THÀNH TỰU KINH TẾ HUYỆN VĨNH LINH – QUẢNG TRỊ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI, GIAI ĐOẠN 1990-2010
TRẦN THIÊN THỂ
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Huyện Vĩnh Linh sau ngày tái lập (1990), Đảng bộ và nhân dân Huyện
quyết tâm đưa quê hương thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, sớm trở thành một địa
phương đi đầu trong công cuộc đổi mới. Những thành tựu nổi bật về kinh tế: Tốc độ
tăng trưởng nhanh và ổn định, Cơ cấu chuyển dịch đúng hướng; đời sống người dân
nâng cao. Với những thành tích xuất sắc đạt được Vĩnh Linh đã được Đảng và nhà
nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” (2011).
Từ khóa: huyện Vĩnh Linh, sản xuất, kinh tế
1. MỞ ĐẦU
Bước ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mỹ, mảnh đất Vĩnh Linh bị bom đạn cày xới, mặt đất
dày đặc hố bom đạn. Toàn bộ cơ sở vật chất của Vĩnh Linh đã bị hủy diệt trong những năm
chiến tranh phá hoại ác liệt. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu, ý chí tự
lập, tự cường và được sự quan tâm giúp đỡ to lớn của Trung ương, của tỉnh và của bạn bè
quốc tế, huyện Vĩnh Linh đã nhanh chóng ổn định tình hình và tổ chức sản xuất. Năm 1986,
Vĩnh Linh cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn, tốc
độ tăng trưởng liên tục qua từng năm. Đặc biệt từ ngày tái lập Huyện vào tháng 5 năm 1990
đến năm 2010, Vĩnh Linh đã thực hiện các Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ lần thứ XIII,
XIV, XV, XVI và các Nghị quyết chuyên đề của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân. Cũng từ đó
huyện Vĩnh Linh đã phát huy sức mạnh toàn dân, nền kinh tế tăng trưởng mạnh, đúng hướng
và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực [1].
2. THÀNH TỰU KINH TẾ HUYỆN VĨNH LINH - QUẢNG TRỊ THỜI KỲ ĐỔI MỚI, GIAI
ĐOẠN 1990 – 2010
2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định
Hai mươi năm (1990 – 2010), bằng sự nỗ lực và ý chí phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân tồn
huyện Vĩnh Linh, kinh tế của huyện có bước phát triển vượt bậc.
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 1990 đến 2010
Nhịp độ tăng
Nhịp độ tăng
Nhịp độ tăng
Nhịp độ tăng
hàng năm,
hàng năm,
hàng năm,
hàng năm,
Chỉ tiêu
giai đoạn
giai đoạn
giai đoạn
giai đoạn
1990-1995 (%) 1996-2000 (%) 2001-2005 (%)
2006-2010 (%)
Tổng giá trị sản xuất
107,2
111,0
110,1
115,4
(giá cố định 1994)
Thương mại - dịch vụ
110,0
111,4
111,3
124,8
Công nghiệp - xây dựng
110,7
114,1
114,3
120,0
Nông - lâm - thuỷ sản
106,9
103,0
108,3
108,0
Nguồn Chi cục Thống kê huyện Vĩnh Linh: [2, tr. 1-2]
Năm 1990, tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện đạt 4% với giá trị của nền kinh tế là 355 tỷ
đồng. Đến năm 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,8% với tổng giá trị của nền kinh tế đạt
1.100 tỷ đồng. Qua từng giai đoạn, nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 400-404
THÀNH TỰU KINH TẾ HUYỆN VĨNH LINH - QUẢNG TRỊ...
401
Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao và bền vững, nhiều tiềm năng, lợi thế đã được khai thác,
phát huy hiệu quả. Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp đã tạo ra được bước chuyển biến mới
theo hướng đa cây, đa con, đa dạng hóa sản phẩm, từ kinh tế tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng
hóa. Cơng nghiệp – tiểu thủ cơng nghiệp có bước phát triển tốt, đã thu hút nhiều doanh nghiệp
đến đầu tư sản suất, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ thị trường trong nước về xuất khẩu.
Thương mại dịch vụ của các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện phát triển đa dạng, phong
phú, góp phần tích cực vào việc ổn định giá cả thị trường, kích thích sản xuất, lưu thơng hàng
hóa và dịch vụ phát triển. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải
thiện và nâng cao. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế từng bước được chuyển dịch đúng
hướng và tích cực, đầu tư có trọng tâm trọng điểm. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước
được hoàn thiện, đồng bộ theo hướng vững chắc.
