GDMN 4.0
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
Nguyễn Thị Tuấn Anh
Trường Đại học Thủ Dầu Một
Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm hiểu mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên ngành
giáo dục mầm non. Kết quả khảo sát trên 208 sinh viên tạo Đại học Thủ Dầu Một cho thấy trí tuệ cảm
xúc chỉ đạt mức trung bình. Trong đó, khả năng nhận biết và bày tỏ cảm xúc tốt hơn khả năng sử
dụng, quản lý, tự chủ cảm xúc. Yếu tố thuộc về bản thân có ảnh hưởng nhiều nhất đến trí tuệ cảm xúc.
Qua đó cho thấy cần thiết kế, lồng ghép nội dung phát triển trí tuệ cảm xúc vào chương trình đào tạo.
Từ khóa: Trí tuệ cảm xúc, sinh viên giáo dục mầm non, đại học Thủ Dầu Một.
1. MỞ ĐẦU
Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy rằng khái niệm trí
tuệ khơng chỉ là năng lực nhận thức và khả năng thích nghi, mà cịn có thể được mở rộng bao
hàm cả yếu tố phi trí tuệ, chẳng hạn như kinh nghiệm và cảm xúc của con người. Vào năm
1995, ở Mỹ, với sự ra đời của cuốn sách “Trí tuệ cảm xúc” của Daniel Goleman (dẫn theo
Trần Kiều, 2005) đã khơi nguồn cho các nhà khoa học nghiên cứu mạnh mẽ về trí tuệ cảm
xúc. Thơng điệp chính mà cuốn “Trí tuệ cảm xúc” mang đến là nhấn mạnh vai trị của nó đối
với thành cơng của con người quan trọng hơn cả trí thơng minh được đo bằng chỉ số IQ.
Trí tuệ cảm xúc là một hiện tượng tâm lý phức tạp, được nghiên cứu dưới nhiều góc nhìn.
Song, khái qt lại có hai dịng quan điểm tiêu biểu về trí tuệ cảm xúc. Theo P.Salovey và
J.Mayer (1997) (dẫn theo Trần Kiều, 2005), phát triển lý thuyết trí tuệ cảm xúc theo kiểu
thuần năng lực tâm thần, nhấn mạnh khía cạnh nhận thức, suy nghĩ về cảm giác, tách trí tuệ
cảm xúc ra khỏi những nét tính cách quan trọng của nhân cách. Cùng lúc ấy, nhà tâm lý học
Reuven Bar-On (1997) (dẫn theo Trần Kiều, 2005) lại nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo kiểu tổ
hợp, có sự pha trộn giữa năng lực tâm thần và các năng lực không phải tâm thần như nhiệt
tình, tự kiềm chế… Quan điểm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực đã chỉ ra và làm rõ
mối quan hệ giữa tư duy và xúc cảm, đồng thời cho thấy con người có thể sử dụng năng lực
bản thân để hướng dẫn suy nghĩ của mình dễ dàng và sáng suốt. Như vậy, trí tuệ cảm xúc
được hiểu là năng lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm; hòa xúc cảm vào suy nghĩ; hiểu và suy
luận với xúc cảm; quản lý xúc cảm của mình và của người khác (P.Salovey và J.Mayer, 1997)
(dẫn theo Trần Kiều, 2005).
Ở Việt Nam, trí tuệ cảm xúc được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, chẳng hạn như Nguyễn
Huy Tú (2000), Trần Kiều (2004), Nguyễn Hồi Loan (2007) và nhiều cơng trình nghiên cứu
khác… Các đề tài chủ yếu nghiên cứu trên đối tượng sinh viên, học sinh, lao động trẻ, giáo
viên tiểu học… Song, các cơng trình nghiên cứu chưa quan tâm nhiều đến đối tượng sinh viên
các khối ngành sư phạm, đặc biệt sinh viên ngành giáo dục mầm non.
