1
MỞ ĐẦU
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và cũng là nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đây là học
thuyết vạch rõ những quy luật cơ bản của sự vận động xã hội và vạch ra phương
pháp khoa học để giải thích lịch sử, nhờ có lý luận này mà các hiện tượng xã hội
được nhận thức một cách khoa học. Thông qua việc phân tích các mối quan hệ cơ
bản trong mỗi hình thái kinh tế xã hội mà C.Mác đã tìm ra quy ḷt vận động của
lịch sử lồi người và trên cơ sở đó khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh
tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Trong các mối quan hệ đa dạng và phức tạp
của mỗi hình thái kinh tế xã hội C.Mác không những chỉ ra quy luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mà ơng cịn
đặc biệt chú ý phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sự tác động qua lại giữa hai nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận động của
mỗi hình thái kinh tế xã hội.
Trong xã hội có giai cấp mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng được thể hiện tập trung ở mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Việc nhận
thức đúng mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng sẽ giúp chúng
ta có thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong nhận thức và xem xét, vận
dụng vào mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện
nay. Thực tiễn đã chứng minh công cuộc đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng từ năm 1986 đến nay là q trình đổi mới tồn diện, trong đó đổi mới kinh
tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Thế nhưng, bên cạnh
những thành tựu đã đạt được rất đáng mừng, cũng còn những hạn chế, bất cập,
chúng ta vẫn còn những khiếm khuyết, lệch lạc trong cả nhận thức và tổ chức
thực hiện. Về mặt nhận thức có những quan điểm cho rằng kinh tế thị trường và
chủ nghĩa xã hội mâu thuẫn không cùng tồn tại, hoặc thực hiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nghĩa là xây
dựng một nền kinh tế “đa nguyên” và tương ứng với nó là nền chính trị “đa
nguyên” chứ khơng thể “nhất ngun”. Có những quan điểm lại đề cao kinh tế
thị trường, xem đó là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết được mọi vấn đề của
công cuộc đổi mới. Sự lệch lạc như vậy sẽ đưa chúng ta rơi vào sai lầm, chủ quan
duy ý chí, như tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đánh
giá:“đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực, hiệu quả va
hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm với nhiệm vụ” 1.
Tiếp tục quán triệt và giải quyết tốt các quan hệ lớn là vấn đề cấp thiết, quan
trọng. Trong đó, “đởi mới mạnh mẽ, toan diện va đờng bợ, có bước đi phù hợp
trên các lĩnh vực, nhất la giữa kinh tế va chính trị” 2 được Đại hội XII của Đảng
một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề này trong mục tiêu, nhiệm vụ
tổng quát phát triển đất nước 5 năm tới (2016 – 2020). Để từ đó đề ra những giải
pháp hiệu quả phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Xuất phát từ tính cấp thiết trên mà tác giả quyết định chọn chủ đề: “Mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc tượng tầng - Sự vận dụng của
Đảng trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay”.
1
2
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toan q́c lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H.2016, tr.68
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toan q́c lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H.2016, tr.80
2
NỘI DUNG
I. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN
TRÚC THƯỢNG TẦNG.
1. Quan điểm triết học Mácxit về cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.1. Cơ sở hạ tầng và đặc trưng của nó
Trong xã hội, nếu lực lượng sản xuất tạo ra nền tảng vật chất của tồn bộ
lịch sử, thì quan hệ sản xuất tạo ra cơ sở kinh tế của các quan hệ xã hội và các
hình thái ý thức cùng những thể chế tương ứng. Do vậy, cơ sở hạ tầng la tổng
hợp toan bộ những quan hệ sản xuất hợp thanh cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định ma trên đó hình thanh nên kiến trúc thượng tầng 3.
Cơ sở hạ tầng của mỗi hình thái kinh tế – xã hội thường bao gồm ba quan
hệ: quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ
sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các quan hệ sản xuất này tạo nên bộ
mặt, diện mạo nền kinh tế trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Ba quan hệ sản xuất trên có quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong
đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định, chi phối đến các quan hệ
sản xuất khác. Đồng thời, quy định đến bản chất, đặc trưng của cơ sở hạ tầng và
tác động đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Tuy nhiên,
không phải cơ sở hạ tầng nào cũng tồn tại ba quan hệ sản xuất, có trường hợp
chỉ có hai, thậm chí có một. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính giai cấp của
cơ sở hạ tầng là do quan hệ sản xuất thống trị qui định. Ở những hình thái kinh
tế – xã hội đã hoàn thiện, quan hệ sản xuất tàn dư và mầm mống có vị trí khơng
đáng kể, cịn cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ, quan hệ sản xuất tàn dư, mầm
mống có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Tổng hợp những quan hệ sản xuất khơng có nghĩa là phép cộng giản đơn
các quan hệ sản xuất với nhau mà là các quan hệ sản xuất này nó là một chỉnh thể
thống nhất, tác động, đấu tranh, ràng buộc và loại trừ nhau ở trong một chỉnh thể
thống nhất đó. C.Mác viết: “Toan bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thanh cơ cấu
kinh tế của xã hội tức la cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toan tập, tập 13, Nxb, CTQG, H.1995, tr.15
3
tầng pháp lý va chính trị va những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với
cơ sở hiện thực đó” 4.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là
do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng và sự xung
đột giữa các giai cấp được bắt nguồn từ ngay trong cơ sở hạ tầng của xã hội.
Trong các xã hội cũ, như chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa cơ sở
hạ tầng ln có tính đối kháng giai cấp sâu sắc. Các quan hệ sản xuất thống trị
của các xã hội trên đều là quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thống
trị và bóc lột người lao động.
