TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN
BÀI THU HOẠCH
KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐÌNH TRONG KHƠNG GIAN VĂN HÓA
LÀNG XÃ NAM BỘ
Kiên Giang, tháng 3 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN
BÀI THU HOẠCH
KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐÌNH TRONG KHƠNG GIAN VĂN HÓA
LÀNG XÃ NAM BỘ
Kiên Giang, tháng 3 năm 2022
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí
do chọn đề tài
Từ xa xưa ngơi đình đã trở thành một biểu tượng về tín ngưỡng, văn hóa
của làng xã Việt Nam. Đình ln gắn liền với làng, và có đơi khi đình trở thành
một cơ sở quan trọng để người ta có thể đánh giá về sự lâu đời, sự sung túc, giàu
có của một làng nào đó. Đình là một biểu tượng của tính cộng đồng, tự trị dân
chủ của làng xã Việt Nam và là trung tâm diễn ra các hoạt động chủ yếu của cộng
đồng làng xã. Chính vì thế khi nghiên cứu về làng xã Việt Nam nói chung, người
ta khơng thể nào bỏ qua “đình làng”, nó như một kho tàng quan trọng để hiểu
hơn về văn hóa, tín ngưỡng của cộng đồng trong suốt dòng chảy của lịch sử đã
qua.
Nam Bộ là một vùng khá mới mẻ, được khai khẩn và sát nhập vào lãnh
thổ Việt Nam trong những năm từ thế kỉ XVII – XVIII. Chính vì thế, vùng đất
này vẫn còn chất chứa nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, làm rõ. Trong đó có
những vấn đề quan trọng liên quan trọng liên quan đến việc tổ chức sinh hoạt,
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội,…của cộng động làng xã tại khu vực này. Cùng
với những nét văn hóa truyền thống của cha ơng, khi tiến hành khai khẩn đất đai
và lập làng, lập xã, những lưu dân người Việt đó là tiếp thu và dung hịa những
nét văn hóa của những cư dân thuộc các dân tộc khác, đã sinh sống từ trước ở
Nam Bộ. Chính vì thế, đời sống văn hóa của cộng đồng làng xã ở Nam Bộ nói
chung mang trong mình sự đa dạng và phong phú nhất định, nhưng luôn thống
nhất trong nền văn hóa chung của tồn dân tộc.
Hình ảnh ngơi đình ln gắn liền và trở thành một phần không thể thiếu
trong cộng đồng làng xã Việt Nam. Ở Nam Bộ, hình ảnh đó cũng khơng hề mất
đi, bởi lẽ những cư dân ở đây đều là những người con của đất Việt, mang trong
mình những truyền thống văn hóa của người Việt. Có thể thấy rằng sự xuất hiện
của những ngơi đình ở Nam Bộ cũng gắn liền với sự hình thành của làng xã tại
đây. Dựa trên nền tảng văn hóa của cha ơng, cùng với đó là sự tiếp nhận những
nét văn hóa đến từ nhiều dân tộc khác, cộng đồng người Việt đã tạo ra cho mình
những nét văn hóa riêng, tạo nên tính độc đáo cho văn hóa miền đất Nam Bộ. Và
ngơi đình trong làng xã Nam Bộ cũng mang những màu sắc riêng như thế. Ngồi
những yếu tố giống với các ngơi đình ở miền Bắc và miền Trung, ngơi đình ở
Nam Bộ cịn có nhiều điểm khác biệt, tạo nên những nét đặc sặc riêng cho ngơi
đình trong cộng đồng làng xã ở vùng đất này.
Chính vì thế, chúng tơi quyết định lựa chọn đề tài “Đình trong khơng gian
văn hóa làng xã Nam Bộ” làm đề tài nghiên cứu. Qua đó có những hiểu biết sâu
sắc hơn về ngơi đình tại vùng đất này, đồng thời góp phần nâng cao tinh thần quê
hương đất nước, yêu những giá trị truyền thống của ông cha ta đã gầy dựng từ xa
xưa.
2. Lịch
sử vấn đề
Hiện nay, các cơng trình nghiên cứu về Nam Bộ nói chung đang được đầu
tư và mở rộng đến nhiều khía cạnh hơn. Tuy nhiên, vấn đề về đình Nam Bộ vẫn
chưa được quan tâm nhiều và cần được tập trung nghiên cứu hơn nữa. Ở đây
chúng tơi xin khái qt một số cơng trình, bài viết tiêu biểu về đình trong làng xã
Nam Bộ mà chúng tơi đã sưu tầm được trong q trình thực hiện:
Trong tác phẩm Đình Nam Bộ xưa và nay, hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng
và Trương Ngọc Tường đã trình bày về sự hình thành và biến đổi của đình Nam
Bộ trong lịch sử. Đồng thời cũng tập trung làm rõ các đối tượng thờ tự cũng như
những nghi thức cúng tế và những ngày lễ trong năm của đình Nam Bộ. Những
nội dung này cũng được trình bày trong tác phẩm Đình Nam Bộ tín ngưỡng và
nghi lễ của tác giả Huỳnh Ngọc Trảng. Tuy nhiên trong tác phẩm này, tác giả đã
khái quát thêm về phần kiến trúc và cách bài trí trong đình Nam Bộ nói chung.
Tiến sĩ Huỳnh Quốc Thắng trong cơng trình Lễ hội dân gian ở Nam Bộ
cũng dành một phần nhỏ để nói đến lễ hội thờ cúng thần Thành Hoàng của cư
dân Nam Bộ. Trong đó tác giả cũng đã đề cập đến nguồn gốc thần Thành Hoàng
và các đối tường thờ tự khác trong đình Nam Bộ. Hơn nữa tác giả cũng nói đến
đặc điểm kiến trúc và tín ngưỡng gắn với ngơi đình Nam Bộ, cùng nội dung lễ
thức trong hội đình Nam Bộ.
Những cơng trình nghiên cứu, những tác phẩm và bài viết về đình Nam
Bộ mà chúng tơi vừa dẫn trên đây, đã cung cấp một lượng thông tin cần thiết giúp
chúng tơi có nhiều thuận lợi hơn trong việc hồn thành bài nghiên cứu của mình.
Từ việc kế thừa những kết quả nghiên cứu đó, chúng tơi sẽ tổng hợp, phân tích
và đưa ra những nhận định riêng của bản thân về ngơi đình trong đời sống văn
hóa của động đồng làng xã Nam Bộ.
3. Mục
tiêu và mục đích nghiên cứu
-Mục đích nghiên cứu: Thơng qua tìm hiểu lịch sử hình thành phát triển, chức
năng giá trị làng xã Nam Bộ để góp phần hiểu rõ hơn về đình trong khơng gian
văn hóa làng xã Nam Bộ, từ đó đưa ra một số giải pháp giúp bảo tồn, phát huy
giá trị của đình làng Nam Bộ.
-Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển, chức năng, giá
trị của đình trong khơng gian văn hóa làng xã Nam Bộ.
4. Đối
tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Với đề tài này chúng tơi xác định đối tượng
nghiên cứu chính của mình là ngơi đình trong làng xã Nam Bộ. Đình chính là nét
đặc trưng nổi bật cho làng xã, nó mang trong mình những giá trị về vật chất và
tinh thần của người dân Nam Bộ từ khi làng xã được thành lập cho đến này.
-Phạm vi nghiên cứu: Khu vực Nam Bộ, tức vùng Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ hiện nay.
5. Phương
pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp chính như: Phương pháp lịch sử, phân
tích, tổng hợp, so sánh để từ đó có thể làm rõ phần nào những đặc trưng, giá trị
của ngơi đình trong khơng gian văn hóa làng xã Nam Bộ.
6. Bố
cục
Ngồi phần mở đầu và kết luận, đề tài được triển khai gồm 2 chương:
Chương 1: Tổng quan về làng xã Nam Bộ
Ở chương này sẽ trình bày về lịch sử hình thành làng xã Nam Bộ và văn hóa làng
xã Nam Bộ.
