Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Sự khác và giống giữa các làng bắc trung nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (53.02 KB, 3 trang )

So sánh Các Làng Miền Bắc , Trung , Nam.
2.1 Tuổi đời của các Làng ở Việt Nam.
- Miền Bắc :
Làng Việt Bắc Bộ có một lịch sử tồn tại lâu đời, khoảng 4000 năm , đất Bắc đã
diễn ra q trình tan rã của cơng xã thị tộc và thay vào đó là cơng xã nơng thơn.
Đây chính là q trình hình thành làng Việt. Mỗi làng chỉ có bao gồm một số gia
đình sống quây quần trong một khu vực nhất định. Vì vậy nên quan hệ láng giềng
và quan hệ huyết thống được bảo tồn và củng cố rất chặt chẻ tạo nên sự đặc trưng
riêng cho Miền Bắc.
- Miền Trung :
Miền Trung năm 192 là một đất nước có tên là Chăm-pa và trải dài qua hàng thế kỷ
và Chân dung làng xã miền Trung thật sự định hình rõ nét với những cuộc di dân
lớn có tính cưỡng bức lẫn tự nguyện trong thời nhà Hồ (thế kỉ XV), và sau đó là
dưới thời các chúa Nguyễn cả về mặc quy mô, đất đai, dân số, quân số, nhân lực,
và khả năng kinh tế, quốc phòng.
- Miền Nam :
Tuổi đời của làng Việt Nam Bộ ít hơn rất nhiều. Làng Việt ở Nam Bộ mới chỉ
khoảng ba trăm tuổi, được tạo lập từ khi người Việt tới khai phá trong quá trình
Nam tiến, mở rộng biên cương, xác lập chủ quyền. Người Việt đã có mặt ở
vùng đất Nam Bộ trước thế kỷ XVII, nhưng lúc đó chưa đủ điều kiện để hình
thành làng. Đến giai đoạn sau, nhất là khi Nguyễn Hữu Cảnh được chúa
Nguyễn cử vào thiết lập bộ máy hành chính ở Đồng Nai – Gia Định (1698) thì
việc hình thành làng Việt mới có những điều kiện thuận lợi.

2.2 Nguồn gốc hình thành.
- Miền Bắc :
Làng Việt Bắc Bộ, làng được hình thành theo 3 cách:
Thứ nhất, tan rã từ xã hội nguyên thủy;
Thứ hai hình thành từ việc định cư của một dòng họ,
Thứ ba là do vai trò của nhà nước.
- Miền Trung :




Nguyên nhân chính là do cuộc di dân chính trong thời nhà Hồ thế kỷ ( XV ) và sau
các thời chúa Nguyễn cho di dân để khai hoang , mở đất đai , dân số , quân số và
nhân lực.
- Miền Nam :
Ở Nam Bộ, khơng có sự hiện diện của các làng tan rã từ xã hội nguyên thủy mà
làng chủ yếu hình thành theo 2 hướng:
Một là do dân tự khai phá
Hai là do sự hỗ trợ của chính quyền.

2.3 Hình thái cư trú .
- Miền Bắc :
Làng Việt Bắc Bộ thường bố trí theo ba hình thái: lối co cụm, từng khối, hoặc dọc
theo ven sông hay ở men theo hai bờ sơng trong đó tổ chức theo lối co cụm là phổ
biến. Chính cách tổ chức làng như vậy đã tạo nên những ốc đảo, khu vực không
gian cư trú riêng của mỗi làng. Và từ đặc điểm cư trú đó kéo theo hoạt động kinh tế
khá khép kín, khác biệt văn hóa làng tại đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
- Miền Trung :
Các làng Miền Trung chia ra rất nhiều vùng cư trú như là Vùng Thung Lũng , vùng
Đồng Bằng Bắc Bộ , Vùng Nam Trung Bộ , Vùng Núi Cao , Vùng Trường Sơn –
Tây Nguyên.
Vùng Thung Lũng : Là địa bàn sinh sống của các tộc người Tày, Nùng, Thái, Lào,
Lự, Sán Chay... Đồng bào cư trú thành từng bản, ở nhà sàn dựng dưới chân đồi,
chân núi. Canh tác ruộng nước kết hợp với nương rẫy là nguồn sống chính. Ngồi
ra, đồng bào cịn tự trồng bơng, nhuộm màu, dệt thổ cẩm với hoa văn đẹp mắt, sặc
sỡ tạo nên những bộ trang phục mang đậm sắc thái dân tộc.
Vùng Đồng Bằng Bắc Trung Bộ : Nơi cư trú của người Kinh, gắn với hình thái
kinh tế lúa nước từ lâu đời. Hình ảnh cây đa, giếng nước, mái đình biểu trưng cho
mỗi làng quê, là nơi sinh hoạt văn hoá cộng đồng như hội làng, cưới xin, ma chay,

thờ thành hoàng làng, chèo, quan họ, rối nước, phường vải, hát xoan..
Vùng Nam Trung Bộ : Nơi cư trú chủ yếu của người Kinh, Khmer, Chăm, Hoa. Họ
có kỹ thuật canh tác lúa nước từ lâu đời. Đồng bào có kho tàng nghệ thuật, âm


nhạc dân gian phong phú với nhiều lễ, tết, hội trong năm như: Lễ Chôl chnăm
thmây (tết năm mới), lễ Đơn ta (lễ cúng ơng bà), Ĩoc Om Bc (lễ cúng trăng)…
Vùng Núi Cao : Nơi cư trú của các dân tộc Mơng, Dao, Lơ Lơ, Hà Nhì, Pu Péo...
Hầu hết các dân tộc có nghề thủ cơng dệt vải từ lâu đời, với kỹ thuật cắt khâu, thêu
thùa các họa tiết hoa văn hình học, hình cây, hoa, lá từ thiên nhiên được bàn tay
khéo léo của người phụ nữ đưa vào trang phục truyền thống.
Vùng Trường Sơn - Tây Ngun: Nơi cư trú của nhóm ngơn ngữ Mơn - Khmer và
Nam Đảo. Đồng bào sống tập trung thành từng buôn. Nhà rông là biểu tượng sức
mạnh là nơi sinh hoạt văn hoá, giáo dục cộng đồng.

- Miền Nam :
Đối với làng Việt Nam Bộ có các hình thái cư trú ven sơng rạch, hình thái cư trú
dọc kênh đào, hình thái cư trú tập trung nhưng lại cư trú trên diện rộng. Nói một
cách khác, làng Nam Bộ được phân bố theo dạng kéo dài, “dọc tia tỏa tuyến”, lấy
kênh mương hay đường giao thông làm trục. Làng Nam Bộ kéo dài nên khơng có
lũy tre bao quanh, không thành một quần thể khu biệt với các làng khác như làng
Việt ở đồng bằng Bắc Bộ.



×