2.2. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng
Cơ cấu của nền kinh tế có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tăng tỷ trọng CN – DV – TM.
Năm 1990, ngành nông – lâm – ngư nghiệp chiếm 60%, ngành công nghiệp – xây dựng chiếm
18,0%, ngành thương mại - dịch vụ chiếm 22%. Năm 2010, ngành nông – lâm – ngư nghiệp
chiếm 42,1%, ngành công nghiệp – xây dựng chiếm 24,5%, ngành thương mại – dịch vụ
chiếm 33,4%; tổng thu ngân sách tăng 15,7 lần; thu nhập bình quân đầu người tăng 15 lần so
với năm 1990 [3, tr. 1-5].
Bảng 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng từ 1990 đến 2010
1990
1995
2000
2005
2010
Nhóm ngành
1. Nơng - lâm - ngư (%)
2. Cơng nghiệp - xây dựng (%)
Năm
60,0
18,0
66,5
16,7
57,8
16,1
49,0
22,0
42,1
24,5
3. Dịch vụ - thương mại (%)
22,0
16,8
26,1
29,0
33,4
Nguồn Chi cục Thống kê huyện Vĩnh Linh: [2, tr. 1-2]
2.2.1. Trong nông – lâm – ngư nghiệp
Là huyện dẫn đầu phong trào dồn điền đổi thửa và xây dựng các mơ hình kinh tế có giá trị
kinh tế cao ở Quảng Trị. Huyện Vĩnh Linh đã xóa được tập quán độc canh, hiệu quả thấp,
chuyển sang đa cây, đa con, sản xuất hàng hóa và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh, tăng năng suất, chất lượng cây trồng, con
nuôi đạt giá trị thu nhập cao trên một đơn vị diện tích. Quy hoạch các vùng cây có giá trị kinh
tế cao như cao su, hồ tiêu, lạc. Đặc biệt là thực hiện các đề án sản xuất nông nghiệp đạt giá trị
50 triệu đồng/1ha/1 năm trở lên. Trong những năm 1990 – 2010, nhà nước và nhân dân đã tập
trung mọi nguồn lực đầu tư vào khai hoang được trên 3.794ha đất, chuyển đổi 1.207ha đất
nghèo sang trồng được trên 6.054ha cây cao su, diện tích cây hồ tiêu 840ha, diện tích lạc
2.000ha, màu các loại 4.625ha. Diện tích cây lúa nước 6.800ha, năng suất lúa đạt từ 27 – 28
tạ/ha đã tăng lên 52 tạ/ha vào năm 2010, đạt 6.254ha, đã cho khai thác 4.170ha diện tích cây
cao su, sản lượng cao su, sản lượng cao su mủ khô 6.686 tấn cho thu nhập 545 tỷ đồng, giải
quyết việc làm cho 16.635 lao động [3].
Từ việc phát triển cây cao su tiểu điền của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị rút kinh nghiệm
và nhân rộng ra các huyện (năm 2010 đã đạt 16.000ha). Hồ tiêu 764 tấn, giá trị đạt 397 tỷ
đồng, lạc vỏ khô sản lượng đạt 4.800 tấn, giá trị đạt 43,2 tỷ đồng. Đã chuyển đổi diện tích
trồng lúa năng suất thấp sang ni trồng thủy sản. Đến năm 2010, tồn huyện có 704,3ha ni
trồng thủy sản, trong đó 364ha tơm sú, tơm thẻ chân trắng mang lại giá trị hàng hóa cao.
402
TRẦN THIÊN THỂ
Huyện đã xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất nơng nghiệp đạt giá trị 50 triệu
đồng/ha/năm trở lên, đã nhân rộng được 3.160ha với 9 dạng mơ hình kết hợp trên 4 vùng kinh
tế của Huyện nhằm khai thác thế mạnh của vùng như: Ném xen ngô đông xuân – dưa non,
môn xen khoai lang gối sắn và sắn dây, lạc đông xuân – mướp đắng. Chính nhờ vậy mà nhiều
hộ có thu nhập bình qn hàng năm từ 200 – 250 triệu đồng/ha. Ngành chăn nuôi được đầu tư,
thay đổi phát triển về chất lượng, chủng loại và trở thành ngành sản xuất hàng hóa. Tổng đàn
trâu 6.918 con, bò 13.986 con, lợn 40.058 con, gia cầm 249.000 con. Số lượng gia súc và gia
cầm tăng lên 30%. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 7,8 lần so với năm 1990. Nhiều mơ
hình chăn ni bị nhốt, lợn siêu nạc, chăn ni bán cơng nghiệp của một số hợp tác xã và hộ
gia đình phát triển mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao [3].