Chương 2: Đình trong khơng gian văn hóa làng xã Nam Bộ
Ở chương này sẽ trình bày lịch sử phát triển làng xã Nam Bộ, Chức năng của
đình trong đời sống của cư dân làng xã Nam Bộ, kiến trúc và bài trí, đối tượng
thờ tự, lễ hội đình và nghi thức thờ cúng, giá trị của đình làng trong khơng gian
văn hóa làng xã Nam Bộ, liên hệ một số ngơi đình tiêu biểu ở Kiên Giang.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÀNG XÃ NAM BỘ
1.1 Lịch
sử hình thành làng xã Nam Bộ
Nam Bộ là một vùng đất mới khai phá và được sát nhập vào lãnh thổ Việt
Nam khoảng hơn 300 trở lại đây chính vì thế làng xã Nam Bộ có độ tuổi ngắn
hơn nhiều so với làng xã tại Bắc Bộ và Trung Bộ. Hình thành trên cơ sở khai phá,
sinh sống giữa dân tộc Việt và các dân tộc anh em như: Khmer, Hoa, Mạ,
Stiêng,...Chính điều đó đã tạo nên nét riêng của làng Việt Nam Bộ, khiến nó
khác làng Việt trên đồng bằng sông Hồng. Nếu như làng Viêt ở miền Bắc xuất
hiện từ sự tan rã dần của của cơng xã nơng thơn thì làng Việt trên đồng bằng sông
Cửu Long ra đời do nhu cầu cấp tốc khai phá đất mới, từ thế kỉ XVII đến thế kỉ
XIX.
Nói về làng trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, vùng nông thôn ở khu vực
Nam Bộ cũng được tổ chức thành những làng xã, nhưng tên gọi “làng” không
được phổ biến như ở phía Bắc mà thay vào đó là phương ngữ mang đậm tính
chất Nam Bộ đó là “thơn ấp”. Nếu như làng xã ở miền Bắc mang tính chất cổ
truyền, khép kín sau lũy tre làng, cây đa, bến nước, con đị, trong một phạm vi
khơng gian cố định, đã được phân định rạch ròi biên giới lãnh thổ địa phương,
phần nhiều các thơn xóm cách biệt nhau qua một khoảng trống là ruộng, hay ít
nhất cũng bằng một con đường phân ranh giới rõ rệt, thì nét đặc trưng của thơn
ấp Nam Bộ lại mang tính chất mở rộng, làng Nam Bộ khơng có lũy tre bao quanh
với các cổng làng đặc trưng của từng địa phương, sáng mở tối đóng, mà làng
thường được định vị ở vùng đất cao, có nơi gọi là miệt giồng, phần nhiều các
thơn ấp đồng ruộng mênh mơng thẳng cánh cị bay, ở rời rạc cách xa nhau, không
quy tụ chen chúc, khơng có những lũy tre xanh bao bọc xung quanh mà bờ tre chỉ
là một biểu trưng để phân biệt ranh giới giữa các thôn, ấp với nhau. Ở Nam Bộ
đặc trưng là vùng sơng nước, cịn gọi miệt sông, kênh rạch chằng chịt, hoạt động
đi lại thường diễn ra trên sơng nước, do đó các thơn ấp đều trải dài theo các bờ
kênh rạch. Quanh miệt sông, nhà cửa san sát, ghe xuồng tấp nập ngang dọc. Mỗi
bờ tre thường là địa đầu của một thôn ấp trải dài theo triền kênh. Từ xa xưa về
“tình làng nghĩa xóm”, thì cư dân ở các thơn ấp Nam Bộ thường hay có sự biến
động, người dân khơng bị gắn chặt với q hương, khơng bị bó hẹp trong thơn ấp
của mình, do đó tính cách của người cư dân Nam Bộ theo đó cũng trở nên phóng
khống hơn, tự do hơn.
Làng Việt Nam Bộ là làng do người Việt khai phá nhưng nó lại được tạo
lập trong quá trình người Việt cùng khai phá miền Nam Bộ này với người
Khmer, người Chăm, người Hoa, thậm chí cả người Mạ, người Mnơng, người
Stiêng nữa. Trong q trình khai phá không diễn ra sự loại trừ lẫn nhau giữa
người Việt và các dân tộc khác. Khơng khí chung còn cảm thấy được qua điều tra
hồi cố là sự hịa hợp, tình đồn kết thân ái. Càng thế, khi đất chưa khai phá ở
Nam Bộ vẫn cịn nhiều có thể nói là mãi cho đến khi người Pháp hồn thành
công cuộc khai thác của họ trên quy mô lớn. Chính vì lí do đó mà khơng thể xảy
ra việc lấn chiếm đất canh tác bằng bạo lực giữa người mới đến và người đã đến
từ lâu. Sự hòa hợp ấy mang cho làng Việt Nam Bộ mang một số nét khác, so với
làng trên đồng bằng sông Hồng, nơi chỉ thuần có người Việt trên vùng châu thổ
khá rộng. Ở các vùng nơng thơn Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Tri Tôn, cạnh
những nếp nhà, những làng của người Việt cịn có những phum, sóc của người
Khmer. Ở An Giang cạnh người Việt là người Chăm. Tại đây, làng Việt đương
nhiên đã tiếp nhận một số đặc điểm văn hóa của các tộc người khác.
Tóm lại, có thể nói làng Việt ở Nam Bộ được hình thành gắn bó chặt với
lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, gồm dân cư nhiều vùng miền khác nhau cùng
khai phá và sinh sống với nhau và tuổi đời ngắn hơn so với làng ở miền Bắc Việt
Nam (khoảng thế kỉ XVI – XVII trở lại đây).
1.2 Văn hóa làng xã Nam Bộ
Trong quá trình phát triển về phương Nam những người lưu dân Việt vừa
mang theo một hành trang văn hóa truyền thống vốn có cội nguồn ngàn năm từ
thuở vua Hùng dựng nước hoặc các ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc phía Bắc
tràn xuống, vừa tiếp tục mở cửa tiếp thu nhiều nền văn hóa khác từ phương Nam
lên hoặc từ phương Tây đưa lại thông qua con đường trực tiếp hay gián tiếp trong
đó gồm cả các mối quan hệ mới mẻ với các nền văn hóa, các tộc người bản địa
hoặc vừa nhập cư trên đất Nam Bộ. Bên cạnh những nhân tố truyền thống được
bảo lưu và kế thừa mang dấu ấn đặc trưng chung của nền văn hóa dân tộc cịn có
những nhân tố mới phát sinh với những nét đặc thù riêng thể hiện bước phát triển
mới của chính nền văn hóa Nam Bộ.
Nam Bộ “là vùng tụ cư của dân “tứ chiếng” từ nhiều địa phương trên cả nước
(…) q trình hịa hợp dân tộc, hỗn dung văn hóa tộc người đã sớm diễn ra, tạo
nên sự chung sống thuận hòa giữa các lớp cư dân tại đây (…) Xuất phát từ sự đã
dạng tộc người, từ đặc tính mở của vùng về cả tự nhiên và xã hội cộng với những
thách thức từ điều kiện tự nhiên và xã hội trong thời kỳ khai phá vùng đất mơi,
người dân Nam Bộ có truyền thống dung hịa tơn giáo, dễ tiếp nhận những luồng
tư tưởng, tơn giáo từ bên ngoài vào cũng như khả năng sáng tạo những tín
ngưỡng riêng trên cơ sở chọn lọc tinh hịa từ các tơn giáo đã có từ trước”. Qua
nhận định trên của tác giả Trần Thị Mai, chúng ta có thể phần nào giải thích được
những sự sáng tạo riêng của cư dân Nam Bộ trong khía cạnh văn hóa. Đặc biệt
nếu xét trong khơng gian văn hóa làng xã, những cư dân Nam Bộ cũng tạo ra
được nhiều điểm nổi bật mang đậm dấu ấn của con người nơi đây.
Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm, “tính cách của văn hóa Nam Bộ là sản
phẩm tổng hợp của ba nhân tố chính: truyền thống văn hóa Việt Nam tiếp biến
với văn hóa phương Tây trong bối cảnh tự nhiên xã hội Nam Bộ”. Trong đó,
đáng chú ý là nhân tố bối cảnh tự nhiên xã hội ở Nam Bộ đã chi phối mạnh mẽ
đến sự phát triển của nền văn hóa nơi đây. Nhân tố này được tạo nên bởi bốn
hằng số: nơi gặp gỡ của điều kiện tự nhiên thuận tiện, nơi gặp gỡ của các tuyến
đường giao thông đường biển quốc tế, nơi gặp gỡ của cư dân nhiều tộc người đến
từ khắp mọi miền đất nước và cuối cùng, văn hóa Nam Bộ là sản phẩm của q
trình dương tính hóa trong khơng gian và thời gian.
Trong những cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây hồi cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX, Nam Bộ cũng là nơi đi trước cả nước. Chính nhờ việc được tiếp
xúc giao thoa với văn hóa phương Tây mà Nam Bộ nhanh chóng có tư duy hiện
đại bắt kịp với những thay đổi đương thời. Nhờ có điều kiện tự nhiên và môi
trường ưu đãi đã tạo cho Nam Bộ những sắc thái văn hóa tiêu biểu những tính
cách riêng của con người ở vùng đất này. Văn hóa Nam Bộ đã biết kết hợp giữa
văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, từ đó làm nảy sinh các yếu tố văn hóa
riêng biệt. Tất cả các yếu tố trên đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của
cộng đồng làng xã Nam Bộ, cả trong văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần.
Về văn hóa tinh thần, trong đời sống tơn giáo tín ngưỡng làng xã Nam Bộ
là sự đa dạng của các hình thức tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần
của người Việt, Chăm, Khmer,…; và cũng như sự tồn tại của nhiều tơn giáo khác
nhau như: Cao Đài, Hịa Hảo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương,
Nhất Quán đạo,…Chính sự đa dạng này đã góp phần vẽ nên một bức tranh nhiều
màu sắc trong sinh hoạt của các cư dân Nam Bộ, được thể hiện qua các dịp ma
chay, cưới hỏi, các lễ hội được tổ chức trong năm,…
Đặc biệt trong nghệ thuật âm nhạc ở Nam Bộ, người ta thấy ở đây từ lâu
đã có một diện mạo văn hóa hết sức phong phú đó là bên cạnh những làn điệu cải
lương hay những câu hò, điệu lý còn có điệu múa Roămvơng bản sắc của người
Khmer, hát đối đáp Aday hay điệu nhảy theo nhịp trống Chay dăm. Nếu như
người Chăm có những hoạt động nghệ thuật sơi động trong những ngày kết thúc
tháng Ramadan, sinh nhật thánh Muhamed hoặc các nhịp hơn nhân, cưới hỏi, thì
người Hoa lại góp phần vào đời sống văn hóa làng xã Nam Bộ những câu hát
Tiều, hát Quảng. Những đặc điểm văn hóa riêng với nhiều sắc thái của mỗi dân
tộc cùng sinh sống trên mảnh đất Phương Nam đang ngày một đan xen, phát
triển, đan xen hội nhập vào nhau để hình thành nên nét đặc trưng khơng dễ bị
trộn lẫn của văn hóa làng xã vùng Nam Bộ.
Về văn hóa vật chất, có thể thấy rằng sự dung hịa trong văn hóa đã thúc
đẩy sự sáng tạo của những người dân Nam Bộ trong việc ăn mặc, xây dựng nhà
ở, đặc biệt là các cơng trình kiến trúc phục vụ cho nhu cầu về tín ngưỡng tơn
giáo. Mỗi dân tộc sinh sống ở Nam Bộ đều có những nét riêng trong việc xây
dựng nhà cửa, chùa chiền, đình miếu,…Nhưng đa phần chúng ta đều bắt gặp
được sự trộn lẫn của nhiều nét văn hóa khác nhau trong từng cơng trình đó.
Như đã đề cập ở trên, khi người dân Việt khai khẩn đất đai và hình thành
các làng xã, thì đồng thời với nó là sự xuất hiện của các ngơi đình. Việc xây dựng
đình trong làng đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của họ.
Bên cạnh những yếu tố trong kiến trúc, đối tượng thờ tự, việc tổ chức các lễ hội,
…được cư dân ở đây mang từ quê hương phía Bắc của họ vào, thì những yếu tố
mới tiếp nhận từ các dân tộc khác nhau đã sinh sống từ trước ở Nam Bộ, bên
cạnh đó là sự thích nghi với điều kiện tự nhiên, đã tạo nên một diện mạo mới cho
hệ thống đình trong làng xã Nam Bộ. Nó đã góp phần tạo nên những giá trị đặc
sặc cho không gian văn hóa làng xã Nam Bộ. Và đình cũng trở thành một trung
tâm văn hóa, tín ngưỡng của cư dân địa phương.
Tóm lại trên thực tế, từ khi khai mở đến nay, Nam Bộ với vị trí địa lý và
hệ sinh thái tự nhiên kinh tế - xã hội đặc thù, đã là nơi giao lưu của nhiều lớp,
nhiều nền văn hóa khác nhau. Ảnh hưởng của những nền văn hóa cổ truyền tuy
có làm cho sắc diện của mỗi nền văn hóa gặp gỡ giao thoa trên đất này đều có
những biến dị to nhỏ, song nhìn chung nơi đây (cũng như trên cả nước) chưa có
nền văn hóa nào vượt khỏi giới hạn cố hữu phong kiến, nông nghiệp cổ truyền
mãi cho đến khi sự mở rộng giao tiếp văn hóa với phương Tây, tương ứng với
q trình mở rộng sự khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
CHƯƠNG 2: ĐÌNH TRONG KHƠNG GIAN VĂN HĨA LÀNG XÃ
NAM BỘ
Lịch sử hình thành và phát triển ngơi đình ở Nam Bộ
Trước khi đi vào lịch sử của ngơi đình tại các làng xã Nam Bộ, chúng ta
nên điểm qua một vài chi tiết về nguồn gốc của ngơi đình trong làng xã Việt
Nam. Có nhiều ý kiến khác nhau về sự xuất hiện của ngơi đình trong lịch sử Việt
Nam, trong đó hầu hết các nhà nghiên cứu đều lựa chọn khoảng thời gian từ
khoảng thế kỉ XV – XVI làm thời gian xuất hiện của ngơi đình. Theo giáo sư Hà
Văn Tấn, rất có thể từ trước đó bóng dáng của ngơi đình đã xuất hiện rồi những
vẫn chưa có đầy đủ tư liệu để khẳng định một cách dứt khốt mà thơi.
Tóm lại, chúng ta có thể đưa ra nhận định rằng sự xuất hiện của ngôi đình
với chức năng chính là nơi thờ thần, một thiết chế tín ngưỡng văn hóa của người
Việt, là cả một quá trình biến đổi và phát triển lâu dài trong lịch sử. Và cho thế kỉ
XVI, XVII, đình đã định hình được chỗ đứng của nó trong đời sống của những
cư dần trong cộng đồng làng xã Việt Nam.
Trở lại vấn đề lịch sử của ngơi đình ở Nam Bộ, chúng ta khơng khỏi bàn
về q trình những lưu dân người Việt tiến xuống phía Nam và tiến hành cơng
cuộc khai khẩn đất đai, thiết lập các cộng đồng, tổ chức dân cư, bởi lẽ sự xuất
hiện của ngơi đình tại đây phải được gắn liền với sự ra đời của làng xã, đó là sự
tiếp nối truyền thống làng xã ở miền Trung và miền Bắc, nơi xuất phát của họ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu trong tác phẩm Chế độ công điều công thổ
trong lịch sử khai hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh đã ghi nhận sự xuất hiện của
cư dân Việt tại vùng đất Nam Bộ từ khoảng giữa thế kỉ thứ XVI, nhưng rất có thể
khi đó mức độ tập trung của họ chưa cao, việc khai khẩn và tổ chức dân cư còn
mang tính tự phát và lẻ tẻ, chính vì thế đình làng vẫn chưa xuất hiện trong thời
gian này. Cho đến năm 1698, tức thời điểm Nguyễn Hữu Cảnh tiến vào kinh lược
vùng đất mới phía Nam, tiến hành đặt các đơn vị hành chính trực thuộc vào chính
quyền chúa Nguyễn, thì sự tập trung dân cư mới được phản ánh một cách khá
đầy đủ, khi đó số dân trong hai huyện Tân Bình và Phước Long thuộc hai dinh
Phiên Trấn và Trấn Biên khoảng 200.000 người, có lẽ cư dân Việt cùng những
dân tộc khác đã hình thành các tụ điểm dân cư giống như các làng xã truyền
thống ở miền Trung và miền Bắc. Và theo quy chế của nhà Nguyễn, bấy giờ làng
nhỏ (tiểu thôn) gọi là ấp, lân, trang, trại,…(nếu ở đơ thị thì gọi là phố hay
phường); làng trung bình (trung thơn) thì gọi là thơn, làng lớn (đại thơn) thì gọi là
xã. Thay vì gọi là làng thì các tổ chức của cộng đồng người Việt ở Nam Bộ được
gọi thành ấp, thôn, xã tùy theo quy mô và số lượng nhân khẩu trong vùng đó.