Sinh viên ngành giáo dục mầm non không chỉ quan tâm nâng cao trình độ chun mơn, năng
lực tự học mà cịn phải có khả năng điều tiết, quản lý cảm xúc của bản thân trước những yêu
cầu ngày càng cao của nền giáo dục. Nói cách khác, việc phát triển trí tuệ cảm xúc sẽ giúp
sinh viên ngành giáo dục mầm non không chỉ nhạy cảm, tinh tế trong giao tiếp với trẻ mà còn
28
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ
3/2019
hỗ trợ bản thân, trẻ em và người khác trong việc cân bằng cảm xúc, xúc cảm hóa tư duy để
đáp ứng hiệu quả những yêu cầu của nghề nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của
sinh viên ngành giáo dục mầm non là một việc làm cần thiết, có giá trị thực tiễn.
2. KHÁCH THỂ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là 208 sinh viên năm thứ hai và năm thứ ba chuyên ngành
Giáo dục Mầm non của khoa Sư Phạm, trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Trong đó, có 207 sinh viên nữ chiếm tỷ lệ 97,92% và 1 sinh viên nam chiếm tỷ lệ 2,08%.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính của đề tài là điều tra bằng bảng hỏi. Bảng hỏi được thiết kế
dựa trên khái niệm cơng cụ về trí tuệ cảm xúc của P.Salovey và J.Mayer (1997) với nội dung
khảo sát gồm: (1) Nhận biết, bày tỏ cảm xúc; (2) Xúc cảm hóa tư duy; (3) Hiểu biết xúc cảm
và (4) Điều khiển, quản lý xúc cảm và (5) Những yếu tố ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc. Bảng
hỏi gồm 05 câu hỏi có hệ số Cronbach’s Alpha 0,68. Xét trong phạm vi khách thể nghiên cứu,
có thể kết luận thang đo được sử dụng nghiên cứu là phù hợp và tin cậy (Hoàng Trọng, Chu
Nguyễn Mộng Ngọc, 2005). Trong đó, 04 câu hỏi để đo về các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc
của sinh viên trong hoạt động giao tiếp với trẻ khi đi thực tập sư phạm, và 01 câu hỏi tìm hiểu
về các nguyên nhân ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc của sinh viên. Cho điểm từ 1-5 tương ứng
với 5 mức độ biểu hiện khơng bao giờ, rất ít, thỉnh thoảng, thường xun và rất thường xuyên.
Theo định lý Gauss về phân phối chuẩn trong nghiên cứu thống kê, chúng tôi chia thành 3
mức độ cụ thể như sau: 1-2,5 điểm là mức thấp; 2,6-3,5 điểm là mức trung bình và 3,6-5 điểm
là mức cao.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Kết quả đánh giá chung về mức độ trí tuệ cảm xác
Bảng 1. Mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên trong hoạt động giao tiếp với trẻ
Mức độ biểu hiện trí tuệ cảm xúc
Cao
Trung bình
Thấp
F
74
129
5
%
35,6
62,0
2,4
Mean
SD
Min
Max
3,40
0,35
2,08
4,44
Ghi chú: F là tần số, Mean là điểm trung bình, SD là độ lệch chuẩn, Min là giá trị nhỏ nhất,
Max là giá trị lớn nhất
Nhìn vào kết quả ở bảng 1 cho thấy phần lớn sinh viên ngành giáo dục mầm non trường đại
học Thủ Dầu Một có biểu hiện trí tuệ cảm xúc trong hoạt động giao tiếp với trẻ khi tiến hành
thực tập sư phạm chỉ ở mức trung bình (điểm trung bình là 3,40). Đồng thời, độ lệch chuẩn
cho thấy biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên tương đối tập trung và đồng đều.
Kết quả trên phản ánh rằng mặc dù sinh viên thuộc tầng lớp có trình độ học vấn cao, được đào
tạo bài bản, có kiến thức sâu rộng, khả năng nhận thức nhanh nhạy, song khả năng nhạy cảm,
tinh tế trong việc nhận biết, khai thác cảm xúc của chính mình cũng như của người khác cịn
hạn chế. Vì vậy, bên cạnh kiến thức hàn lâm, chuyên sâu, nhà trường cần chú trọng bồi dưỡng
các kỹ năng giao tiếp liên nhân cách cho sinh viên, đặc biệt ở sinh viên ngành giáo dục mầm
non, khi mà đối tượng làm việc của họ còn rất non nớt trong tâm hồn và nhạy cảm trước mọi
tác động.