Kinh tế trang trại trên địa bàn huyện được khuyến khích, phát triển cả về quy mô, số lượng và
hiệu quả kinh tế. Tồn huyện có 342 trang trại theo mơ hình hộ gia đình và nhóm hộ với loại
hình sản xuất đa dạng, chủ yếu thuộc các lĩnh vực chăn nuôi nông – lâm kết hợp; nông – lâm
– ngư kết hợp. Phát triển kinh tế trang trại bình quân hàng năm đạt trên 16 tỷ đồng. Việc phát
triển kinh tế trang trại không những khai thác và sử dụng có hiệu quả về đất đai, giải quyết
việc làm mà cịn góp phần quan trọng làm tăng tỷ lệ hộ giàu trong cộng đồng dân cư. Nhờ vậy
đã góp phần đưa giá trị sản xuất ngành nông – lâm – ngư nghiệp năm 2010 đạt 672 tỷ đồng,
tăng 11 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành nông – lâm – ngư nghiệp
hàng năm đạt 12,34% [4].
Hoạt động lâm nghiệp chuyển từ lâm nghiệp truyền thống sang lâm nghiệp xã hội. Việc
chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ khai thác rừng là chính sang khơi phục bằng việc trồng rừng kết
hợp với việc khoanh nuôi rừng tái sinh tự nhiên đã đem lại kết quả tốt. Từ năm 1990 đến 2010
bình quân mỗi năm trồng mới 800ha rừng tập trung và 1.000.000 cây phân tán. Tổng số rừng
tập trung trồng mới được 16.000ha và 20 triệu cây phân tán. Tổng diện tích khoanh ni
31.241 ha. Cơng tác quản lý, bảo vệ, khai thác rừng được chú trọng. Bình quân hàng năm khai
thác 45.000m3 gỗ; 43.000 ste củi rừng trồng, 1.400 tấn nhựa thông. Quản lý, bảo vệ 21.464ha
rừng đầu nguồn tự nhiên. Với những thành tích trên Công ty TNHH 1 thành viên Lâm trường
Bến Hải, đơn vị chủ lực trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và phát triển rừng của Huyện, được
Chủ tịch nước tặng thưởng “Anh hùng Lao động” năm 2003.
Công tác định canh – định cư – kinh tế mới được tập trung chỉ đạo thực hiện tốt, đã hoàn
thành việc định canh, định cư cho 100% số thôn, bản, tạo sự ổn định về cuộc sống và đất sản
xuất cho đồng bào dân tộc Vân Kiều, xóa bỏ được tình trạng du canh, du cư, thực hiện việc di
dân trong nội vùng trên 1.260 hộ, 3.910 nhân khẩu, 1.800 lao động (ở hai vùng kinh tế mới
Bắc sông Bến Hải và làng Thanh niên lập nghiệp Tây Vĩnh Linh).
Với việc thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, đầu tư phát
triển cơ sở vật chất kỹ thuật nghề khai thác hải sản nên sản lượng ngư nghiệp tăng cao: Năm
1990 là 1.200 tấn, tăng lên 4.150 tấn năm 2010, tăng 3,41 lần so với năm 1990. Trong đó diện
tích ni trồng thủy sản 704,3ha, sản lượng 1.400 tấn.
2.2.2. Trong công nghiệp – tiểu thủ cơng nghiệp và xây dựng
Đã phát triển nhanh chóng, đặc biệt huyện quan tâm đầu tư xây dựng các chợ tiêu thụ trên các
vùng kinh tế nhằm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ cơng nghiệp đã có bước phát triển đáng phấn khởi. Đến năm
2010 trên địa bàn có 5 doanh nghiệp khai thác quặng ti tan, hàng năm khai thác trên 20.000
tấn quặng, 3 doanh nghiệp chế biến mủ cao su, một năm chế biến 11.000 tấn mủ cao su dạng
cốm, 2 xí nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, một nhà máy sản xuất phân bón sản lượng
THÀNH TỰU KINH TẾ HUYỆN VĨNH LINH - QUẢNG TRỊ...
403
10.000 tấn/năm, 6 xí nghiệp chế biến gỗ mỗi năm chế biến 15.000m3 gỗ, 1 nhà máy sản xuất
giấy hàng năm sản xuất 2.500 tấn giấy. Nhiều nhà máy và cơ sở chế biến nông – lâm – hải sản
được đầu tư xây dựng gắn liền với nhóm vùng nguyên liệu (cao su, lạc, ti tan, gỗ, gạch
ngói…). Một số ngành nghề truyền thống được khôi phục như: Đan lưới, đan lát, chổi đót,
chế biến nước mắm… Giá trị sản xuất cơng nghiệp – tiểu thủ cơng nghiệp tăng bình qn
hàng năm là 17%, năm 2010 đạt 159,5 tỷ đồng, gấp 23,3 lần so với năm 1990.