Trong hình thái kinh tế xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa do cơ sở kinh
tế và giai cấp của nó quy định, vì vậy cơ sở hạ tầng khơng cịn tính đối kháng.
Trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở hạ tầng có
kết cấu phức tạp, có nhiều thành phần kinh tế, nhiều kiểu quan hệ sản xuất
cùng tồn tại, tác động qua lại nhau, cơ sở hạ tầng vừa có tính chất đối kháng,
vừa khơng có tính chất đối kháng, song tính chất khơng đối kháng là chủ đạo,
cơ bản và nổi trội.
Như vậy, xét trong nội bộ phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất là hình
thức phát triển của lực lượng sản xuất; mặt khác, xét trong tổng thể các quan hệ
xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở
hiện thực trên đó người ta dựng nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
1.2 Kiến trúc thượng tầng và đặc trưng của nó
Kiến trúc thượng tầng la toan bợ những quan điểm chính trị, pháp luật, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v.. va những thiết chế xã hội tương ứng như
nha nước, đảng phái, giáo hội v.v.. được hình thanh trên mợt cơ sở hạ tầng nhất
định. Nói cách khác, kiến trúc thượng tầng của xã hội là toàn bộ những quan điểm
tư tưởng của xã hội, những thiết chế tương ứng và cả những quan hệ nội tại của
chúng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Kết cấu kiến trúc thượng tầng gồm có hai yếu tố: yếu tố tư tưởng xã hội bao
gồm chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… và yếu tố tổ
4
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb, CTQG, H.1995, tr.15
4
chức thiết chế xã hội bao gồm nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể, quân
đội, cảnh sát… là vật chất hóa quan điểm tư tưởng. Mỗi yếu tố của kiến trúc
thượng tầng có đặc điểm và quy luật phát triển riêng. Chúng tồn tại trong mối liên
hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh những
cơ sở hạ tầng nhất định. Song, không phải tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng
tầng đều liên hệ như nhau đối với cơ sở hạ tầng của nó. Trái lại, một số bộ phận
như kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý có mối liên hệ trực tiếp với cơ sở
hạ tầng, còn các yếu tố khác như triết học, nghệ tḥt, tơn giáo, đạo đức, v.v.., lại
có liên hệ gián tiếp với cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, kiến trúc thượng tầng cũng mang tính
chất đối kháng. Tính đối kháng của kiến trúc thượng tầng phản ánh tính đối kháng
của cơ sở hạ tầng và được biểu hiện ở sự xung đột về quan điểm tư tưởng, cũng
như cuộc đấu tranh về tư tưởng của các giai cấp đối kháng. Song, đặc trưng của
kiến trúc thượng tầng là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị.
Thực tế cho thấy, trong kiến trúc thượng tầng của các xã hội có đối kháng giai cấp,
ngồi bộ phận chủ yếu có vai trị là cơng cụ của giai cấp thống trị cịn có những yếu
tố, bộ phận đối lập với nó. Những yếu tố, bộ phận đối lập đó là những tư tưởng,
quan điểm và các tổ chức chính trị của giai cấp bị thống trị, bóc lột.
Bộ phận có quyền lực mạnh nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có
đối kháng giai cấp là nhà nước – công cụ quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp
thống trị. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới trở thành
một sức mạnh thống trị toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt
kinh tế và nắm giữ chính quyền nhà nước thì hệ tư tưởng, cùng những thể chế của
giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu
hướng của toàn bộ đời sống tinh thần xã hội và cả tính chất, đặc trưng cơ bản của
toàn bộ kiến trúc thượng tầng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
2.1. Các quan điểm triết học trước Mác
5
Quan điểm chủ nghĩa duy tâm cho rằng kiến trúc thượng tầng chính trị
quyết định đến quá trình vận động, phát triển của đời sống xã hội; quan hệ nhà
nước, quan hệ pháp luật quyết định quan hệ kinh tế và ý thức tư tưởng quyết
định tiến trình phát triển khách quan của xã hội. Tức là họ lấy chính trị, tư tưởng
giải thích sự phát triển của xã hội. Tiêu biểu có Hêghen, Phoiơbắc...
Hêghen cho rằng: Nhà nước có vai trò quyết định sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
Phoiơbắc: Cải tạo xã hội đi từ cải tạo tôn giáo…
Quan điểm chủ nghĩa duy vật siêu hình (duy vật kinh tế): Tuyệt đối hoá yếu
tố kinh tế, xem yếu tố kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định sự vận động, phát
triển của đời sống xã hội. Thực chất đây là khuynh hướng siêu hình trong xem
xét quá trình vận động, phát triển của xã hội.
Các quan điểm triết học trước Mác đều duy tâm, siêu hình ở điểm xuất phát
hoặc tuyệt đối hóa vai trị một mặt.
2.2. Quan điểm triết học Mácxít về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Phê phán những quan điểm duy tâm sai lầm và làm rõ mối quan hệ biện
chứng giữa đời sống kinh tế vật chất với đời sống chính trị tinh thần của xã hội,
chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Cơ sở hạ tầng va kiến trúc thượng tầng la hai mặt thống nhất biện chứng
trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Trong sự tác động biện chứng của
nó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng va kiến trúc thượng tầng có
tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
Xuất phát từ vấn đề cơ bản của triết học và tính tất yếu của sự vận động kinh
tế, chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối
với kiến trúc thượng tầng.
Trong đời sống hiện thực của xã hội, bộ mặt kiến trúc thượng tầng dù có biểu
hiện phong phú, phức tạp đến đâu và ngay cả những hiện tượng lạ lùng nhất của
6
kiến trúc thượng tầng cũng đều có nguyên nhân sâu xa nằm trong những điều kiện
kinh tế - vật chất của xã hội.