29
GDMN 4.0
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
3.2. Kết quả đánh giá từng mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc
Bảng 2. Biểu hiện các mặt trí tuệ cảm xúc trong hoạt động giao tiếp với trẻ của sinh viên
Các mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc
Nhận biết và bày tỏ xúc cảm
Hòa xúc cảm vào tư duy
Hiểu biết xúc cảm
Điều khiển, quản lý xúc cảm
Mean
3,69
3,23
3,66
3,06
SD
0,48
0,46
0,55
0,40
Thứ bậc
1
3
2
4
Nhìn vào kết quả ở bảng 2 cho thấy có sự chênh lệch khá rõ về số điểm trung bình ở bốn khía
cạnh biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên trong hoạt động giao tiếp với trẻ. Sinh viên ngành
giáo dục mầm non thể hiện năng lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm tốt nhất với điểm trung bình
đạt được là 3,69. Trong khi đó, năng lực điều khiển, quản lý xúc cảm xúc biểu hiện còn hạn
chế, đạt điểm trung bình thấp trong bốn mặt biểu hiện của trí tuệ cảm xúc là 3,06.
Việc nhận dạng, phân biệt được các loại xúc cảm nảy sinh ở bản thân hay của những người
xung quanh, đối tượng cụ thể là trẻ mẫu giáo đối với sinh viên ngành mầm non là việc làm
khá thuận lợi, dễ dàng. Việc tương tác, tiếp xúc với con người diễn ra thường nhật đã trợ giúp
chúng ta rất nhiều trong việc nhận ra, gọi tên, nắm bắt chính xác các dịng trạng thái xúc cảm
của chính mình và của người khác. Năng lực này là khởi nguồn cho khả năng dự đoán sự ảnh
hưởng của cảm xúc cũng như khả năng quản lý chúng để có thể đưa ra các quyết định đúng
đắn, như Mayer và Salovey (1997) từng nhận định: “Những người biết chắc về cảm giác của
mình sẽ có thể sống tốt hơn, cảm nhận chân thật và đúng đắn hơn về các quyết định của mình,
dù đó là chọn bạn đời hay một nghề” (dẫn theo Daniel Goleman, 2007). Bên cạnh đó, khả
năng hiểu biết cảm xúc của sinh viên ngành mầm non khá tốt với điểm trung bình là 3,66. Có
thể nói rằng, sinh viên đã biết đặt mình, để tâm và lắng nghe những nhu cầu, cảm xúc, mong
muốn ở trẻ. Trên cơ sở này, sinh viên dễ thiết lập mối quan hệ gần gũi, tin cậy, yêu thương
với trẻ và khích lệ, nâng đỡ trẻ. Năng lực này được bồi dưỡng và rèn luyện nhiều hơn khi sinh
viên ngành mầm non được tìm hiểu, nghiên cứu khá sâu sắc những môn học về đặc điểm tâm
sinh lý trẻ em cũng như các buổi tham quan thực tế tại các trường mầm non.
Khả năng xúc cảm hóa ý nghĩ ở sinh viên ngành mầm non chưa thường xuyên (điểm trung
bình đạt được là 3,23). Điều này chứng tỏ sinh viên ngành giáo dục mầm non khi giao tiếp với
trẻ trong môi trường thực tập chưa đạt được sự tự chủ, chủ động trong việc hướng dẫn, sử
dụng các xúc cảm có lợi cho các quá trình nhận thức. Vì thế, khả năng phán đoán, dự kiến và
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong giao tiếp với trẻ ở sinh viên chưa đạt được sự nhạy bén,
linh hoạt và hiệu quả. Ở khía cạnh khác, việc hạn chế năng lực này sẽ làm giảm khả năng tập
trung và sáng tạo trong công việc - một năng lực không thể thiếu để tồn tại trong thời đại công
nghiệp 4.0.