Đã số những lưu dân đến Đồng Nai, Gia Định xưa đều là dân Thuận –
Quảng, điều này chỉ ra rằng văn hóa Thuận – Quảng là những hạt giống đầu tiên
được gieo trồng tại vùng đất mới này. Mặt khác, “lưu dân Thuận Quảng (…) đa
số là người nghèo nên hành trang văn hóa được mang theo đến vùng đất mới
chủ yếu là văn hóa dân gian, bao gồm câu hị, điệu lý cũng như loại hình diễn
xướng, tập tục sinh hoạt cùng thế chế văn hóa tín ngưỡng từ làng xã của quê
hương bản quán”, và trong những hành trang đó hình ảnh của ngơi đình cũng
được mang theo và được xây dựng tại các làng xã Nam Bộ, nơi mà họ bắt đầu
một cuộc sống mới với nhiều yếu tố mới.
Khi đời sống cộng đồng được củng cổ hơn, tức khi đó làng xã đã được
định hình một cách rõ ràng thì “xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần, có đình
thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khơn vũ trụ,
bằng khơng thì chỉ là lục bình trơi sơng, việc gạch rời rạc, một dạng “lưu dân
tập thể”, mặc dầu làng lắm gạo nhiều tiền” . Đình trở thành một biểu tượng
khơng thể thiếu đối với làng xã, là nơi diễn ra các hoạt động tín ngưỡng, là chỗ
dựa tinh thần vững chắc cho những người dân tha phương, là nơi giải quyết
những công việc chung của cộng đồng. Và theo tác giả Trần Ngọc Thêm, làng ở
Nam Bộ mang tính chất mở, thống chứ khơng co cụm như ở Trung Bộ và Bắc
Bộ, do vậy tính cộng đồng ở đây thấp hơn hẳn so với tính cộng đồng làng xã ở
Trung Bộ và Bắc Bộ. Chính vì tính cộng đồng ở thơng ấp ở Nam Bộ thấp cho
nên người Việt ở đây lại càng có nhu cầu dựng đình để củng cố cái tình cộng
đồng yếu ớt ấy. Sự ra đời của ngơi đình ở Nam Bộ được ghi nhận nhiều từ sau
năm 1698, nghĩa là sau khi tổ chức đời sống của cư dân ở đây được dần ổn định
theo những quy chế của chính quyền Đàng Trong. Cịn trước đó vẫn chưa có đầy
đủ chứng cứ để xác nhận sự xuất hiện của ngơi đình trong làng xã Nam Bộ.
Nhìn chung trong thời gian nửa sau thế kỉ XIX, kiến trúc đình chùa của
người Việt ở Nam Bộ bị tàn phá nhiều do chiến tranh hoặc bỏ phế, hoang tàn do
loạn lạc. Suốt giai đoạn này chỉ thấy xuất hiện vài ngơi đình được xây dựng mới
như: Đình Phong Phú, đình Chí Hịa xây dựng khoảng cuối thế kỉ XIX ở thành
phố Hồ Chí Minh, đình Hiệp Ninh – Tây Ninh, đình Vĩnh Phong ở Long An,…
Đồng thời một số đình cũng được sửa chữa lại nhưng phần nhiều bị ảnh hưởng
bới các mơ típ nghệ thuận và kiểu thức phương Tây.
Sang đầu thế kỉ XX, các ngơi đình dần dược khơi phục. Đình vừa là nơi
thờ tự thần Thành Hoàng truyền thống, vừa để đáp ứng nhu cầu làm trụ sở của
Ban hội tề làng mà pháp đặt ra vào năm 1904. Nhiều sinh hoạt cũ trong đình
cũng được tổ chức lại, xuất phát từ chính sách mị dân của Pháp. Đình xây mới
trong giai đoạn này có thể kể đến như: Đình Phước Hịa ở Bà Rịa – Vũng Tàu,
đình Mỹ Lộc ở Long An, đình Tân Hưng ở Cà Mau, đình Lương Khế ở Kon
Tum,…Cũng có nhiều đình được tu sửa lại khang trang hơn trước.
Từ năm 1920 trở đi, cùng với sự phát triển của tư bản dân tộc tại miền
Nam, nhiều đình mới được xây cất, đa phần đã được cách tân theo kết cấu và mỹ
thuật hiện đại đương thời, phong cách kiến trúc lúc này phóng khống hơn, hình
thức mặt đứng được chú trọng nhiều hơn, có thể đơn cử một số đình như: đình
Phú Lâm, đình Bình Chánh ở thành phố Hồ Chí Minh,…Sang giữa thế kỉ XX,
tuy số lượng đình được xây dựng mới khá ít, nhưng mặt khác chất lượng lại được
tăng lên, chẳng hạn như đình Trần Hưng Đạo, đình Đơng Phú ở thành phố Hồ
Chí Minh, đình Tú Tề ở An Giang,…
Sau ngày 02/09/1945, tình hình chiến sự ở Nam Bộ có phần bớt gay gắt
hơn trước, kiến trúc đình chùa trong giai đoạn này gần như khơng phát triển do
sinh hoạt thường kỳ của các hương chức làng khơng cịn. Điều này cũng xuất
phát từ chính sách bài trừ các hoạt động “mê tín dị đoan” của của chính quyền
mới do chưa nhận thức được về các hoạt động tín ngưỡng truyền thống của dân
cư trong các địa phương ở Nam Bộ nói riêng và trên cả nước nói chung.
Từ năm 1946 – 1954, cuộc kháng chiến chống sự xâm lược trở lại của
thực dân Pháp diễn ra quyết liệt, tình hình đó làm cho đình trong các làng xã
Nam Bộ tiếp tục rơi vào tình trạng suy thóai và khơng có sự phát triển thêm nào.
Giai đoạn từ năm 1954 – 1975, Nam Bộ trở thành lãnh thổ của chính phủ
Việt Nam cộng hịa. Đời sống và sinh hoạt của các làng xã bị hạn chế do chính
sách khắc nghiệt của chính quyền Sài Gịn, do vậy vị thế của ngơi đình hầu như
mất hẳn. Thêm vào đó, các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên cũng tác động mạnh
mẽ đến sự phát triển của đình làng. Sinh hoạt đình, nếu có, cũng chỉ được tổ chức
sơ sài để noi theo “mỹ tục” tiền nhân qua lễ Kỳ Yên hoặc giỗ Thành Hoàng mà
thơi. Các ngơi đình bị phế bỏ rất nhiều, một vùng chỉ cịn duy trì vài ngơi đình có
giá trị lịch sử và nổi tiếng. Khơng có ngơi đình nào được xây mới, chỉ vài đình
được sửa chữa lại mà thôi.
Sau khi đất nước thống nhất, Nam – Bắc sum họp một nhà, và đặc biệt là
sau công cuộc đổi mới đất nước, các ngơi đình ở Nam Bộ được dần hồi phục và
xây mới, các sinh hoạt lễ hội cũng được tổ chức thường xuyên hơn với sự tham
gia của nhiều tầng lớp dân cư. Tuy nhiên việc xây dựng và sửa chữa những ngơi
đình chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu hướng về văn hóa cội nguồn của nhân dân trong
nước và Việt kiều trong thời đại mới, phần lớn cũng chỉ dừng lại ở tính hình thức.