2.2.3. Trong thương mại – dịch vụ
Trong những năm 1990 – 2010, ngành thương mại – dịch vụ của huyện có nhiều chuyển biến
tích cực, tiếp cận và thích ứng với cơ chế thị trường, giữ một vai trò quan trọng trong sự phát
triển của nền kinh tế, phục vụ đời sống xã hội và sản xuất kinh doanh của các ngành, thúc đẩy
sản xuất phát triển. Hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại – dịch vụ của các thành phần
kinh tế trên địa bàn huyện ngày càng đa dạng, phong phú và sôi động, kích thích cạnh tranh,
thúc đẩy phát triển sản xuất giữa các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân (chiếm 85% tổng mức hàng hóa dịch vụ xã hội và chiếm phần lớn thị trường bán lẻ), đồng
thời thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động xã hội của huyện, góp phần nâng hệ số thời
gian lao động nơng thơn tăng lên 81%. Tồn huyện có trên 3.934 cơ sở sản xuất kinh doanh –
dịch vụ, thu hút 5.750 lao động, trong đó có một doanh nghiệp nhà nước, 106 doanh nghiệp
chi nhánh Nhà nước và tư nhân, 54 HTX và 3.170 hộ kinh doanh cá thể. Ngồi ra, cịn có
hàng nghìn hộ kinh doanh lưu động khác hoạt động, đa dạng, tạo mạng lưới kinh doanh dịch
vụ rộng khắp [3], [4].
Đặc biệt, huyện đã đầu tư để xây dựng hệ thống chợ nông thơn với kinh phí 26 tỷ đồng, trong
đó có 2 chợ trung tâm là chợ Do và chợ Hồ Xá được đầu tư xây dựng khang trang, đã thu hút
số lượng lớn khách trong tỉnh và ngoài tỉnh trao đổi, mua bán, đồng thời cũng là trung tâm
phân phối hàng hóa đến các chợ trong và ngồi huyện, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng
ngành thương mại – dịch vụ tăng bình quân hàng năm 22%, riêng năm 2010 tốc độ tăng
trưởng đạt 223%, giá trị đạt 715 tỷ đồng, tăng 18 lần so với năm 1990.
2.3. Đời sống kinh tế của người dân được nâng cao
Công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở. Thông qua thực hiện tốt các chương trình dự
án như: Chương trình 134 – 135, định canh, định cư đồng bào dân tộc miền núi, thành lập
làng kinh tế mới Bắc sông Bến Hải, làng Kinh tế mới thanh niên lập nghiệp, cơng tác xóa đói
giảm nghèo, chương trình phát triển cây cao su tiểu điền… Cùng với việc thu hút đầu tư xây
dựng nhà máy cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện, trong hơn 20 năm huyện đã giải
quyết việc làm mới cho trên 21.000 người, trong đó có cơng nghiệp – thủ công nghiệp,
thương mại – dịch vụ thu hút trên 6.000 người, chương trình cao su tiểu điền 6.254 ha, thu hút
gần 16.635 người (bình quân 1ha cao su/2,5 người). Bình quân hàng năm tạo việc làm mới
cho trên 1.300 người lao động, tạo việc làm ổn định cho trên 45.000 lao động. Công tác dạy
nghề được chú trọng, đã thành lập trung tâm dạy nghề tổng hợp, hàng năm bồi dưỡng, đào tạo
nghề cho 1.500 lao động [4].
Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề đến năm 2010 đạt 32%. Tổng thu nhập bình quân trên đầu
người tăng: năm 1994 là 0,137 triệu đồng/năm, năm 2000 tăng lên 2,8 triệu đồng/năm, năm
2005 tăng lên 5,03 triệu đồng/năm, đến năm 2010 là 15,3 triệu đồng/năm. Tỷ lệ hộ nghèo năm
1990 trên 30%, năm 1995 là 29,8%, năm 2000 là 18,1%, năm 2005 là 25,6%, năm 2010 giảm
cịn 15,9%. Bình qn lương thực trên đầu người tăng cao, năm 1990 là 200kg/người, đến năm
2010 là 473,0kg/người. Với những nỗ lực và kết quả đạt được nêu trên, ngành Lao động –
Thương binh Xã hội huyện vinh dự được tặng thưởng Huân chương lao động hạng Nhất năm
TRẦN THIÊN THỂ
404
1997. Bên cạnh đó, huyện đã huy động quỹ vì người nghèo từ nhiều nguồn khác nhau, đến năm
2010 đã đầu tư xây dựng được 1.623 căn nhà ở cho dân (trong đó nhà ở hộ nghèo 1.127 căn,
nhà tình nghĩa là 496 căn) với tổng vốn lên đến 31,9 tỷ đồng. Đến giai đoạn 2005 - 2010 tồn
huyện đã hồn thành đề án xóa nhà tạm bợ, dột nát hộ nghèo cho dân [3, tr. 10-11].