Trong bốn mặt biểu hiện trí tuệ cảm xúc, sinh viên đạt điểm trung bình thấp nhất ở năng lực
điều khiển, kiểm sốt xúc cảm là 3,06. Năng lực này biểu hiện ở việc đưa ra những quyết định
thông minh trên cơ sở cân bằng giữa lý trí và xúc cảm, khơng nghiêng về bên nào để đạt được
sự tự chủ, đạt được mục tiêu dự định. Theo Mayer và Salovey (1997), “trí tuệ cảm xúc là sự kết
hợp của những thuộc tính nhạy bén về xúc cảm do trời phú (bẩm sinh) với những thuộc tính
quản lý xúc cảm có được nhờ con người tự tạo bằng việc học hỏi, luyện tập” (dẫn theo Nguyễn
Huy Tú, 2003). Như vậy, sự trải nghiệm giới hạn trong khuôn khổ nhà trường với các mối quan
hệ thuần túy giáo dục nên sinh viên chưa thực sự va chạm, cọ xát với sự phong phú, đa dạng,
phức tạp của con người và các mối dây chằng chịt giữa họ. Vì thế, khả năng an ủi, vỗ về các
cảm xúc tiêu cực của chính mình cũng như biết cách xoa dịu, nâng đỡ tinh thần cho người khác
ở sinh viên chưa tốt là một thực tế rõ ràng.
30
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ
3/2019
3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc của sinh viên
Để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc của sinh viên, chúng tôi đưa ra 11 yếu
tố bao gồm 6 yếu tố chủ quan và 5 yếu tố khách quan.
Bảng 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc
Mức độ ảnh hưởng (%)
Thứ
Rất
Thường Thỉnh Rất Khơng
thường
Mean bậc
xun Thoảng ít bao giờ
xuyên
STT
Các yếu tố
1
Chưa biết các phương pháp luyện
tập để nâng cao trí tuệ cảm xúc
16,3
49,5
30,3
3,4
0,5
3,77
4
2
Tích cực, chủ động tham gia các
hoạt động có tính tập thể
16,3
51,9
26,9
4,3
0,5
3,79
3
3
Nhu cầu mong muốn nâng cao trí
tuệ cảm xúc
28,4
55,3
15,4
1,0
0
4,11
1
4
Chưa nhận thức vai trị của trí tuệ
cảm xúc
3,4
22,1
42,8
24,0
7,7
2,89
10
5
Ít tiếp xúc, va chạm với cuộc sống
xã hội
7,2
28,8
43,3
16,8
3,8
3,18
6
8,2
26,0
41,8
20,2
3,8
3,14
7
2,9
11,1
27,9
42,8
15,4
2,43
11
4,3
29,8
40,4
22,1
3,4
3,09
8
6,2
24,0
34,1
29,3
6,2
2,94
9
10,1
35,1
32,2
19,2
3,4
3,29
5
31,7
41,8
20,2
4,3
1,9
3,97
2
6
7
8
9
10
11
Phạm vi mối quan hệ cịn bó hẹp
chủ yếu ở trường
Di truyền từ cha mẹ
Giáo viên chú trọng dạy chuyên
môn nhiều hơn rèn các kỹ năng sư
phạm.
Nghề nghiệp bố mẹ
Nhà trường ít tổ chức các hoạt
động tập thể, lớp học kỹ năng
mềm…
Giáo dục của gia đình: cách cư xử,
thể hiện tình cảm…
Kết quả ở bảng 3 thể hiện sự chênh lệnh khá rõ ràng về điểm trung bình giữa các yếu tố ảnh
hưởng, chứng tỏ mức ảnh hưởng của từng yếu tố đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của sinh
viên là rất khác nhau. Mặt khác, nhìn tổng thể vào điểm trung bình cho thấy rằng các yếu tố từ
phía chủ quan có sự ảnh hưởng nhiều hơn các yếu tố khách quan trong sự phát hình thành và
phát triển trí tuệ cảm xúc.