Hiện nay, mặc dù chính sách của Đảng và Nhà nước đối với văn hóa là xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có nhiều chính sách trong
việc tu sửa, xây dựng lại các ngơi đình, tổ chức các lễ hội lớn nhằm truyền bá và
giáo dục các giá trị văn hóa dân tộc cho nhân dân. Tuy nhiên, ở nhiều nơi chính
sách đó chỉ nằm trên giấy tờ, nhiều ngơi đình vẫn bị bỏ hoang không được ai
quan tâm, ở các thành phố lớn đình dần trở thành nơi để cử hành các hoạt động
mê tín dị đoan, và hầu hết giới trẻ ngày này vẫn không hề chú ý đến sự tồn tại
của những ngơi đình đó – một biểu tượng của làng xã Việt Nam truyền thống.
Và để tóm lại vấn đề lịch sử của ngơi đình ở Nam Bộ chúng ta có thể dẫn
ra đây nhận định của tác giả Bùi Thụy Đào Nguyên trong một bài viết như sau:
“Nhìn chung ở Nam Bộ, sau khi mỗi làng xã được hình thành và tương đối ổn
định, thì tùy theo cuộc đất, tiền bạc và cơng sức đóng góp của cư dân, mà tiến
hành xây dựng một ngơi đình. Từ đó ngơi đình tồn tại, phát triển, biến đổi qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau của cộng đồng ấy”.
.2.
Chức năng của đình trong đời sống của cư dân làng xã Nam Bộ
Đã từ rất lâu trong quá khứ, người nông dân Việt Nam dành cho đình làng
những tình cảm tốt đẹp nhất. Dân làng dùng chính tài sản mà mình làm ra hoặc
có được để xây dựng cho làng một ngơi đình có kiến trúc lớn nhất. Qua đó ta
thấy được sự gắn bó mật thiết với nhau giữa con người và ngơi đình. “Trí tuệ con
người làm ra ngơi đình, ngơi đình lại ghi nhận cuộc sống và tình cảm của con
người, một cách trung thực nhất (…) đình đã trở thành một hình ảnh của qn
hương, làng nào cũng có đình, người dân nào cũng tự hào về ngơi đình của làng
mình”. Nếu xét trong tổng thể đời sống của cộng đồng làng xã Việt Nam nói
chung và làng xã Nam Bộ nói riêng, đình đều đóng một vai trị và chức năng
quan trọng mà khơng một cơng trình nào có thể thay thế được.
Theo giáo sư Hà Văn Tấn, “đình là ngơi nhà cơng cộng của cộng đồng
làng xã Việt Nam. Nơi đây ba chức năng được thực hiện hành chính, tơn giáo và
văn hóa. Về chức năng hành chính, đình là chỗ để họp bàn các “việc làng”, để
xử kiện, phạt vạ,…theo những quy ước của làng. Về chức năng tơn giáo, đình là
nơi thờ thần của làng, thường là một vị, những cũng có khi nhiều vị, được gọi là
“Thành Hồng” làng. Về chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các kịch hát,
như chèo, hay hát cửa đình – tức ca trù, một hình thức đã phát triển trong các
thế kỉ trước, nơi tiến hành các lễ hội các trò chơi. Thực ra các chức năng trên
không bao giờ được tách bạch, mà đan xen, hịa quyện với nhau”, đó chính là ba
đặc trưng chính và xun suốt nhất của ngơi đình trong làng xã Việt Nam. Tuy
nhiên, đối với làng xã Nam Bộ nội dung cụ thể của từng chức năng trên có thể rất
khác so với làng xã ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Chính vì vậy việc tìm hiểu các chức
năng của đình Nam Bộ cần được đặt cụ thể trong khơng gian làng xã Nam Bộ và
xem xét nó trong cả một q trình lịch sử, để có thể đưa ra những kết luận khách
quan nhất.
.2.1.
Chức năng tín ngưỡng
Khi nói đến vấn đề tín ngưỡng nhà nghiên cứu Ngơ Đức Thịnh có đưa ra
quan điểm sau: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó
thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào
“cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát
được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin
vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con
người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như
giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình
cảm...”. Khi chúng ta hiểu khái niệm tín ngưỡng như trên và đưa nó vào một đối
tượng cụ thể là ngơi đình, thì chúng ta có thể dễ dàng nhận định được chức năng
tín ngưỡng của ngơi đình là gì. Đó chính là việc ngơi đình đáp ứng được nhu cầu
thể hiện niềm tin vào “cái thiêng” của cộng đồng cư dân trong làng xã.
Ngày từ xa xưa, người Việt Nam đã thể hiện niềm tin của mình vào nhiều đối
tượng “thiêng liêng” khác nhau, và đình làng đã trở thành một thiết chế cơ bản
của làng xã để thỏa mãn niềm tin đó của dân làng. Đối với những cư dân trong
làng xã Nam Bộ, như đã đề cập, đa phần họ có nguồn gốc từ các làng xã ở miền
Trung tiến xuống phía Nam để khai khẩn đất hoang và thiết đặt làng xã tại một
vùng đất mới. Hành trang văn hóa dân gian mà họ mang theo, trong đó có các tín
ngưỡng dân gian, đã trở nên cần thiết đối với họ. Trong quá trình di cư vào Nam
Bộ, họ phải trải qua mn vàn những khó khăn, thử thách. Đầu tiên là một
khoảng thời gian lênh đến trên biển cả, theo hướng gió mùa, để tiến vào miền đất
hoang vu, hẻo lánh, nơi rừng hoang nước độc chất chứa biết bao nhiều là nguy
hiểm đang rình rập. Dựa vào những câu ca dao của các lưu dân xưa chúng ta có
thể thấy rất rõ được điều này:
-
Đồng Nai xứ sở lạ lùng
Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp đua
U Minh khốn khổ quá chừng
-
Xuống sông sấu bắt, lên rừng cọp tha
-
Chèo ghe sợ sấu cắn chân
Xuống bưng sợ đĩa, lên rừng sợ ma
Chính những khó khăn, thử thách đó càng thôi thúc họ phải đặt niềm tin
vào những đấng thiêng liêng, có khả năng nâng đỡ họ về mặt tinh thần. Ngoài
các đối tượng “linh thiêng” mà những cư dân xưa đưa từ q hương của họ vào,
thì ngơi đình ở Nam Bộ cịn là nơi để thờ tự nhiều vị thần khác. Đó có thể là các
vị thần của các cộng đồng người Khmer, Chăm, Hoa,…, là những vị thần mà họ
mới thờ tự khi tiến vào phía Nam này,…Tất cả đã tạo nên những nét riêng trong
tín ngưỡng của cư dân Nam Bộ, mà ngơi đình là nơi thể hiện những nét riêng đó.
Ngơi đình ở Nam Bộ với chức năng tín ngưỡng mạnh mẽ đã trở thành
“nơi tập trung của mọi thần trong vùng, một thiện tượng hình như khơng có
hoặc mờ nhạt ở miền Bắc”. Cụ thể ra, những cư dân trong làng xã Nam Bộ đã
“vượt qua nhận thức “Thành Hoàng là thần bảo vệ thành lũy, hào lũy” nguyên
gốc từ Trung Quốc, hoặc “vị thần đại diện cho vua để bảo vệ toàn dân trong
làng” mang tính chính thống và phổ biến cả nước, thần Thần Hoàng trong tâm
thức người Việt ở Nam Bộ chủ yếu là “Thành Hồng Bổn Cảnh” với nghĩa đó là
“vị thần của cộng đồng dân cư” địa phương tại chỗ (khơng nhất thiết là một
ngơi làng khép kín như ở miền Bắc), nó đồng hóa và gần gũi với anh linh những
thế hệ đi trước có cơng lao mở đất, lập làng, dựng ấp (Tiền hiền khai khẩn) và có
cơng trạng mở trường, lập chợ, đắp đường (Hậu hiền khai cơ) cũng như bao
gồm cá hồn thiêng của anh hùng, liệt sĩ hóa thân cùng khí thiêng sơng núi và cả
các thần thánh thiêng liêng đang ngự trị tại vùng đất mới hoặc được mang từ
vùng quê cũ ở miền Bắc, miền Trung…”. Sự đa dạng và đa nguyên trong hệ
thống đối tượng thờ tự của các ngơi đình ở Nam Bộ đã thể hiện nhiều yếu tố tín
ngưỡng khác nhau của người Việt. Trong đó có những yếu tố tín ngưỡng truyền
thống đã có từ hàng ngàn năm, cùng những yếu tố mới được tiếp thu hoặc sáng
tạo trong quá trình khẩn hoang lập làng xã. Những điều đó tạo nên cho ngơi đình
ở làng xã Nam Bộ một chức năng tín ngưỡng riêng và có nhiều điểm khác biệt so
với các ngơi đình ở miền Trung và miền Bắc. Với vấn đề này, tác giả Trần Ngọc
Khánh cũng nhận xét: “Với tư cách là một hình thái tín ngưỡng dân gian, đình
làng cịn là “của ăn” ni dưỡng đời sống tâm linh, là bức tranh nhiều màu sắc
tập hợp các hình thái tín ngưỡng cổ truyền của cư dân nông nghiệp”. Để làm rõ
được sự đa dạng trong hệ thống thần linh mà đình Nam Bộ thờ tự, chúng tơi sẽ
dành một phần sau để nói đến vấn đề này, qua đó làm rõ thêm về chức năng tín
ngưỡng của ngơi đình.