Thực tế đã chứng minh bất kỳ một hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng
tầng, như chính trị, pháp luật, đảng phái, triết học, đạo đức v.v.., đều khơng thể
giải thích được từ chính bản thân nó mà tất cả xét đến cùng phụ thuộc vào cơ sở
hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Bởi vậy, vai trò quyết định của cơ sở hạ
tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện trước hết ở chỗ, cơ sở hạ tầng với
tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội sẽ quyết định kiểu kiến trúc
thượng tầng của xã hội ấy. Cơ sở hạ tầng không chỉ sản sinh ra một kiểu kiến
trúc thượng tầng tương ứng mà còn quyết định đến cơ cấu, tính chất và sự vận
động, phát triển của kiến trúc thượng tầng.
Nếu cơ sở hạ tầng có đối kháng, thì kiến trúc thượng tầng của nó cũng có
tính chất đối kháng; ngược lại, cơ sở hạ tầng khơng có tính đối kháng thì kiến
trúc thượng tầng cũng khơng có tính chất đối kháng. Trong xã hội có đối kháng
giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần của xã hội; mâu thuẫn trong lĩnh vực
kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng của xã hội. Trong
một xã hội, khi cơ sở hạ tầng có mâu thuẫn đối kháng, tính đối kháng đó được
phản ánh thơng qua cuộc đấu tranh giai cấp trên kiến trúc thượng tầng là một tất
yếu, khách quan. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng như thế nào thì cơ cấu, tính chất của
kiến trúc thượng tầng là như thế ấy.
Những biến đổi căn bản của cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự
biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng
hình thái kinh tế - xã hội, cũng như khi chuyển từ một hình thái kinh tế-xã hội
này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác.
C.Mác khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toan bộ cái kiến trúc thượng
tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” 5.
Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp
trong quá trình chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời sang một hình thái
5
Mác và Ph. Ăngghen, Toan tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 15.
7
kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự biến đổi
đó tất yếu phải thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đưa tới sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng.
Nhưng sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp, có những bộ
phận của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của
cơ sở hạ tầng như chính trị, luật pháp v.v.. Có những nhân tố riêng lẻ của kiến
trúc thượng tầng thay đổi chậm hơn như tôn giáo, nghệ thuật v.v.. Và cũng có
những nhân tố nào đó của kiến trúc thượng tầng cũ vẫn được kế thừa để xây
dựng kiến trúc thượng tầng mới.
Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng:
Kiến trúc thượng tầng là sự phản ánh của cơ sở hạ tầng, có nguồn gốc từ
cơ sở hạ tầng. Trong quan hệ biện chứng với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng
tầng có tính độc lập tương đối, khơng phụ thuộc máy móc vào cơ sở hạ tầng,
kiến trúc thượng tầng phản ánh cơ sở hạ tầng một cách tích cực, sáng tạo nhằm
cải tạo cơ sở hạ tầng vì những lợi ích nhất định. Mặt khác, kiến trúc thượng
tầng cịn có sức mạnh của các lực lượng vật chất do tổ chức thiết chế của nó
đem lại, qua đó tác động ngược trở lại cơ sở hạ tầng.
Sự tác động ngược trở lại này được biểu hiện ở chức năng xã hội của kiến
trúc thượng tầng là ln tìm mọi cách bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ
sở hạ tầng đã sinh ra nó. Kiến trúc thượng tầng thường tìm mọi quyền lực kinh
tế, chính trị, xã hội trong nhà nước để ngăn chặn sự ra đời của cơ sở hạ tầng mới
và xóa bỏ sự phục hồi của cơ sở hạ tầng cũ để tạo môi trường thuận lợi cho nó.
Kiến trúc thượng tầng tác động ngược trở lại cơ sở hạ tầng theo hai chiều
hướng. Khi kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng và phản ánh đúng
đắn các quy luật kinh tế thì sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển, làm cho đời sống
kinh tế, xã hội phát triển. Ngược lại, khi kiến trúc thượng tầng không phù hợp với
cơ sở hạ tầng thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng gây các trở lực
cho quá trình sản xuất xã hội. Tất nhiên, sự kìm hãm này chỉ trong một giới hạn
nhất định và sớm hay muộn thì kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi.
8
Tất cả các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều tác động trở lại cơ sở
hạ tầng nhưng vai trò của thiết chế nhà nước, chính đảng cầm quyền và vai trò
của luật pháp là những bộ phận giữ vai trò đặc biệt quan trọng tác động trở lại
to lớn đối với cơ sở hạ tầng; nhà nước với đường lối phát triển có vai trị hiện
thực hóa đường lối kinh tế, các điều luật phù hợp sẽ tạo hành lang pháp lý
thuận lợi cho phát triển sản xuất và ngược lại. Còn sự tác động của các bộ phận
khác của kiến trúc thượng tầng tới cơ sở hạ tầng đều thông Nhà nước và pháp
luật mà phát huy hiệu lực của nó.
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng là cơ sở lý luận để nhận thức một cách đúng đắn quá trình vận động, phát
triển của lịch sử - xã hội và đấu tranh phê phán các quan điểm sai lầm, duy tâm về
vấn đề này; là cơ sở để nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật vào
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hiện nay.