Yếu tố xuất phát từ bản thân sinh viên “Nhu cầu mong muốn nâng cao trí tuệ cảm xúc” có
mức ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc với điểm trung bình là 4,11. Như
vậy, nhu cầu mong muốn cải thiện, phát triển trí tuệ cảm xúc được sinh viên đánh giá là động
lực thúc đẩy mạnh mẽ sự tìm kiếm các chương trình giáo dục trí tuệ cảm xúc cũng như sự
kiên trì cải thiện những kỹ năng cảm xúc của bản thân. Bên cạnh đó, sinh viên cho rằng tính
“Tích cực, chủ động tham gia các hoạt động có tính tập thể” góp phần khá lớn vào việc cải
thiện trí tuệ cảm xúc của bản thân. Yếu tố này xếp thứ 3 với điểm trung bình là 3,79. Tính tích
cực trong việc tham gia các hoạt động liên nhân cách sẽ là giúp sinh viên được tiếp xúc với sư
đa dạng, phức tạp của con người. Qua đó làm gia tăng và đào sâu thêm về kiến thức, vốn
sống, kinh nghiệm ứng xử xã hội. Điều này cũng được các nhà tâm lý học nhấn mạnh rằng trí
tuệ cảm xúc chỉ hình thành và phát triển trong hoạt động và thông qua hoạt động.
31
GDMN 4.0
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
Theo nhìn nhận của sinh viên, “Giáo dục của gia đình” là yếu tố có ảnh hưởng sâu sắc, lâu
bền đến sự hình thành và phát triển trí tuệ cảm xúc của họ, được xếp thứ hai với điểm trung
bình là 3,97. Có thể thấy rằng, cách ứng xử, cách nhìn nhận và giải quyết các vấn đề nảy sinh
hàng ngày trong cuộc sống của cha mẹ là hình mẫu tự nhiên, nhẹ nhàng thấm dần vào con cái.
Những trải nghiệm về cảm xúc, về việc sử dụng chúng ngay ở các thành viên trong gia đình
sẽ là mơi trường để con cái học hỏi, tích lũy những bài học cần thiết. Điều này rất phù hợp với
kết luận mà Mayer (1997) đưa ra: “Trí tuệ cảm xúc tiến triển theo độ tuổi và kinh nghiệm từ
thời thơ ấu tới tuổi trưởng thành” (dẫn theo Daniel Goleman, 2007).
Với điểm trung bình là 2,43, yếu tố “Di truyền từ cha mẹ” được sinh viên đánh giá có mức ảnh
hưởng thấp nhất đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của họ. Nhìn nhận của sinh viên tương tự như
kết luận mà các nhà tâm lý học đưa ra là các năng lực về xúc cảm không phải được quy định
một lần cho mãi mãi, cá nhân có thể thay đổi bằng cách tự học hỏi trong q trình sống và có
phương pháp luyện tập thích hợp. Ngồi ra, sinh viên cũng cho rằng “Nhà trường ít tổ chức các
hoạt động tập thể, lớp học kỹ năng mềm…” đã ảnh hưởng đến việc rèn dũa các kỹ năng nghề
nghiệp, trong đó có kỹ năng về cảm xúc (điểm trung bình của yếu tố này là 3,29).
Như vậy, việc khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của sinh viên
ngành giáo dục mầm non đã cho chúng ta bức tranh tổng về mức ảnh hưởng của các yếu tố.
Kết quả chỉ ra rằng, nhu cầu cải thiện trí tuệ cảm xúc ở bản thân sinh viên là yếu tố then chốt,
bên cạnh đó mơi trường giáo dục ở gia đình và nhà trường cũng tác động mạnh mẽ vào tiến
trình hình thành, rèn luyện và nâng cao trí tuệ cảm xúc. Qua đó, chúng ta cần linh hoạt, mạnh
mẽ thay đổi chương trình đào tạo, cần có những môn học rèn dũa kỹ năng nghề nghiệp, kỹ
năng mềm, gia tăng thời gian thực hành nghề nghiệp tại các đơn vị. Việc làm này giúp sinh
viên nâng cao năng cạnh tranh và phát triển nghề nghiệp trong bối cảnh nền công nghiệp 4.0
đang diễn ra.