.2.2.
Chức năng hành chính
Mặc dù trong làng xã Nam Bộ “chức năng thờ cúng đã hoàn toàn lấn át
chức năng thế tục”, nhưng trong một số giai đoạn nhất định, đình làng ở đây vẫn
trở thành nơi giải quyết các công việc của cộng đồng làng xã. Do đặc thù tính cố
kết cộng đồng trong làng xã Nam Bộ không cao nên việc quản lý và điều hành
các công việc trong làng xã không được tập trung mạnh mẽ như ở miền Bắc. Tuy
nhiên vẫn có những tổ chức nhất định nhằm tiến hành các công việc mang tính
hành chính trong làng xã, và được diễn ra tại các ngơi đình.
Trong giai đoạn đầu, do phải tập trung vào việc khai hoang nên bộ máy
chính quyền địa phương tại Nam Bộ còn khá đơn giản và cịn nặng về tính tự trị,
tự quản trong từng ấp, thơn, xã. Rất có khả năng khi đó đình làng đã trở thành
một trung tâm giải quyết các công việc thường nhật trong làng xã như xét xử các
vụ tranh chấp, phạt vạ, khao vọng, từ thu tô thuế đến việc bắt lính, bỏ các xuất
phu đinh,… “Mãi đến đời Minh Mạng (1820 – 1840) triều đình mới tổ chức qui
định biên chế chính quyền xã thơn cho thích hợp với điều kiện kinh tế văn hóa xã
hội bấy giờ. Bản Minh Điều Hương Ước ban hành năm Tự Đức thứ năm (1852)
là qui định hành chánh tóm tắt, mang tính tổng hợp có giá trị áp dụng cho tồn
khu vực Nam Bộ”. Và theo Minh Điều Hương Ước, hương chức hội tề trong các
xã, thôn, ấp được chia thành bốn loại: lý lịch xuất thân, văn học xuất thân, phú
hào xuất thân và công lao xuất thân.
Trong một xã, thôn hay ấp, người dân có thể tùy tiện linh động cử các chức danh
hương chức hội tề: Trưởng mục (còn gọi là Cả trưởng, Hương trưởng), Hương
chủ, Hương sư, Hương chánh, Hương quản, Hương thân, Hương hào, Thơn
Trưởng (có Phó thơn, Lý trưởng giúp việc), Biện đình, Biện lại, Cai lân, Cai tuần,
Cai binh, Tham trưởng, Cai đình, Tri sự, Tri khách, Hương đình, Chánh bái,
Hương lễ, Hương văn, Tri văn, Hương ẩm, Thủ chỉ, Thủ bổn, Hương giác,
Hương quan, Kế hiền.
.2.3.
Chức năng văn hóa
Đình làng là trung tâm sinh hoạt văn hóa của cả làng. Đỉnh cao của các
hoạt động văn hóa ở đình làng là lễ hội. Làng vào hội cũng được gọi là vào đám,
là các hoạt động có quy mơ và gây ấn tượng nhất trong năm đối với dân làng.
Hầu hết các lễ hội được diễn ra ở đình làng, gắn bó với đời sống của dân làng. Lễ
hội bao gồm hai phần chính là phần lễ và phần hội. Lễ là các hoạt động có tính
nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng, hội là những hoạt động mang tính giải trí, gắn
liền với thế tục, nghệ thuật, thể dục, thể thao.
Đình ở Nam Bộ thiên nhiều về phần lễ hơn phần hội. Trong những ngày tổ
chức lễ hội, người dân trong làng tập trung tại ngơi đình và cùng tham gia vào
các nghi lễ cúng tế. Hầu hết các nghi thức cúng tế thường khá phức tạp đòi hỏi
việc tổ chức và tiến hành một các quy củ. Tựu chung, hằng năm các ngơi đình ở
đây thường tổ chức các lễ chính sau:
-
Nguyên đán: mồng một tháng giêng
Khai hạ: mồng bảy thang giêng
Thượng nguyên: rằm tháng giêng
Kỳ Yên: ngày không nhất loạt
Trung nguyên: rằm tháng bảy
-
Thượng điền: ngày không nhất loạt
Hạ nguyên: rằm tháng mười
Đưa thần: 25 tháng chạp
Rước thần: 30 tháng chạp
Lễ vía các thần phối tự trong đình và giỗ cá người được thờ hậu:
không phổ biến và người tổ chức lễ cũng tùy trường hợp cụ thể.
Tuy thiên về phần lễ nhiều, nhưng trong các dịp lễ hội ở đình Nam Bộ vẫn
diễn ra các hoạt động mang “tính hội” được tiến hành lồng ghép vào các hoạt
động trong phần lễ. Chẳng hạn, vào mùa lễ hội đình làng trở thành một “nhà hát
của làng, thời xưa cũng như thời nay, nói đên lễ cầu an ở đình là nói đến hát bội.
Trước đinh, dành một mặt bằng để xây cái “võ ca”, võ tức là vũ, theo nghĩa
miếu vũ, kiểu nhà khơng có vách” hay “là sân vận động, ngày Kỳ Yên (cầu an)
tổ chức đánh võ, kéo dây để biểu dương sức mạnh của thanh niên ngày càng dồi
dào, khi vào vận hội mới”.
Như vậy những ngơi đình trong làng xã Nam Bộ vẫn đảm bảo thực hiện
được các chức năng cơ bản của mình là chức năng tín ngưỡng, hành chính và văn
hóa. Tuy nhiên, có thể thấy được rằng, ở từng chức năng cụ thể, ngơi đình ở Nam
Bộ vẫn bộc lộ được những nét riêng so với đình làng ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Ở
mỗi giai đoạn khác nhau, các chức năng này của đình được thực hiện theo những
mức độ khác nhau do tác động từ nhiều yếu tố. Cho đến ngày nay, đình vẫn giữ
được chức năng tín ngưỡng và văn hóa của mình, cịn chức năng hành chính xưa
đã được tập trung vào chính quyền địa phương. Tuy nhiên, do sự phát triển nhanh
chóng của xã hội, ở nhiều nơi, chức năng tín ngưỡng và văn hóa của ngơi đình
đang bị lãng qn và dần mai một khi người dân ngày càng chạy theo lối sống
hiện đại, tập trung vào việc thỏa mãn đời sống vật chất hơn là đời sống tinh thần
như trước.