3. Đặc điểm hình thành và đặc trưng bản chất của cơ sở hạ tầng, kiến trúc
thượng tầng xã hội chủ nghĩa
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng là quy luật chung, cơ bản nhưng mang tính lịch sử - cụ thể, gắn
với từng hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong tiến trình lịch sử. Bởi vậy, sự
vận động của quy luật này dưới chủ nghĩa xã hội có những đặc điểm riêng,
được biểu hiện trước hết ở sự hình thành và những đặc trưng bản chất của cả
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khơng hình
thành tự phát trong lịng xã hội cũ. Để xác lập cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa,
địi hỏi tất yếu phải xố bỏ cơ sở hạ tầng cũ thông qua cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Nghĩa là, sự thiết lập kiến trúc thượng tầng chính trị xã hội chủ
nghĩa là tiền đề cho sự hình thành, phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng chính trị đi trước khơng có nghĩa là kiến trúc thượng tầng
quyết định cơ sở hạ tầng vì cách mạng chính trị chỉ là một phần của kiến trúc
9
thượng tầng. Vì vậy, cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa vẫn giữ vai trò quyết định
đối với kiến trúc thượng tầng.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được củng cố, phát
triển dựa trên cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa và trong chính sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, xây dựng và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng
xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Đồng thời, phải tích cực chủ động đấu tranh khắc phục mọi
tàn dư tư tưởng lạc hậu của xã hội cũ và đánh bại mọi âm mưu chống phá của
các thế lực thù địch.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành từng bước với những
hình thức, quy mơ thích hợp. Thời kỳ quá độ là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp
lâu dài phức tạp, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa chưa thể
có được đầy đủ những đặc trưng vốn có của nó. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong thời gian qua cho thấy, để xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa, cần phải tránh khuynh hướng chủ quan duy ý chí, nơn nóng
bất chấp các quy luật khách quan.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa khi đã phát triển
một cách đầy đủ và hồn thiện sẽ có bản chất ưu việt, tốt đẹp nhất trong lịch sử.
Nó có sự khác biệt về chất so với cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của các
xã hội cũ. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa khơng cịn mâu thuẫn đối kháng, trong
kết cấu kinh tế không bao hàm sự đối lập về lợi ích căn bản. Hình thức sở hữu cơ
bản của nền kinh tế là sở hữu nhà nước và tập thể; quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất là quan hệ hợp tác, tương trợ; nguyên tắc phân phối sản
phẩm chủ yếu là phân phối theo lao động.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng xã hội chủ
nghĩa, vì vậy đặc trưng của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là sự nhất
trí về chính trị và tinh thần trong toàn xã hội. Tính ưu việt của kiến trúc thượng
tầng xã hội chủ nghĩa được biểu hiện ở hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là
10
hệ tư tưởng tiến bộ và cách mạng nhất trong lịch sử. Nó cịn được biểu hiện ở
vai trị của nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa; ở sự phát triển các hình
thái ý thức xã hội một cách phong phú, đa dạng chứa đựng đầy đủ các giá trị
của chủ nghĩa xã hội.
II. NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG ĐỔI MỚI
KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
1. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng của xã hội là cơ sở khoa học để nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị.
Sự phát triển của lịch sử xã hội đến một giai đoạn nhất định sẽ xuất hiện
những quan hệ chính trị, tổ chức chính trị, những quan điểm tư tưởng chính trị và
nó đóng một vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Theo quan điểm của các
nhà kinh điển mácxít, chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế; là quan hệ lẫn
nhau giữa các giai cấp, các tập đoàn người, các tầng lớp xã hội trong việc giành,
giữ và sử dụng chính quyền nhà nước; chính trị còn là biểu hiện quan hệ giữa các
quốc gia, dân tộc về mặt nhà nước.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Chính trị la sự tham gia vao những công việc của nha nước,
la vạch hướng đi cho nha nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung
hoạt động của nha nước” 6.
Cơ cấu của chính trị bao gồm thực tiễn chính trị và ý thức chính trị. Phân
chia theo các yếu tố cấu thành, chính trị gồm có: các quan điểm, tư tưởng chính
trị; các quan hệ chính trị của xã hội; tổ chức chính trị và hoạt động chính trị.
Vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất của chính trị là quyền lực nhà nước. Lợi ích
căn bản của các giai cấp được thể hiện tập trung nhất là ở vấn đề quyền lực nhà
nước. Thực tế cho thấy, quan hệ giữa các giai cấp thường không dừng lại ở
quan hệ kinh tế thuần tuý, mà cuộc sống cịn đặt ra vấn đề quyền lực và các
hình thức thực thi quyền lực.
6
V.I.Lênin, Toan tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.104.
11
Triết học mácxít xem kinh tế và chính trị là hai mặt thống nhất biện chứng
trong một cơ thể xã hội. Trong mối quan hệ này kinh tế giữ vai trò quyết định
và là tính thứ nhất; chính trị là tính thứ hai, là cái phản ánh của kinh tế, thể
hiện qua tư duy chính trị, đường lối chính trị, thể chế chính trị...
1.1. Kinh tế quyết định chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì kinh tế giữ vai trò quyết
định đối với chính trị. Kinh tế là nguồn gốc, là thước đo tính hợp lý của chính trị.
Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế sẽ có một trình độ phát
triển nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị
thích ứng như thế ấy. Sự biến đổi, phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của
mọi biến đổi xã hội và đảo lộn về chính trị. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai
cấp chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, các mâu thuẫn trong lợi ích kinh
tế. Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ, ngược lại kinh tế khủng hoảng là dấu hiệu
cho thấy sự bất cập của chính trị và nó địi hỏi phải có sự đổi mới về chính trị. Ở
mức độ, khía cạnh nào đó, sự phát triển của kinh tế thể hiện sự phát triển, tính ưu
việt và sự phù hợp của chính trị đối với kinh tế.
