặc liên quan đến trách nhiệm của nhiều chủ thể.
Việc giải quyết thỏa đáng tranh chấp có ảnh hưởng quan trọng đến quá trình
hoạt động kinh tế của các bên liên quan và đời sống kinh tế nói chung. Xuất
phát từ đặc điểm này của TCKT, đòi hỏi cơ chế giải quyết chúng phải nhanh
gọn, hiệu quả và bảo vệ một cách kịp thời quyền lợi kinh tế của các bên.
Dựa vào giá trị TCKT, các nhà làm luật đánh giá mức độ nghiêm trọng
và tính chất phức tạp của tranh chấp. Đây cũng là một trong những căn cứ xác
định thẩm quyền của cơ quan giải quyết đối với chúng. Ví dụ: TAND cấp
huyện chỉ được thụ lý xét xử những tranh chấp HĐKT có giá trị tranh chấp
dưới 50 triệu đồng (Điều 13 PLTTGQCVAKT). Những tranh chấp có giá trị
kinh tế lớn thường có tính chất phức tạp và hậu quả của việc giải quyết chúng
có những ảnh hưởng to lớn, thậm chí có tính chất quyết định đến sự tồn tại và
phá sản của một doanh nghiệp, do vậy nó phải được giải quyết bởi một đội
ngũ thẩm phán kinh tế có trình độ và kinh nghiệm cao. Giá trị vật chất của
TCKT còn là căn cứ để các cơ quan giải quyết TCKT tính mức lệ phí và các
chi phí các bên theo kiện phải gánh chịu tùy mức độ lỗi.
Thứ tư: Các bên có TCKT thường là các chủ thể kinh doanh. Thông
thường, các bên trong TCKT là các tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận
quyền kinh doanh. Bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Nhà
nước công nhận các tổ chức, cá nhân này đã hội đủ các điều kiện kinh tế và pháp
lý để tiến hành một loại hoạt động khá phức tạp trong xã hội là hoạt động kinh
doanh thu lợi nhuận. Chủ thể của TCKT thường là những người có trình độ hiểu
20
biết nhất định, thậm chí "tạo thành một giai tầng xã hội riêng, có nhu cầu thể
hiện riêng trước xã hội, Nhà nước và pháp luật... Họ có "luật chơi" và quy tắc xử
sự riêng" [30, tr.26]. Các chủ thể này hồn tồn ý thức được những quyền và lợi
ích hợp pháp nào của mình bị xâm hại và có khả năng tự bảo vệ cao. Họ lại
thông hiểu pháp luật và tập quán kinh doanh đồng thời rất coi trọng "chữ tín"
trong kinh doanh và có ý thức duy trì quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa các bên.
Chính đặc điểm này cho phép các bên tranh chấp sử dụng hiệu quả các
phương thức giải quyết tranh chấp theo con đường "hịa bình" là thương
lượng và trung gian hịa giải.
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án nhân dân
Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ "giải quyết" được hiểu là "làm cho
khơng cịn thành vấn đề nữa" [41, tr.338]. Hiểu theo nghĩa đơn giản nhất thì
giải quyết TCKT là tổng hợp những cách thức, biện pháp được áp dụng để
loại bỏ các mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích kinh tế phát sinh giữa các chủ thể
trong quá trình chúng tham gia vào các quan hệ kinh tế.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam nói chung và tỉnh
Vĩnh Phúc nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định, các quan hệ kinh
tế trở nên sôi động, đa dạng và phức tạp tác động sâu sắc đến hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật kinh tế nói riêng. Cũng vì vậy mà TCKT phát sinh
ngày một nhiều hơn, đa dạng về chủng loại và phức tạp về nội dung. Ngoài
các yếu tố thuận lợi trong các giao dịch đó là các bên nghiêm chỉnh thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào các quan hệ kinh tế và khi ký
kết các HĐKT thì trên thực tế cịn tồn tại rất nhiều các giao dịch kinh tế
không được một hoặc tất cả các bên đương sự trong giao dịch đó thực hiện tốt
theo quy định của pháp luật. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chủ yếu là
do:
21
Thứ nhất, khi khơng có sự đồng thuận giữa các bên đương sự về cách
thức giải quyết tranh chấp phát sinh thì một hoặc các bên đương sự khơng
muốn thực hiện đúng các quy phạm pháp luật kinh tế quy định về các loại vụ
việc đó vì nếu như vậy thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích tổ chức, cá nhân
tham gia ký kết hợp đồng kinh tế. Loại vi phạm này thường xảy ra trong quá
trình các tranh chấp mà các đương sự có sự hiểu biết nhất định về pháp luật.