Kiến trúc và bài trí
Kiến trúc
Cũng như hầu hết các ngơi đình ở miền Bắc và miền Trung, ngơi đình ở
Nam Bộ cũng được xây dựng tại những địa điểm có khơng gian đẹp và thích hợp
với chức năng của nó. Thế nhưng do sự chi phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội mà việc xây dựng những ngơi đình ở Nam Bộ thường ít chịu ảnh hưởng
của thuật phong thủy. Người dân trong vùng Nam Bộ hay dựng đình cạnh bờ
kinh rạch, nên đình ở đây thường hướng theo dòng chảy của các con kênh rạch
đó. Thêm nữa người Nam Bộ coi trọng việc tránh hướng gió mùa và tránh mưa
tạt nắng hắt vào bên trong đình nên nếu khơng theo hướng của kênh rạch thì đình
thường được xây theo hướng Đơng hoặc Đơng Nam thay vì hướng Nam như
truyền thống.
Nói đến kiến trúc cổ khơng thể nào khơng nói đến yếu tố cây xanh. Cây
xanh được người ở Nam Bộ xưa xem là trọng điểm trong tổ chức cảnh quan mơi
trường của ngơi đình làng. Nó vừa đóng vai trị trang trí cho ngơi đình, vừa đóng
vai trị tạo cho khơng gian đình một vẻ u tịch, và dường như muốn nhấn mạnh
một điểm cơ bản là: xác nhận mảnh đất dựng đình là mảnh đất tốt ứng với đất
thiêng, đất lành. Chính vì thế cũng như ngơi đình ở các vùng khác, đình ở Nam
Bộ cũng tạo được điểm nhấn qua việc trồng cây xanh trong khn viên của đình.
Qua thực tế cho thấy, nếu như ở đình làng Bắc Bộ, các cây đa, cây gạo, cây si có
tán rộng thường được trồng để nhằm làm cho kiến trúc hòa lẫn với thiên nhiên,
thì ở Nam Bộ cây dương, cây sao, cây dầu với thân cao vút, dáng đẹp và tán gọn
được sử dụng để tạo nên điểm nổi bật cho cảnh quan ngơi đình, cuốn hút sự chú
ý của khách từ xa.
Bố cục kiến trúc đình làng Nam Bộ rất đa dạng, thậm chí là có kiểu thức
và quy mộ thật vơ chừng vì đa phần đình cổ bị chiến tranh mưa gió phá hoại, rồi
khi tái lập lại do điều kiện kinh tế hoặc làm sơ sài vì thơn làng khơng có tài lực
đầy đủ; hoặc ngược lại, có tiền nhiều thì thích xây dựng hiện đại chạy theo thời
thượng nên kiểu thức phá phách tân cổ Tàu Tây tạo nên những ngơi đình h
dạng, lịe loẹt.
Ngơi đình ở Nam Bộ thường là một quần thể kiến trúc gỗ, gồm nhiều ngôi
nhà vuông sát liền nhau theo kiểu sắp đọi và thường được xây dựng ở vị trí cao
ráo. “Nhà vng là một loại hình kiến trúc tơn giáo đặc trưng cho Nam Bộ. Loại
nhà này có nóc rất ngắn so với chiều dài diềm mái và có bốn mái trải rộng ra
bốn phía. Có ý kiến cho rằng những ngơi nhà vuông này là chịu ảnh hưởng của
stupa (tháp) Phật giáo. Cũng có ý kiến cho rằng, người Việt khi vào khai phá đất
Nam Bộ, đã dựng lên các nhà vng làm nơi sinh hoạt chung cho mỗi dịng họ,
mỗi nhóm người cùng di cư vào vùng đất mới”. Và đặc biệt, đình ở Nam Bộ có
những ngơi nhà có chức năng riêng mà những ngơi đình ở miền Bắc và miền
Trung khơng có. Nhà võ ca là một trong số đó. Xét về tổng thể, một ngơi đình ở
Nam Bộ, lần lượt từ ngồi vào trong đại thể có các đơn ngun kiến trúc sau:
Cổng đình có kiểu dạng khơng chừng. Cổng đẹp thì có trụ cột, trên có mái
lợp ngói, hoặc trên có hai trụ đặt cặp lân bằng sành tráng men. Hình dáng của
cổng đình đa phần bắt nguồn từ đất Bắc và phần nào chịu ảnh hưởng của văn hóa
Trung Hoa, với ba cửa vào gồm cửa chính và tả, hữu xây liền nhau, cân xứng.
Bình phong nằm chính giữa phía trước sân đình. Bình phong đầy đủ thì
giữa tấm bình phong xây gạch trát vữa hồ, chạy chỉ và hai bên là hai trụ (trụ trắp,
trụ sen hay trên đầu trụ có gắn cặp lân sành). Bình phong ở Nam Bộ thường được
gọi là “bình phong ông Hổ”, nhưng có thể đắp nổi (hoặc vẽ) ông chúa sơn lâm
đứng bên gộp đá lởm chởm, có một cây cổ thụ gie cành phủ lá theo kiểu tranh
phong cảnh sơn thủy, lại có lúc đó là con long mã trên lưng chở cái phù đồ và
nhiều trường hợp lại vẽ đề tài long hổ hội (cọp dưới đất ngước lên và rồng bay ẩn
trong mây nhìn xuống) để biểu thị âm dương hịa hợp. Cọp ở bình phong là cọp
vàng (hồng hổ) có ý nghĩa đó là ở giữa khn viên đình và hồng hổ biểu thị
cho vị chúa thể thuộc hành thổ đóng ở trung tâm theo quan niệm ngũ phương/ngũ
hổ/ngũ đế tương ứng với ngũ sắc/ngũ hành. Bên cạnh đó cũng có nhiều đình đắp
hình cá vượt vũ mơn cho tấm bình phong ở phía trước đình.
Một điểm đáng chú ý ở đình Nam Bộ là bệ thờ Thần Nơng hay cịn gọi là
là thần Xã Tắc. Bệ này được xây bằng gạch. Đây là một dạng thu gọn đàn xã tắc
và đàn tiên nông ở kinh đô. Ở Nam Bộ, bệ thờ Thần Nông được gắn với mặt sau
của bức tường bình phong. Ý nghĩa biểu tượng phối tự trên đây, vừa giữ nét
truyền thống thờ Thần Nông vừa mang ý nghĩa mới, thờ thần Hổ.
Miếu thờ ở các đình Nam Bộ thường là một kiến trúc thờ tự nhỏ có mặt
bằng hình vng, mỗi cạnh chừng một mét và cao hai mét, vách quây kín chung
quanh, trên có lợp hai mái, rất hiếm khi miếu được xây cất lớn nằm hai bên
chánh điện và hướng mặt ra ngồi. Trong miếu có một bàn thờ, trên để bài vị, lư
hương, bình hoa, người ta treo trên vách những đồ mã: giày dép, quần áo, nón,…
Trong các miếu này, tùy theo khu vực mà người ta có thể thờ cúng những vị thần
sau: Bạch Hổ, Ngũ Hành Nương Nương, Cửu Thiên Huyền Nữ, Bạch Mã Thái
Giám, Thổ Thần, Nhị vị Cơng tử, Ơng Tà (thần Neakta của người Kher),…
Võ ca là một kiến trúc đặc biệt chỉ tồn tại ở các đình tại Nam Bộ. Đây là
chỗ tập kết người và nghi trượng phục vụ cúng tế, đồng thời là nơi diễn tuồng hát
vào dịp lễ hội ở đình. Theo Huỳnh Tịnh Của, võ là cái nhà, ca là hát, võ ca là nhà
ca hát. Còn với người Nam Bộ, võ ca đơn giản là nhà để hát bội. Hát bội tham
gia như một thành phần không thể thiếu vắng của lễ hội đình. Đây chính là vốn
văn hóa mà người Việt khi đi vào khai phá vùng đất lạ này đã mang từ miền
Trung theo cùng với những hành tranh khác. Xét về nội dung bên trong, võ ca
được chia thành hai khu vực: phần ngoài cùng từ cổng vào là hậu trường mà dân
gian gọi là buồng hát và phần trong với khoảng trống dành ở giữa làm nơi để ván
tế, trên đó sắp xếp các lễ vật của dân làng.