Theo V.I.Lênin, chính trị là việc xây dựng Nhà nước về kinh tế, “…la sự biểu
hiện tập trung của kinh tế” 7, “…la kinh tế cô đọng lại” 8. Như vậy, so với kinh tế,
chính trị là sự phản ánh, là “tính thứ hai”. Khơng có những quan hệ chính trị và
quy luật chính trị độc lập tuyệt đối với các quan hệ và quy luật kinh tế. Chính trị
không phải là cái gương soi của đời sống kinh tế, mà là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế. Nó phản ánh mang tầm khái quát, bộc lộ cái bản chất nhất của đời sống
kinh tế, mang tính chi phối trong đời sống kinh tế.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay đang cùng tồn
tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Chính trị của chúng ta hiện nay là sự
biểu hiện tập trung của nền kinh tế đó, trong đó việc làm cho kinh tế Nhà nước
từng bước vươn lên nắm được vai trò chủ đạo được xem là một nội dung vơ
cùng quan trọng của nó.
7
8
V.I.Lênin, Toan tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, M.1977, tr.39
V.I.Lênin, Toan tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, M.1977, tr.418
12
1.2. Chính trị tác động trở lại kinh tế
Trong khi khẳng định vai trò quyết định, tính thứ nhất của kinh tế đối với
chính trị, chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nhấn mạnh sự tác động ngược trở lại của
chính trị đối với kinh tế. Bởi vì, trong quan hệ với kinh tế, chính trị có tính độc
lập tương đối; hơn nữa, chính trị còn liên quan trực tiếp đến lợi ích sống còn của
các giai cấp. Vai trò của chính trị được thể hiện ở hoạt động tự giác của các giai
cấp, các đảng phái vì những lợi ích cơ bản của mỗi giai cấp. Theo V.I.Lênin:
“Chính trị không thể không chiếm địa vị hang đầu so với kinh tế ” 9 và chỉ rõ:
“Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nao đó,
không thể nao giữ vững được sự thống trị của mình, va do đó, cũng không thể
hoan thanh được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất” 10.
Tác động trở lại của chính trị đến kinh tế theo hai chiều hướng. Nếu chính
trị phản ánh sát đúng những yêu cầu chín muồi của sự phát triển kinh tế, sẽ thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế. Ngược lại, tác động của chính trị sẽ trở nên tiêu cực
nếu phản ánh không đúng và hoạt động trái với tính tất yếu của sự phát triển kinh
tế. Trong đời sống hiện thực của xã hội, vai trò của chính trị còn được thể hiện ở
chỗ, mọi cải biến đối với chế độ xã hội phải tất yếu thông qua nhân tố chính trị.
Tính tất yếu về kinh tế không phải tự nó thực hiện được, mà phải thơng qua các
chủ thể cơ bản, đó là các giai cấp, các đảng phái và tổ chức chính trị - xã hội
tương ứng. Với ý nghĩa đó chính trị có thể làm thay đổi kinh tế, đúng như
Ph.Ăngghen đã chỉ ra, quan điểm tư tưởng tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể
trong những giới hạn nhất định làm thay đổi cơ sở kinh tế. Sự tác động trở lại của
chính trị đối với kinh tế được biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước và các sức
mạnh vật chất tương ứng. Bởi vì, nhà nước là tổ chức quyền lực chính trị có khả
năng hiện thực hố những tất yếu kinh tế.
Như vậy, trong mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, thì kinh tế
quyết định chính trị và chính trị luôn tác động mạnh mẽ trở lại đối với kinh tế. Vì
thế, khi nhận thức, vận dụng mối quan hệ biện chứng này trong đời sống thực tiễn
9
V.I.Lênin, Toan tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 349 - 350.
V.I.Lênin, Toan tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr. 350.
10
13
phải xuất phát từ kinh tế, đồng thời luôn coi trọng yếu tố chính trị. Nếu tách rời
kinh tế với chính trị, tuyệt đối hoá mặt kinh tế và coi nhẹ yếu tố chính trị sẽ dẫn
đến sai lầm của chủ nghĩa duy vật kinh tế tầm thường. Ngược lại, tuyệt đối hoá
mặt chính trị, coi nhẹ yếu tố kinh tế sẽ dẫn đến sai lầm chủ quan, duy ý chí và sẽ
phải trả giá đắt, thậm chí có thể thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Thực tế sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và Đơng Âu có
nhiều ngun nhân trong đó ngun nhân trực tiếp và sâu xa là việc giải quyết
một cách hết sức sai lầm mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc nghiên cứu, giải quyết và vận dụng vấn đề
này ở nước ta có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự phát triển
của một đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm đã góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, toàn diện của đất
nước qua 30 năm đổi mới chính là do Đảng ta đã nhận thức và vận dụng đúng đắn
mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống
chính trị phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Đó cũng chính là sự vận dụng
linh hoạt, sáng tạo của Đảng ta với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải quyết biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
2. Nhận thức và sự vận dụng của Đảng ta trong giải quyết mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
2.1. Tư duy mới của Đảng ta trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị
Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là một
nội dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng ta từ khi đổi mới đến nay. Nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này
của Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp
đổi mới của Đảng.
Thời kỳ trước khi thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã có những sai
lầm trong nhận thức khi nhấn mạnh quá mức vai trò kiến trúc thượng tầng, coi
chính trị là tối thượng, quyết định kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội; không
14
đánh giá đúng vị trí, vai trò của kinh tế trong quan hệ với chính trị. Về cơ chế
chúng ta cũng phạm sai lầm khi để chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình
phát triển kinh tế – xã hội thể hiện bằng các mệnh lệnh chủ quan của các cơ
quan quản lý các cấp, cùng với đó là thiết chế bộ máy hành chính quan liêu,
cồng kềnh, chồng chéo, thiếu minh bạch và hoạt động kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo nhất quán của Đảng ta
là: “ Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế la trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”11. Đây là nhận thức hết
sức đúng đắn cả về mặt lý luận và thực tiễn ở nước ta.