Thứ hai, khi tham gia vào các quan hệ kinh tế hoặc khi ký kết các hợp
đồng kinh tế, không phải đương sự nào cũng biết hoặc cũng hiểu được các
quy phạm pháp luật của Bộ luật dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng,
Luật Các tổ chức tín dụng… cũng như các hướng dẫn thi hành những luật
trên, vì vậy họ hành xử một cách tự nhiên, bột phát theo thói quen cuộc sống
đời thường. Đây là tình trạng phổ biến nhất đối với các loại quan hệ pháp luật
dân sự nói chung cũng như quan hệ pháp luật về kinh tế nói riêng. Bên cạnh
đó, hệ thống quy phạm pháp luật về giải quyết các TCKT có số lượng lớn,
quy định lại chung chung, khơng rõ ràng nên cần có nhiều văn bản dưới luật
như Nghị định của Chính phủ; Thơng tư liên ngành; Nghị quyết của hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành.
- Khi các TCKT xảy ra, nếu các đương sự không tự giải quyết được thì
họ có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tịa án nhân dân cấp có thẩm quyền để
u cầu Tịa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Khi các TCKT xảy ra, nếu các đương sự khơng tự giải quyết được thì theo
quy định của pháp luật, đương sự có quyền lựa chọn các phương thức giải
quyết tranh chấp thơng qua trung gian hịa giải; trọng tài thương mại hoặc giải
quyết theo thủ tục tòa án.
Giải quyết TCKT theo thủ tục tịa án là hình thức giải quyết tranh chấp,
theo đó, một bên bằng đơn kiện u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp; và Tòa án theo thủ tục luật định sẽ đưa ra phán quyết có giá trị bắt
22
buộc thi hành đối với các bên.
Giải quyết TCKT theo thủ tục tịa án có các đặc trưng cơ bản sau:
- Tòa án là cơ quan tài phán nhân danh quyền lực nhà nước để giải
quyết các TCKT và các phán quyết của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng
sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Giải quyết TCKT theo thủ tục tư pháp là
sự can thiệp của Nhà nước vào việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột về lợi
ích trong q trình tham gia các hoạt động kinh tế của các cá nhân, tổ chức
nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên và duy trì trật
tự kỷ cương trong quan hệ kinh tế, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế phát
triển lành mạnh, đúng định hướng. Hoạt động tài phán kinh tế của Tòa án còn
phản ánh chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường.
Việc Tịa án xét xử các TCKT khơng những góp phần ổn định quan hệ
kinh tế thị trường mà còn tác động tích cực vào quan hệ kinh tế thị trường,
đảm bảo cho các quan hệ kinh tế này tồn tại và phát triển phù hợp với định
hướng phát triển kinh tế chung của đất nước. Khi Tòa án đưa ra một phán
quyết giải quyết TCKT, có nghĩa là Nhà nước đã gián tiếp tuyên bố lợi ích
hợp pháp, quyền bình đẳng và tự do kinh doanh theo pháp luật của các tổ
chức, cá nhân được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ. Các quan hệ kinh tế diễn ra
trong khuôn khổ pháp luật, luôn được sự bảo hộ về mặt pháp lý từ phía Nhà
nước.
- Tịa án giải quyết các tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai.
Xét xử công khai là nguyên tắc đặc thù trong hoạt động của Tòa án, xuất phát
từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ công lý, lẽ công bằng, được Nhà
nước ghi nhận bằng pháp luật, xã hội thừa nhận bằng sự tự nguyện chấp hành,
tuân thủ vô điều kiện. Ngun tắc xét xử cơng khai của Tịa án cịn có tác
dụng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của người dân và răn đe, cảnh báo
23
những hành vi vi phạm pháp luật. Mặc dù xét xử công khai là một nguyên tắc
do luật định, nhưng trong một số trường hợp vì lợi ích chính đáng của các
đương sự và của xã hội, phiên tịa có thể được tiến hành xét xử kín. Đó là các
trường hợp cần giữ gìn các bí mật quốc gia, hoặc các bí mật của đương sự
theo yêu cầu của họ. Bí mật của các đương sự trong TCKT thường là bí quyết
kinh doanh nghề nghiệp, phát minh, sáng chế, bí mật cơng nghệ mới... có liên
quan trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nếu các bí quyết đó bị tiết
lộ thơng qua việc xét xử cơng khai thì các đương sự có thể phải gánh chịu
nhiều rủi ro, thiệt hại, có khi rất nghiêm trọng. Vì vậy, u cầu được xét xử
kín là địi hỏi chính đáng của doanh nghiệp. Việc mở phiên tịa xét xử kín hay
cơng khai do Tòa án quyết định [17, tr.61].
- Việc giải quyết các tranh chấp của Tịa án có thể qua nhiều cấp xét xử.