Những thành tựu đạt được ở trên cho thấy kinh tế huyện Vĩnh Linh trải qua hơn 20 năm đổi
mới đã đạt được nhiều thành công vượt bậc trên mọi lĩnh vực, làm thay đổi bộ mặt của toàn
huyện, điều đáng quan tâm hàng đầu là đời sống kinh tế của người dân trong địa bàn huyện đã
dần dần được cải thiện và nâng cao, công ăn việc làm được giải quyết ổn định, mức thu nhập
bình quân đầu người được nâng lên, hộ gia đình đói – nghèo được giảm mạnh. Đời sống kinh
tế của người dân đang dần được cải thiện từ chỗ ổn định vươn lên khá giả và giàu có.
3. KẾT LUẬN
Từ những kết quả đã đạt được trong 20 năm (1990-2010) đổi mới của huyện Vĩnh Linh, các cơ
quan, đơn vị trên địa bàn huyện đã được nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: 2
đơn vị được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lao động, 2 đơn vị được tặng thưởng Huân
chương Độc lập hạng nhì và hạng ba, 22 tập thể được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng
Ba, 9 cờ thi đua của Chính phủ... Đảng bộ huyện Vĩnh Linh đã được cơng nhận là Đảng bộ
vững mạnh toàn diện liên tục từ 1990 đến năm 2010. Với những thành tích xuất sắc trong sự
nghiệp đổi mới, tháng 8 – 2007 cán bộ và nhân dân huyện Vĩnh Linh vinh dự được Chủ tịch
Nước tặng thưởng huân chương Độc lập hạng nhì; ngày 23/11/2011 được phong tặng danh hiệu
cao quý “Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới” [3]. Những thành tựu đạt được sau 56 năm
(1954–2010) hịa bình, xây dựng của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh là bước phát triển có ý
nghĩa hết sức quan trọng và rất đáng tự hào, là nền tảng vững chắc để huyện Vĩnh Linh tiếp tục
phấn đấu vươn lên thực hiện thành công sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa q hương.
Phấn đấu đưa Vĩnh Linh trở thành huyện trọng điểm trong phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Trị
để “Lũy thép” Vĩnh Linh sẽ trở thành “Lũy hoa” trong thời đổi mới và hội nhập phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh Linh (2007), Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Linh 1975 – 2000,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Chi cục Thống kê huyện Vĩnh Linh (2013). Một số chỉ tiêu kinh tế huyện Vĩnh Linh, bản lưu
tại Chi cục Thống kê huyện Vĩnh Linh.
Huyện Vĩnh Linh (2011). Hồ sơ đề nghị nhà nước tặng thưởng danh hiệu Anh Hùng Lao
Động đơn vị huyện Vĩnh Linh – tỉnh Quảng Trị, Tài liệu lưu tại huyện ủy Vĩnh Linh.
Ủy ban Nhân dân huyện Vĩnh Linh (2012), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
huyện Vĩnh Linh đến năm 2020, Tài liệu lưu tại huyệnVĩnh Linh.
Title: THE ECONOMIC ACHIEVEMENTS OF VINH LINH DISTRICT, QUANG TRI PROVINCE
IN OPEN-DOOR PERIOD 1990 – 2010
Abstract: After the re-establishment in1990, party commitee and the locals of Vinh Linh district
determined to help the district escape poverty and backwardness, soon became a leading district in
innovating economic. The remarkable achievements of economic are growth rate is high and stable ;
economic structure shifts in the right direction and and people’s lives is improved. With the excellent
performances , State and party has awarded the title of Labor Hero in the renewal period to Vinh Linh
in 2011.
Keywords: Vinh Linh district, production, economics.
TRẦN THIÊN THỂ, ĐT: 0915 932 736, Email:
Học viên Cao học, chuyên ngành LSVN, khóa 21 (2012-2014), Trường ĐHSP – Đại học Huế