NHỮNG NÉT CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG THỰC NGHIỆP
Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1919-1929
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Hoạt động chấn hưng thực nghiệp ra đời vào đầu thế kỉ XX gắn liền với
phong trào Duy Tân. Trong những năm 1919 - 1929, hoạt động chấn hưng thực
nghiệp tiếp tục phát triển, chủ yếu do giai cấp tư sản khởi xướng và lãnh đạo với
qui mô rộng lớn, diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế với nhiều phương thức như
thành lập công ty, hiệp hội nghề nghiệp, sử dụng báo chí để tuyên truyền và tổ
chức đấu tranh để địi quyền lợi cho tư sản và dân tộc.
Từ khóa: chấn hưng thực nghiệp, phong trào Duy Tân
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để giành lại độc lập cho dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp
xâm lược khơng thể chỉ bằng biện pháp qn sự, chính trị mà cịn phải bằng biện pháp kinh tế,
văn hóa, ngoại giao. Chính từ u cầu lịch sử đó, hoạt động chấn hưng thực nghiệp đã ra đời
gắn liền với phong trào Duy Tân vào đầu thế kỉ XX nhằm thực hiện các biện pháp cứu nước
đó là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào dân tộc dân chủ tư sản tiếp tục phát triển với
trình độ cao hơn về mục tiêu, nhiệm vụ, thành phần lãnh đạo và phương thức tiến hành. Trong
bối cảnh đó, hoạt động chấn hưng thực nghiệp tiếp tục phát triển với vai trò là một biện pháp
kinh tế để đạt đến mục tiêu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Do
gắn liền với những điều kiện lịch sử mới, nên hoạt động chấn hưng thực nghiệp sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất đã diễn ra với nhiều nét mới so với đầu thế kỉ XX về thành phần lãnh
đạo, quy mơ phong trào và hình thức thể hiện.
2. VỀ THÀNH PHẦN LÃNH ĐẠO CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG THỰC NGHIỆP
ĐẦU THẾ KỶ XX Ở VIỆT NAM
Khởi xướng cho hoạt động chấn hưng thực nghiệp vào đầu thế kỉ XX là các sĩ phu yêu
nước tiến bộ - những người đã khởi xướng và lãnh đạo cuộc vận động duy tân cứu
nước đầu thế kỉ XX. Tiêu biểu là Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quí Cáp,
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Nguyễn An Khương,… hoặc một số người thuộc tầng
lớp trên của xã hội có tinh thần dân tộc mạnh mẽ như Trần Chánh Chiếu. Một phong
trào từ quan để kinh doanh đã diễn ra sôi nổi, gắn liền với tên tuổi các sĩ phu yêu nước
tiến bộ như Nguyễn Quyền với Hồng Tân Hưng; Lương Văn Can, Đỗ Chân Thiết với
Đồng Lợi Tế; Phan Thúc Duyện với Hợp thương Phong thử; Huỳnh Thúc Kháng với
Thương cuộc Hội An; Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn với Triêu Dương thương quán và hiệu
buôn Mông Hạnh; Hồ Tá Bang, Trương Gia Mô, Nguyễn Trọng Lội với Liên Thành công ty ở
Phan Thiết; Nguyễn An Khương với Chiêu Nam Lầu…
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
hai với quy mô lớn, tốc độ đầu tư mạnh. Vốn đầu tư của tư bản tư nhân Pháp từ 1924 - 1929
tăng gấp 6 lần so với những năm từ 1888 đến 1918. Vì thế đã làm cho nền kinh tế nước ta có
những thay đổi lớn; trong đó thay đổi lớn nhất là các nhà tư bản Pháp nắm mọi đặc quyền và
chi phối về kinh tế. Các công ty Pháp như Mác – xây hải ngoại, Hãng Đêcua – Cabu, Hãng
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 395-399
396
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
buôn Đông Dương, Hãng dầu lửa Pháp, Liên đồn Thương mại Đơng Dương và châu Phi,…
kiểm sốt phần lớn xuất nhập khẩu và phân phối bán lẻ ở Việt Nam. Trong khi đó, giai cấp tư
sản Việt Nam đã hình thành vào năm 1923 nhưng khơng có một đặc quyền gì, số lượng nắm
giữ các ngành kinh tế trọng điểm ít ỏi, yếu ớt, khơng thể cạnh tranh nổi với tư bản Pháp. Bên
cạnh đó, với những chính sách thuế khóa mới ưu đãi cho hàng hố Pháp và đánh thuế nặng
vào các hàng hoá của Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ… Tư sản Việt Nam cũng không được
ưu đãi gì. Do đó, chính sách thuế mà thực dân Pháp đưa ra ngày càng làm cho tư bản Việt
Nam trở nên nhỏ bé, không thể cạnh tranh nổi với tư bản Pháp. Chính vì những lí do trên đây,
ngay sau khi ra đời, giai cấp tư sản dân tộc đã tiến hành cuộc đấu tranh trên nhiều lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hố để địi quyền lợi cho mình và cho dân tộc. Thực hiện mục tiêu này,
trên lĩnh vực kinh tế, giai cấp tư dân tộc tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động chấn hưng thực
nghiệp đã diễn ra vào đầu thế kỉ XX để chống lại các thế lực chèn ép người Việt kinh doanh,
đồng thời để vực dậy nền kinh tế nước nhà, khẳng định tinh thần dân tộc của giai cấp tư sản.