“Đổi mới kinh tế” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình
chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý). Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản “khép kín” sang nền
kinh tế “mở” đối với khu vực và trên thế giới. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và từng bước đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Đởi mới chính trị” được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã
hội; đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết
là đổi mới về phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới nâng cao hiệu quả quản
lý của Nhà nước nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế độ xã hội chủ
nghĩa ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính trị luôn là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, đụng chạm đến nhiều mối
quan hệ, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy tiến hành đổi mới
chính trị phải làm từng bước, thận trọng, vững chắc, hướng tới đổi mới kinh tế
và phục vụ cho đổi mới kinh tế. Quá trình đổi mới chính trị được Đảng ta bắt
11
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1996, tr71.
15
đầu bằng đổi mới về tư duy chính trị, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để giữ vững ổn định chính trị, tư
tưởng trong Đảng và nhân dân, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VI (3/1989) khẳng định “Đởi mới tư duy la nhằm khắc phục những
quan niệm không đúng, lam phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về
chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vao phát triển chứ không phải xa rời
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin ”.
Đồng thời với đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta quan tâm mở rộng dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, thực hiện “dân biết, dân ban, dân lam, dân kiểm tra”, nhằm khơi dậy và phát
huy tiềm năng của mỗi người, mỗi tổ chức tham gia vào quá trình đổi mới, phấn
đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác,
mở rộng dân chủ phải kết hợp với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; dân chủ phải có
lãnh đạo; kiên quyết xử lý những biểu hiện, hành động vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, cũng như mưu toan lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phá hoặc can
thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, cũng tại Hội nghị
lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1989) đã chỉ rõ: “Chúng
ta tập trung sức lam tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức va
phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hanh cải cách
hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có
giới hạn, không có mục tiêu cụ thể va không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự
mất ổn định về chính trị gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” 12.
Trước những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới trong nước và
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới. Thời kỳ đầu đổi mới, những tư
tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở các nước Liên Xô và Đông Âu đã tác
động và ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị, tư tưởng ở nước ta. Các thế lực thù
địch được dịp lợi dụng tình hình đó để chống phá quyết liệt hịng xố bỏ vai trị
lãnh đạo của Đảng. Song nhờ có sự nhạy bén về chính trị và bản lĩnh chính trị
12
ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hanh Trung ương, khóa VI, Nxb CTQG, H.1989.
16
vững vàng, Đảng ta kiên quyết đấu tranh chống lại những tư tưởng sai trái, phản
động, coi đó là một nội dung của đấu tranh giai cấp thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Đảng khẳng định đổi mới có tính nguyên tắc, kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội đã được khẳng định bằng nghị quyết trong Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VI (8/1989): “Chế đợ chính trị của chúng ta la chế độ
lam chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng… chúng ta không
chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối
chủ nghĩa xã hội ra đời va hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế
nhiều thanh phần la thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”. Đó là một thành
công to lớn của Đảng ta bắt nguồn từ quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
xác định hình thức, bước đi, cách làm phù hợp của quá trình đổi mới, nhất là đổi
mới về chính trị.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
tiếp tục được Đảng ta nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII của Đảng: “Phải tập trung sức lam tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi
cấp bách của nhân dân về đời sống, việc lam va các nhu cầu xã hội khác, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghiã xã hội, coi đó la điều kiện quan trọng để tiến
hanh thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải
từng bước đổi mới tổ chức va phương thức hoạt động của hệ thống chính trị” 13.
Đảng đã chỉ rõ phải đổi mới toàn diện cả về kinh tế và đổi mới chính trị thận trọng,
vững chắc bằng những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp.
Tổng kết 25 năm đổi mới, Đại hội XI đã có bước phát triển mới trong nhận
thức và vận dụng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng; giữa kinh tế và chính trị để đưa ra quan điểm đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị. Văn kiện chỉ rõ: “Xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh
tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá
13
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, H.1991, tr54.
17
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thanh một nước xã hội chủ nghĩa ngay cang
phồn vinh, hạnh phúc” 14.
Điểm mới trong Đại hội XI là Đảng ta đã xác định tầm quan trọng trong xử
lý và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn: giữa đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng
xã hội chủ nghĩa; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa... Tại Đại hội XII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh việc quán triệt và xử lý
tốt các quan hệ lớn; trong đó có quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị. Điều này được thể hiện ở các nhiệm vụ: “Tiếp tục hoan thiện thể
chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “Hoan thiện,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa va quyền lam chủ của nhân dân; không
ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoan kết toan dân tộc”,
“Tiếp tục hoan thiện nha nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “Xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh,…”. Như vậy, một lần nữa, quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị được khẳng định là giữ vị trí trọng tâm trong đường
lối phát triển của Đảng. §ổi mới chính trị không tách rời đổi mới kinh tế mà theo
yêu cầu và đặc điểm tiến trình phát triển kinh tế, từ đó thể hiện sâu sắc nội dung
cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Trên thực tế việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu là biểu hiện tập trung của đổi mới
kinh tế. Đổi mới kinh tế nhưng không chấp nhận và không để mặc cho các thành
phần kinh tế phát triển tự do mà từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà
nước. Đổi mới chính trị là nhằm xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố
quyền làm chủ của nhân dân nhưng kiên quyết không chấp nhận đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, mà khẳng định quyền lãnh đạo cách mạng duy nhất của Đảng
Cộng sản trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Việc nhất quán với phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng nhất quyết về chính trị một đảng
duy nhất lãnh đạo và lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, là sản phẩm của quá trình nhận
14
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.71
18
thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta xuyên suốt qua các kỳ Đại hội (kể
từ Đại hội Đảng VI) về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
vào đổi mới kinh tế và chính trị trong tình hình mới.