Võ qui là ngôi nhà nằm giữa nối lền sát với võ ca và chánh điện tạo thành
một khối kiến trúc chính trong khn viên của đình. Võ qui đơi khi cịn được gọi
là võ cua. Người ta giải thích sở dĩ có những tên gọi đó là do ngơi nhà này ngắn,
lại khum khum như con cua hay mai rùa. Đồng thời còn dẫn chứng tại miền
Trung trong một số ngơi nhà cũng có kiểu trần được làm cong lên và được gọi
tên như thế. Tuy nhiên cách giải thích hợp lí nhất, võ quy là căn nhà quy tụ mọi
người vào đó để lạy thần khi khơng được phép vào chánh điện nơi có bàn thờ
thần. Ngoài ra võ quy cũng được sử dụng làm nơi thờ tự với tên gọi là Tiền điện.
Chánh điện, còn gọi là chánh tẩm, là kiến trúc quan trọng nhất trong ngơi
đình vì đây là nơi ngự trị của thần linh – thần Thành Hoàng làng. Chung quanh
chánh điện, ngoại trừ mặt trước nối với đơn nguyên khác, cịn lại hầu như xây
tường kín. Hai bên hơng có hai cửa nhỏ. Cửa chính đi vào chánh điện lớn rộng,
gần như được mở suốt hết các gian. Cửa này đóng quanh năm và chỉ mở trong
các ngày lễ lớn sau khi đã làm lễ khai môn xin phép thần. Hằng ngày muốn đi
vào bên trong phải đi qua cánh cửa hơng hé mở. Tồn bộ khu thờ bên trong là cả
một triều đình tượng trưng. Ở giữa cuối cùng là bàn thờ thần Thành Hồng có bài
vị ở long ngai, hai bên sắp xếp rất nhiều bàn thờ khác theo trật tự ngôi vị: Tả ban,
Hữu ban, Tiền hiền, Hậu hiền,…, khắp nơi chạm rồng, trổ phượng bay lượn, có
sơn son thếp vàng. Giữa chánh điện có bốn cột chính thường trang trí hình rồng
ẩn hiện trong mây nên gọi là long trụ, hình tượng này có thể được chạm trỗ trực
tiếp hoặc được ốp vào cột.
Nhà túc tùy theo chức năng mà có những tên gọi khác nhau. Nhà túc hay
nhà túc yết vì túc có nghĩa là chờ đợi; do việc tế tự trước kia trong lễ Kỳ yên
thường diễn ra lúc nửa đêm nên dân làng tụ tập nhau tại đó để chờ dự lễ. Được
gọi là nhà khách vì ở đó các khách lễ sau khi cúng tế thần quy tụ tại đó để dự tiệc
hay để uống trà. Được gọi là nhà hậu sở vì chính nơi này ngày xưa làm chỗ để
các hương chức làm việc và ngày nay làm nơi nhóm họp của Hội Quý tế thần
linh. Ở một số ngơi đình, tại đây cịn là nơi thờ Tiên sư cùng những hương chức
quá vãn nên còn được gọi là nhà Tiền vãng, và nơi này cũng đôi khi được sử
dụng cho ông từ cư ngụ để tiện cho việc chăm lo quản đình.
Ngồi ra ở các ngơi đình cịn có thêm Nhà đơng lang và tây lang là hai dãy
nhà khách cất nối vào hai bên chánh điện. Nhà trù, xây ngay sau chánh điện, bên
cạnh nhà túc, chính là nhà bếp, nơi chuẩn bị thức ăn để cúng thần cũng như đãi
khách. Nhà cối, bên cạnh nhà trù, chính là kho chứa vật dụng của đình.
Bài trí
Đến bất cứ ngơi đình nào ở Nam Bộ, nếu được vào gian chánh điện, nơi
trung tâm thờ tự, ta có cảm giác như bước vào một nhà tổ trong ngôi chùa miền
Bắc, có rất nhiều bàn thờ, chỉ hơi khác là các bàn thờ thường khơng có tượng. Có
thể nói, viết chữ Hán làm biểu tượng thần thờ là đặc điểm phổ biến ở các đình
Nam Bộ.
Bàn thờ trong chánh điện chia làm ba hàng từ trong ra ngồi, chính giữa
trong cùng là bàn thờ thần Thành Hoàng. Biểu tượng thiêng liêng tôn thờ phổ
biến ở bàn thờ này là một chữ “Thần” rất to được chạm nổi trên nền hồi văn, đặt
trong khám thờ, xung quanh chạm trỗ rồng phượng hoa lá, sơn son thếp vàng
lộng lẫy. Từ bàn thờ này tiến theo thứ tự ở hàng giữa ra đến cửa chính, phía trước
khám thờ thần có đặt một các sạp thờ hau bàn thờ rộng rãi, dùng để bày biện lễ
vật cúng và bao giờ cũng không thiếu một cái giá bằng gỗ dùng để đặt con heo
hay con bò tế, gọi là cái tợ.
Từ bàn thờ thần Thành Hoàng tỏa ra hai bên, bên trái là hương án thờ bài vị
chữ “Tả ban”, bên phải hương án thờ bài vị viết chữ “Hữu ban”, với ý nghĩa là
những quân hiệu cấm vệ tả hữu, bảo vệ cho thần Thành Hoàng. Cả hai hương án
này đều hướng ra mặt cửa chính như bàn thờ thần Thành Hồng.
Tiếp tục dọc theo hai bên hai bên tường tiến về hướng cửa chính là những
hương án nằm đối mặt nhau thờ các bậc tiền bối có cơng như: Tiền hiền Hậu
hiền, cùng những thần thành dân gian khác như: Cửu Thiên Huyền Nữ, Ngũ
Hành Nương Nương, Thanh Long, Bạch Hổ, Quan Thánh Đế Quân, Chúa Ngọc
Nương Nương,…
Khu vực tiền điện, ngoài các hương án thờ phụng các thần thành phối tự
chưa được thờ trong chánh điện, cịn có ba “tiền án” của ba khám thờ thần, Tả
ban và Hữu ban, gọi là bàn Hội đồng, bàn Đông hiền và bàn Tây hiến. Riêng bàn
thờ Hội đồng gồm có hai phần theo thứ tự từ trong ra ngoài là bàn thờ Hội đồng
nội rồi Hội đồng ngoại. Ở khu vực tiền điện, nhiều đình cũng bày thêm lỗ bộ, bát
bửu, lọng,…để tạo thêm vẻ uy nghi cho ngơi đình.
Khu vực nhà hậu sở của đình thường có ba hay năm hương án thờ phụng:
Tiên sư (chính giữa), Tiền hiền (bên trái), Hậu hiền (bên phải), Nam hội viên quá
vãng (bên trái), Nữ hội viên quá vãng (bên phải). Thường thì hương án phụng thờ
Tiền hiền và Hậu hiền đặt trong Chánh điện của ngơi đình được giải thích là các
vị đã từng đóng góp xây dựng, trùng tu và phát triển ngơi đình qua nhiều thế hệ.
Cịn hương án thờ Tiền hiền, Hậu hiền được đặt ở đây, bên cạnh bàn thờ Tiên sư
là những người đã có cơng sức phát triển làng mạc, lập chợ, cất cầu kể từ sau khi
khai phá cho đến hiện tại.
Khu vực nhà bếp, ngồi bếp núc và các vật dụng có liên quan, thường có
thêm hương án thờ phụng thần Bếp, gọi là Định Phúc Táo Quân hay Đông Trù
Tư Mệnh, Thổ Địa và thần Tài,…với các tấm biển sơn son chữ vàng ghi tước
hiệu các vị thần cùng những đồ thờ tự.
Đối tượng thờ tự
Đình Nam Bộ, kể cả tập hợp các đàn, miếu trong khn viên của nó, có
khi thờ đến ba mươi bốn mươi vị thần, ngoài đối tượng thờ chính là thần Thành
Hồng. Tính chất phối tự này cũng thể hiện trong danh mục các vị thần được
cung thủ “đồng lai cộng hưởng” trong văn tế cúng đình vào dịp lễ Kỳ Yên. Xét
một cách tổng quát, tập hợp các đối tượng thờ tự này hơii nhập vào đình do nhiều
tác nhân lịch sử văn hóa khác nhau: các thần linh gốc Trung – Bắc do những lưu
dân Thuận – Quảng mang vào đây thời khai hoang, các thần linh gốc Chăm đã
hội nhập vào hệ thống thần linh Việt ở Trung Bộ, các thần linh của người Hoa,