Họ muốn chấn hưng nền kinh tế nước nhà theo hướng thực nghiệp và xem đây như một
động lực thúc đẩy toàn diện sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là nền tảng quan trọng
trong việc hướng đến độc lập, tự do của dân tộc. Tiêu biểu cho giai cấp tư sản dân tộc lúc
bấy giờ đóng vai trò to lớn trong phong trào chấn hưng thực nghiệp như Bạch Thái Bưởi,
Nguyễn Sơn Hà, Bùi Huy Tín, Nguyễn Văn Của, Trương Văn Bền…
3. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHONG PHÚ ĐA DẠNG
Thứ nhất, để đẩy mạnh chấn hưng thực nghiệp, giai cấp tư sản Việt Nam nhận thấy rằng
trước hết phải xây dựng các cơ sở kinh tế để cạnh tranh với thực dân Pháp và tư sản Hoa
Kiều, đầu tiên là đầu tư phát triển ngành nghề cũ như nghề dệt, may, nhuộm, đồ gốm,…
đồng thời chú trọng vào các nghề mới, những nghề có thể mang lại lợi nhuận cao và phù
hợp với nhu cầu của người Việt Nam lúc bấy giờ như in ấn, vận tải, sửa chữa cơ khí, phát
điện, khai thác hầm mỏ… Với con đường thực nghiệp đó, các ngành nghề phát triển mạnh
mẽ như nhận xét của Nguyễn Văn Khánh: “Sau chiến tranh, hoạt động kinh doanh của giai
cấp tư sản Việt Nam được mở rộng và có quy mô lớn. Họ kinh doanh trong hầu hết các
ngành kinh tế, từ xay xát, in ấn, dệt, nhuộm, vận tải, sửa chữa cơ khí,… cho đến sản xuất
sơn, xà phịng, đường, nước mắm, đồ gốm,…” [1]. Không chỉ vậy, tư sản Việt Nam cịn
thành lập các cơng ty thương mại để trao đổi hàng hóa khơng chỉ trong nước mà cịn nước
ngồi chẳng hạn như: Ngồi các cơng ty thương mại có từ trước như Liên Thành, Quảng
Hưng Long, Phượng Lâu, nhiều công ty mới thành lập như công ty Bạch Thái Bưởi, hãng
buôn Trịnh Văn Nghĩa,… đã hoạt động trên thị trường Việt Nam và có tiếp xúc với thị
trường ngồi nước như Lào, Miên, Trung Quốc, Hồng Kơng, Xanh-ga-po, Gia-va, Pháp…
Vì thế, chỉ sau một thời gian sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam
đã vươn lên xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp, công ty khắp cả ba miền, với quy mô
khá lớn với các tên tuổi như xưởng sơn của Nguyễn Sơn Hà, xưởng chế xà phòng của
Trương Văn Bền, nhà máy gạch Hưng Ký ở Bắc Ninh, xí nghiệp dệt Vĩnh An ở Huế,
công ty phát điện của Lê Phát An và Phan Tùng Long ở Nam Kỳ… Trong hoạt động
kinh doanh vận tải, tư sản Việt Nam ở Bắc Kỳ hoạt động khá mạnh. Họ có mặt trong
hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ, đường thủy tại các thành phố lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Nam Định… Tiêu biểu Bạch Thái Bưởi và Nguyễn Hữu Thu, đây là hai
doanh nhân đã phất lên trong những năm chiến tranh và sau chiến tranh trở thành hai
thương nhân có thế lực lớn nhất trong xứ Bắc Kỳ. Nguyễn Hữu Thu năm 1921 trong tay
đã có hơn chục tàu chở khách (2 chiếc trọng tải 615 tấn, một chiếc trọng tải 250 tấn, 2 chiếc
trọng tải 240 tấn) 6 xà lan và 2 tàu kéo [2]. Hãng tàu Nguyễn Hữu Thu đã có tàu chạy từ
Hải Phịng đi Nam Hải, Bắc Hải, Nam Định, Hải Dương, Hòn Gai, Bến Thủy.