Trong việc giải quyết tranh chấp kinh tế của Tịa án nhân dân có thể qua nhiều
cấp như: sơ thẩm, phúc thẩm. Trong một số trường hợp cụ thể, các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật cịn có thể được xét xử theo thủ tục đặc biệt là thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho
quyết định do Tịa án đưa ra được chính xác, cơng bằng, khách quan, đúng pháp
luật. Việc có nhiều cấp xét xử với những Hội đồng xét xử khác nhau là nhằm
loại trừ sự thiên vị, thiếu khách quan của những người tham gia xét xử và tạo
điều kiện cho các đương sự có đủ thời gian, cơ hội chuẩn bị hồ sơ, chứng cứ, bổ
sung chứng cứ vào bất kỳ giai đoạn tố tụng nào. Tuy nhiên, nguyên tắc nhiều cấp
xét xử cũng bộc lộ hạn chế là vụ việc có thể bị xem xét kéo dài, xử đi xử lại
nhiều lần gây bất lợi cho các đương sự, nhất là các doanh nghiệp tham gia hoạt
động kinh tế, một lĩnh vực hoạt động vốn đòi hỏi sự nhanh nhạy, linh hoạt.
- Việc giải quyết các tranh chấp tại Tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy định mang tính hình thức, cứng nhắc của pháp luật tố tụng. Thủ tục tố
tụng phức tạp của Tòa án gây nhiều trở ngại đối với việc giải quyết các tranh
24
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh vốn dĩ rất linh hoạt và mềm dẻo.
- Các phán quyết của Tòa án được cưỡng chế thi hành bằng sức mạnh
quyền lực của Nhà nước bởi một cơ quan chuyên trách việc thi hành án. Cơ
quan thi hành án thông thường là một tổ chức độc lập có đầy đủ bộ máy, tổ
chức và phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật, ở nước ta, đó
là cơ quan thi hành án dân sự. Đặc điểm này chính là yếu tố hấp dẫn nhất khiến
các bên có TCKT tìm đến phương thức giải quyết TCKT theo thủ tục tư pháp.
Ngồi cơ quan Tịa án có thẩm quyền trong việc giải quyết các TCKT
cịn có sự tham gia của cơ quan Viện kiểm sát và cơ quan Thi hành án dân sự.
Đây là hai cơ quan cùng đóng vai trị là chủ thể của hoạt động áp dụng pháp
luật. Nếu thiếu sự tham gia của các chủ thể này thì có thể sẽ dẫn tới việc áp
dụng pháp luật khơng khách quan, chính xác và triệt để. Tuy nhiên có thể thấy
rằng Tịa án nhân dân là chủ thể trung tâm trong việc giải quyết các TCKT bởi
vì trong hầu hết các giai đoạn áp dụng pháp luật thì Tịa án đều trực tiếp tiến
hành mà khơng phụ thuộc vào kết quả hoạt động của các chủ thể khác.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC GIAI ĐOẠN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
kinh tế của Toà án nhân dân.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung thể hiện
ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản được cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo trình
tự nhất định với các hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Hình thức thể hiện của pháp luật xã hội chủ nghĩa là các quy phạm
pháp luật được các chủ thể ban hành dưới dạng văn bản có tên gọi khác nhau
và có hiệu lực pháp lý khác nhau. Khi ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật, Nhà nước hướng tới mục đích là dùng các văn bản quy phạm pháp luật
25
để điều chỉnh, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục, an ninh quốc phòng, khoa học kỹ thuật... Tuy nhiên, để
pháp luật thực sự đi vào đời sống thì ngoài các yếu tố như sự phù hợp của hệ
thống quy phạm pháp luật bởi các điều kiện kinh tế, lịch sử, trình độ phát
triển của xã hội, Nhà nước cịn phải quan tâm đến hoạt động khơng kém phần
quan trọng là tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh.
Bởi vì, văn bản pháp luật khi ban hành dù hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các
quy định của văn bản đó khơng thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều
chỉnh pháp luật vẫn chưa đạt được.
Thực hiện pháp luật là hành vi của con người phù hợp với những quy
định của pháp luật, không trái, không vượt quá phạm vi các quy định của
pháp luật và có lợi cho xã hội, cho Nhà nước và cho cá nhân. Đó là những
hoạt động, những phương cách, những quá trình làm cho những quy tắc xử sự
chung chứa đựng trong các quy phạm pháp luật trở thành hành vi, cách xử sự
của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật rất đa dạng và phong phú, phụ
thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ thuộc vào ý chí
của Nhà nước; có thể được thực hiện xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự
tự giác của bản thân chủ thể hoặc do ảnh hưởng của dư luận xung quanh hoặc
là kết quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Thực hiện pháp luật có mục đích làm cho những quy định của pháp luật
đi vào cuộc sống. Do các quy phạm pháp luật rất phong phú nên cũng có
nhiều hình thức thực hiện khác nhau. Khoa học pháp lý đã xác định có bốn
hình thức thực hiện pháp luật là tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật: Là hình thức các chủ thể pháp luật không thực hiện
những hành vi mà pháp luật ngăn cấm, mà cho các quy phạm pháp luật ngăn
cấm được tơn trọng và thực hiện trên thực tế. Ví dụ: Việc tuân thủ các quy