2.2. Kết quả về kinh tế, chính trị, xã hội của sự vận dụng mối quan hệ cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở nước ta.
Sau 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, trong đó có sự
vận dụng, kết hợp hài hịa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đã đem lại
bước chuyển biến tích cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước, với những thành tựu nổi bật như sau:
Về kinh tế - xã hội, nhờ có định hướng chính trị rõ ràng, thực hiện chủ
trương “lấy đổi mới kinh tế la trọng tâm” bằng các chính sách chuyển đổi cơ
chế và cơ cấu phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn, tập trung giải quyết
những vấn đề cấp thiết, kinh tế của nước ta đã tăng trưởng vượt bậc, đời sống
của nhân dân không ngừng được cải thiện rõ rệt. Nhân dân tin tưởng vào đường
lối đổi mới khi nhận thấy lợi ích của mình được đảm bảo. Nhờ có tư duy mới và
dựa vào lợi ích của nhân dân các chủ trương, chính sách vừa có tính định
hướng, vừa cụ thể thiết thực gắn với thực tiễn đất nước. Đường lối đổi mới
của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống, mang “hơi thở” cuộc sống, tạo tiền
đề để giải phóng sức sản xuất, tận dụng và phát huy nguồn nhân lực trong
và ngoài nước, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhờ vậy sau 30 năm thực hiện
công cuộc đổi mới chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử. Nước ta đã thốt khỏi tình trạng nước nghèo, chậm phát triển bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế không ngừng được nâng cao.
Về chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức
hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ
chức đoàn thể khác thuộc hệ thống chính trị theo hướng dân chủ hóa; khắc
phục và loại bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính mệnh lệnh, giáo điều,
19
tách rời chính trị với kinh tế. Đánh giá ảnh hưởng tích cực của đổi mới chính
trị đối với kinh tế, nghị quyết hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) nhận định:
“Những kết quả đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tư duy, chính sách, pháp
luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy Nha nước, tuy mới la bước đầu, song
đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới va phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
quốc phòng an ninh” 15.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc vận dụng và thực hiện mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta cần phải cố gắng
hoàn thiện hơn nữa. Đổi mới là cả một quá trình lâu dài và phức tạp do thực
tiễn luôn vận động và biến đổi, nhất là trong bối cảnh thế giới và trong nước
hiện nay. Đường lối đổi mới và định hướng đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị của Đảng là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt, tuy nhiên vấn đề đặt ra cho
chúng ta đó là tính hiệu quả của việc thực thi đường lối đó trong từng giai
đoạn, từng cách làm, từng mối quan hệ cụ thể. Đại hội XI của Đảng đã thẳng
thắn nhìn nhận về hạn chế trong đổi mới chính trị so với đổi mới kinh tế: “Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa va sức mạnh đại đoan kết toan dân tộc chưa được
phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nha nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các đoan thể nhân dân chuyển biến chậm” 16. Những hạn chế của đổi mới chính
trị trong mối quan hệ với đổi mới kinh tế này đã cản trở quá trình đổi mới kinh
tế, thậm chí kìm hãm kinh tế phát triển. Vấn đề đổi mới chính trị chưa thực sự
có hiệu quả một phần do chúng ta chưa làm rõ và chưa phân định dứt khoát chức
năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước, trong đổi mới
chính trị chúng ta mới nhấn mạnh và tập trung vào đổi mới tư duy về chính trị
chứ chưa thực sự tiến hành đổi mới ở con người chính trị – chủ thể hoạt động
chính trị và cơ chế hoạt động có hiệu quả của hệ thống chính trị. Do vậy, để đất
nước phát triển hơn nữa cần tiếp tục nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
15
16
ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCH Trung ương khóa VIII, Nxb CTQG, H.1997, tr.38
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.179
20
2.3. Một số giải pháp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định: “Kiên trì va quyết liệt
thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ
trình thích hợp, trọng tâm la hoan thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nha
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng va trong xã
hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toan diện va
phát huy sức mạnh tổng hợp của toan dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa dân giau, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Lấy việc thực hiện mục tiêu nay lam tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả
của quá trình đổi mới va phát triển” 17.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo va đổi mới phương thức lãnh đạo kinh
tế của Đảng. Để sự lãnh đạo của Đảng đáp ứng với yêu cầu của sự phát triển,
đồng thời khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập, điều quan trọng là Đảng
phải khơng ngừng đổi mới, hồn thiện. Trong đó, cần đổi mới phương thức lãnh
đạo kinh tế của Đảng theo hướng: Nâng cao chất lượng đường lối, chủ trương,
chính sách kinh tế của Đảng, khắc phục sự áp đặt chủ quan duy ý chí và giáo
điều, tổ chức một cách nghiêm túc công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết thực
tiễn, khuyến khích phản biện xã hội trên tinh thần xây dựng. Những kết quả
trong việc lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013, hay các văn
kiện trình Đại hội XII của Đảng, chất vấn trong các kỳ họp của Quốc hội, Chính
phủ đã để lại hiệu ứng tích cực trong nhân dân. Theo đó, bảo đảm quan điểm,
chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế xã hội thực sự kết tinh được trí tuệ của
toàn Đảng và toàn dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng coi trọng: “Hoan thiện nội
dung va đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách
nhiệm trong việc thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp uỷ đảng; tăng
17
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.55.