NHỮNG NÉT CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG THỰC NGHIỆP Ở VIỆT NAM…
397
Còn Bạch Thái Bưởi sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đã trở thành “chúa sông Bắc Kỳ” và
đang vươn ra đại dương. Năm 1919, Bạch Thái Bưởi làm lễ hạ thủy chiếc tàu Bình Chuẩn với
trọng tải 600 tấn, dài 72m, rộng 7,2m, cao 3,6m lắp động cơ 400 mã lực [2]. Sự kiện này có
tiếng vang rất lớn thời đó, được coi là biểu tượng của phong trào chấn hưng thương trường
của tư sản Việt Nam.
Cơng ty của Bạch Thái Bưởi đã có trên 40 chiếc tàu và nhiều xà lan, chạy hầu hết các tuyến
sông Bắc Kỳ, chạy ven biển cả nước và đã vượt qua các nước lân bang như Hồng Kông,
Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo, Philippin… Mỗi năm đội tàu của Công ty chở tới 5.000
chuyến khách với hơn 1 triệu rưỡi khách và hơn 15 vạn tấn hàng hóa [3].
Thứ hai, thành lập các hội công thương để bảo vệ quyền lợi của giới mình và ngành mình, bởi lẽ
“bn có bạn bán có phường” từ xưa là châm ngơn cửa miệng của các thương nhân Việt Nam,
vì thế, nhiều hội đoàn nối tiếp nhau ra đời chẳng hạn như tại Bắc Kỳ, ơng Đồn Đình Ngun,
ơng vua thầu khốn Bắc Kỳ đã thành lập Hội thầu khoán ái hữu để bênh vực quyền lợi lẫn nhau
trên trường thương mại, đặc biệt là Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp, được thành lập vào
ngày 17/10/1920. Hội được lập ra để giai cấp tư sản Việt Nam cùng giúp đỡ nhau, bênh vực
nhau trong hoạt động kinh doanh: “Bản hội lập nên lấy hữu ái làm chủ nghĩa, anh em trong
bạn công thương cùng họp lại làm thành một đoàn thể, cùng vì quyền lợi chúng tơi ở buổi đời
cạnh tranh này mà phải tương hợp với nhau để cùng nhau nương tựa” [4].
Hay tại Trung Kỳ có Trung Kỳ cơng thương gia hội do Bùi Huy Tín là hội trưởng với mục
đích: “Kiếm cho các hội viên những dịp giao tiếp với nhau để bàn bạc về việc cơng thương,
gây tình liên lạc và giúp nhau trong đường công thương; mở mang cho dân An Nam lòng ưa
chuộng thương mại kĩ nghệ; giúp sức cho việc mở mang nền kinh tế nước nhà, lập nên một cơ
quan thực tế để hội viên bày tỏ ý kiến và thơng tin tức có quan hệ đến nền kinh tế bản xứ,
cùng yêu cầu với nhà đương chức thi hành những phương pháp giúp ích cho việc mở mang
nền công thương trong xứ, bênh vực quyền lợi chung của hội viên” [5]. Ở Nam Kỳ có Cơng ty
Nam Kỳ thương mại kỹ nghệ xã hội bao gồm các nhà tư sản lớn như Nguyễn Văn Của,
Trương Văn Bền,… kêu gọi động viên mọi người ra sức kinh doanh phát triển kinh tế tư bản
chủ nghĩa, nhằm khuyến khích kinh tế dân tộc phát triển.