4. KẾT LUẬN
Cạnh trạnh việc làm và sự thay đổi nhanh chóng các yêu cầu trong công việc sẽ là một hiện
tượng phổ biến trong cách mạng cơng nghiệp 4.0. Sinh viên sư phạm nói chung, sinh viên
ngành giáo dục mầm non nói riêng, bên cạnh chun mơn un thâm, các em cần có nhiều kỹ
năng nghề nghiệp, trong đó có khả năng cân bằng về cảm xúc, sự sáng suốt trong việc sử
dụng cảm xúc để đưa ra các quyết định hiệu quả và sáng tạo. Kết quả nghiên cứu cho thấy
sinh viên ngành giáo dục mầm non có biểu hiện trí tuệ cảm xúc đạt mức trung bình, khả năng
bộc lộ các năng lực về cảm xúc cịn hạn chế. Trong đó, các em thể hiện tốt nhất việc nhận
biết, phân biệt, bày tỏ và lý giải nguyên nhân của các trạng thái cảm xúc, việc sử dụng cảm
xúc hỗ trợ các quá trình nhận thức chưa thường xuyên, hay bị cản trở bởi nội tâm chưa cân
bằng. Đặc biệt, khả năng tự chủ, kiểm sốt xúc cảm của bản thân cịn khá kém, chưa biết cách
để khơi gợi, tái tạo năng lực tích cực ở người khác cũng như nâng đỡ tinh thân họ. Vấn đề đặt
ra sau nghiên cứu này là chúng ta hồn tồn có thể bồi dưỡng, nâng cao trí tuệ cảm xúc cho
sinh viên khi chương trình đạo tạo cần chú trọng nhiều hơn trong việc huấn luyện các kỹ năng
nghề nghiệp cũng như kỹ năng cần có trong q trình cơng nghệp 4.0.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
Daniel Goleman (2007). Trí tuệ cảm xúc - Làm thế nào để biến những xúc cảm của bạn thành
trí tuệ?, NXB Lao động - Xã hội.
Daniel Goleman (2007). Trí tuệ cảm xúc ứng dụng tronng cơng việc. NXB Tri thức.
Hồng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc. (2005). Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS. NXB
Thống Kê.
32
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
3/2019
Nguyễn Hồi Loan (2007). Trí tuệ cảm xúc của sinh viên các lớp chất lượng cao thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội (trường ĐH KHXH&NV, ĐH KHTN) thực trạng và giải pháp. Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Nguyễn Huy Tú (2000). Trí tuệ cảm xúc - bản chất và phương pháp chẩn đốn. Tạp chí Tâm
lý học. Hà Nội.
Nguyễn Huy Tú (2003). Tài năng - quan niệm nhận dạng và đào tạo. NXB Giáo dục.
Trần Kiều (2004). Nghiên cứu phát triển trí tuệ (chỉ số IQ, EQ, CQ) của học sinh, sinh viên và
lao động trẻ đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa. Báo cáo nghiên cứu kết quả
nghiên cứu đề tài Khoa học cơng nghệ cấp nhà nước MS KX-05-06.
Trần Kiều (2005). Trí tuệ và đo lường trí tuệ. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội.
Title: EMOTIONAL INTELLIGENCE OF PRE-SCHOOL EDUCATION STUDENTS IN THU
DAU MOT UNIVERSITY
Nguyen Thi Tuan Anh
Thu Dau Mot University
Abstract: The study aimed to explore the emotional intelligence of pre-school education students. The
survey on 208 students in Thu Dau Mot university showed that the emotional intelligence reaches the
average level. In which, the abilities to recognize and expressing emotion are better than the capacity
of use, management, and control of emotion. Accordingly, it can be concluded that it is necessary to
develop, combine the contents of emotional intelligence development in the training programs.
Keywords: Emotional intelligence, pre-school students, Thu Dau Mot University.
33