21
cường dân chủ trong Đảng va phát huy quyền lam chủ của nhân dân la nội
dung quan trọng của đổi mới chính trị phải được tiến hanh đồng bộ với đởi mới
kinh tế” 18. Để đáp ứng vai trị lãnh đạo đất nước nói chung và lãnh đạo kinh tế
nói riêng của Đảng trong tình hình mới cần tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng,
coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Về nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Đại hội XII chủ
trương tập trung vào 5 vấn đề cơ bản, gồm:
Thứ nhất, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện và tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và hệ thống chính trị.
Thứ hai, tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011).
Thứ ba, coi trọng xây dựng văn hóa trong các tổ chức Đảng, hệ thống chính trị.
Thứ tư, nâng cao chất lượng việc xây dựng và ban hành nghị quyết của
Đảng, pháp luật Nhà nước.
Thứ năm, nâng cao chất lượng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
về hoạt động lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng.
Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng cũng chỉ rõ: Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và đổi mới phương
thức lãnh đạo. Năm vấn đề cơ bản nêu trên (chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức
và đổi mới phương thức lãnh đạo) có quan hệ mật thiết với nhau tạo nên năng
lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Năm vấn đề cơ
bản đó là chỉnh thể thống nhất tạo nên sức mạnh của Đảng; bảo đảm để Đảng
hoàn thành trọng trách cầm quyền lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước.
Điều quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh đó là phải lấy mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả q trình đổi mới và phát
triển nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng. Tiêu chí này chỉ
rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
18
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.144 - 145.
22
Hai là, tiếp tục xây dựng, hoan thiện Nha nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai
trò quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, cần phân định rõ chức năng quản lý Nhà
nước với chức năng quản lý kinh doanh. Trong kinh tế thị trường, sự quản lý, tác
động của nhà nước vào hoạt động kinh tế chủ yếu thông qua chiến lược phát
triển, quy hoạch, kế hoạch mang tính định hướng, hướng dẫn, thông qua hệ
thống đòn bẩy như sự đảm bảo về mặt pháp luật, cơ chế chính sách tài chính,
tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách thu nhập, bằng các công cụ quản lý vĩ mô
và sức mạnh kinh tế của Nhà nước…
Vì vậy cần đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa: “Xây dựng Nha nước pháp quyền phải tiến hanh đồng bộ cả lập pháp,
hanh pháp, tư pháp va được tiến hanh đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã
hội. Tiếp tục hoan thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp va pháp luật” 19 như Đại hội
XII của Đảng đã nhấn mạnh. Cần triệt để xóa bỏ cơ chế quản lí hành chính, tập
trung quan liêu, cơ chế bao cấp, xin – cho, xóa bỏ tình trạng độc quyền, đặc
quyền, đặc lợi, tình trạng nhà nước can thiệp vào công việc sự vụ, làm thay
doanh nghiệp và công dân. Ở đây, viÖc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính,
chấn chỉnh tổ chức, tinh giảm bộ máy hành chính, xóa bỏ mọi rào cản, chống
quan liêu, tham nhũng, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng thể chế
kinh tế thị trường, phát triển các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người là
yêu cầu bức thiết hiện nay.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung va phương thức hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc va các đoan thể nhân dân. Đa dạng hóa về hình thức, chức
năng, nhiệm vụ, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt chức năng phản
biện, giám sát xã hội.
Bốn là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Chúng ta chủ trương thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều
19
ĐCS, Văn kiện Đại hội đại biểu toan q́c lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H.2016, tr.96.
23
đó có nghĩa là trong q trình phát triển kinh tế thị trường một mặt phải tuân
theo quy luật kinh tế khách quan, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
các quan hệ kinh tế, các hình thức phân phối, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi
ích, tạo động lực cho mọi lực lượng, mọi thành phần kinh tế tham gia vào quá
trình kinh tế nhằm phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường, giải phóng sức
sản xuất, động viên tối đa các nguồn lực bên trong và bên ngồi để đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước nâng cao đời sống nhân dân;
mặt khác, cần cảnh giác và phát hiện sớm để có biện pháp ngăn chặn những ảnh
hưởng tiêu cực, mặt trái của nền kinh tế thị trường có thể làm chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa.
Như vậy vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả
kinh tế Nhà nước để nó giữ được vai trị chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở
thành nền tảng vững chắc. Đồng thời tạo điều kiện kinh tế, pháp lý thuận lợi để
các nhà kinh doanh đầu tư, làm ăn lâu dài. Cần xác lập củng cố, nâng cao địa vị
làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã hội. Trong lĩnh vực phân phối,
thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối; trong đó lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Đồng thời thực hiện tốt các chính
sách xã hội, quan tâm đến các đối tượng chính sách và người nghèo, gắn tăng
trưởng kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong hoạt động kinh tế đối ngoại cần bảo đảm giữ vững độc lập chủ
quyền, tăng cường lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia, thực hiện tốt “thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức va bảo vệ tai
nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả va bền
vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ” 20.
20
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toan quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr.75
24
KẾT LUẬN
Nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cho ta
một cái nhìn đúng đắn để đề ra chiến lược phát triển hài hòa giữa kinh tế và chính
trị, đổi mới kinh tế phải đi đôi với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, từng bước đổi mới chính trị. Từ mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng cũng cho chúng ta thấy phải đề phịng hai khuynh hướng sai lầm đó là
tuyệt đối hóa vai trị của yếu tố kinh tế, coi nhẹ vai trò của yếu tố tư tưởng, chính trị,
pháp lý, hoặc ngược lại tuyệt đối hóa vai trị của yếu tố tư tưởng, chính trị, pháp lý,
coi nhẹ vai trò của kinh tế.
Nhận thức đúng được mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
giúp cho sự hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa diễn
25