Thứ ba, phát động các phong trào đấu tranh như Phong trào chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại
hóa (1919); Phong trào đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn (1919); Phong trào đấu tranh
chống độc quyền xuất cảng lúa gạo ở Nam Kỳ (1923),… để nêu cao tinh thần dân tộc trong
buôn bán, kinh doanh đồng thời phê phán những người sùng hàng ngoại, không biết đến tinh
thần dân tộc: “Đồng bào ta vẫn khơng bỏ được tính hiếu dị, coi ngoại hóa như rồng như
phượng, mà đối với nội hóa hình như có ý lãnh đạm thờ ơ, cái gì cũng thích hàng ngoại hóa.
Từ y phục cho chí khí dụng và các thứ khác nhất nhất tồn hàng ngoại hóa cả! Những thứ
người mình khơng thể chế tạo được đã đành. Đến những cái mà người mình làm ra được
khơng kém gì ngoại hóa mà cũng khơng thèm dùng! Kìa xem như đồ vàng, đồ bạc người mình
làm lụng tinh xảo người ngoại quốc thường đến mua dùng: sa, lĩnh, xuyến ở La Khê; lụa,
lượt, nhiễu ở làng Bộ La; đồ sứ cơng ty Hợp Lợi có kém gì ngoại hóa mấy nỗi mà cũng chê
rẻ, chê ơi” [6].
Mặc khác, để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước, không cho các sản phẩm của hàng ngoại
không thể phát triển ngay tại tại nước mình; đồng thời để giành lại thị trường trong nước từ
tay tư sản nước ngoài, đặc biệt là tư sản Hoa kiều, giai cấp tư sản Việt Nam đã phát động một
phong trào “Tẩy chay khách trú” với các khẩu hiệu “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”,
“Người Việt Nam không gánh vàng đi đổ sông Ngô”,… phong trào đã làm lung lay đáng kể
đế chế hàng Tàu và thúc đẩy tinh thần trọng thương trong nước. Mặt khác, cuộc đấu tranh còn
398
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
để giành quyền lợi cho người Việt Nam ở Nam Kỳ – là xứ thuộc địa, mà ở đó thực dân Pháp
đã giành sự ưu đãi cho tư bản Pháp và Hoa kiều như ở cảng Sài Gòn hoặc xuất cảng lúa gạo ở
Nam Kỳ.
Ngoài ra, để phản ánh rõ quyền lợi và nguyện vọng của mình, tư sản Việt Nam đã dùng báo
chí để đấu tranh địi quyền lợi, trao đổi kinh nghiệm và phát triển kinh doanh với các tờ nổi
tiếng như: Thực nghiệp dân báo của Nguyễn Hữu Thu và Bùi Huy Tín, Khai hóa nhật báo
của Bạch Thái Bưởi, Lục tỉnh tân văn của Nguyễn Văn Của, báo Hữu Thanh của Hội Bắc Kỳ
Công thương Đồng nghiệp. Những vấn đề như phát triển tư bản, mở rộng xuất nhập cảng,
quan hệ giữa nội hóa và ngoại hóa, thành lập xí nghiệp,… thường xun được đề cập đến.
Ngồi các mục đích trên, tư sản Việt Nam cịn sử dụng báo chí để quảng bá sản phẩm, đồng
thời tuyên truyền vận động mọi tầng lớp trong xã hội làm kinh tế để phát triển đất nước. Các
sản phẩm do người Việt làm ra mặc dù rất tốt khơng kém gì nước ngồi nhưng vẫn khơng thể
nào đứng vững trên thị trường cả trong nước và ngoài nước, vì thế quảng bá mạnh mẽ các sản
phẩm là rất cần thiết: “Sự buôn bán cần nhất cái tên hiệu mình, các hóa vật của hãng mình,
có tiếng lan rộng đi khắp nơi, xa gần đâu đâu cũng biết, ai ai cũng nhớ. Như thế thì mới có
thể tiêu thụ được nhiều hàng hóa, sự bn bán mới hịng có cơ hội chóng hưng thịnh được…
Khi chưa có báo trương mọi việc hành động của tứ dân trong nước cứ hình như ở nơi hắc ám,
ở đâu biết đấy thì tài nào hưng thịnh bằng người. Từ khi có báo trương, tạp chí đến giờ, các
nhà bn ta cũng đã biết lợi dụng vào sự quảng cáo” [7].
Nhiều nhà tư sản đã sử dụng báo chí để quảng bá cho thương hiệu của mình. Trên các mặt
báo, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đội ngũ các ký giả, tư sản Việt Nam đã bàn luận sâu
sắc về các vấn đề kinh tế nóng hổi của đất nước, chia sẻ thơng tin, hơ hào thực nghiệp, địi tự
do và bình đẳng hóa thương mại. Một số nhà tư sản lớn đã tự ra báo như tờ Khai hóa nhật báo
của Bạch Thái Bưởi, Thực nghiệp dân báo của Nguyễn Hữu Thu, Nam Kỳ kinh tế thời báo
của Nguyễn Văn Thượng để quảng bá thương hiệu và trình bày quan điểm kinh tế của mình.
Ngồi ra, báo chí cịn cổ động tinh thần dân tộc của người Việt, kêu gọi “Người An Nam hãy
dùng hàng An Nam”, “Hãy lập cửa hàng, cửa hiệu của người An Nam”, “Người An Nam
mua bán với người An Nam”,… để người Việt chúng ta có thể làm kinh tế một cách riêng rẽ,
khơng phụ thuộc vào thực dân Pháp và mục đích quan trọng nhất là đưa đất nước thoát khỏi
nanh vuốt của thực dân Pháp.
Chính nhờ tuyên truyền vận động mạnh mẽ đã chuyển biến thành một phong trào với các cuộc
vận động sơi nổi: Phong trào tẩy chay hàng ngoại hóa, vận động dùng hàng nội hóa (1919);
Phong trào chống độc quyền cảng Sài Gòn (1919); Phong trào chống độc quyền xuất cảng
lúa gạo ở Nam Kỳ (1923); Cuộc vận động lập phịng canh nơng và thương mại riêng cho
người Việt Nam, chống độc quyền muối; đòi giảm thuế xuất nhập khẩu, đòi hưởng quy chế
kinh doanh như người Pháp… Cuộc vận động đẩy mạnh kinh doanh công thương nghiệp…
Phong trào vận động chấn hưng thực nghiệp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra với
nhiều hình thức phong phú, đấu tranh kết hợp với xây dựng và phát triển. Chính từ cuộc vận
động này, chỉ sau một thời gian, nền kinh tế tư bản dân tộc nước ta có sự chuyển biến rõ rệt
với nhiều công ty, doanh nghiệp, hãng buôn xuất hiện trên khắp cả nước tiêu biểu là các nhà
kinh doanh Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trương Văn Bền… Đời sống của nhân dân ta
được cải thiện, bộ phận kinh tế tư bản dân tộc hình thành rõ nét và trong khn khổ nhất định
có khả năng cạnh tranh với tư sản Pháp và Hoa kiều.
3. KẾT LUẬN
NHỮNG NÉT CHỦ YẾU CỦA HOẠT ĐỘNG CHẤN HƯNG THỰC NGHIỆP Ở VIỆT NAM…
399
Phong trào chấn hưng thực nghiệp ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất do giai cấp
tư sản khởi xướng là chủ yếu đã lan rộng khắp cả ba miền. Phong trào thực nghiệp đã có
mối quan hệ chặt chẽ với vận mệnh dân tộc, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ, góp phần tạo ra các điều kiện để tiến hành cuộc vận động giải phóng
dân tộc trong hồn cảnh lịch sử mới. Vì vậy, cuộc vận động chấn hưng thực nghiệp sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất thể hiện tính dân tộc sâu sắc. Đây là những hoạt động của giai
cấp tư sản và tiểu tư sản Việt Nam không chịu khuất phục trước sức ép của thực dân Pháp
đã mạnh dạn đứng lên khôi phục, phát triển kinh tế để giành lại những quyền lợi kinh tế cho
dân tộc mình đồng thời ra sức làm giàu cho đất nước vì cơng cuộc đấu tranh giành lại độc
lập dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
Nguyễn Văn Khánh (2007). Việt Nam 1919-1930: thời kì tìm tịi và định hướng, NXB Đại
học Quốc gia, Hà Nội, tr. 70.
Phạm Xanh (2002). “Hoạt động kinh doanh của các nhà doanh nghiệp Việt Nam và nước
ngồi tại Hải Phịng trước năm 1945”, Nghiên cứu Lịch sử, số 1, tr. 22-23.
Nguyễn Công Bình (1959). Tìm hiểu về Giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc, NXB
Văn Sử Địa, tr. 98.
Dẫn theo Phạm Xanh, Nguyễn Dịu Hương (2003). “Hội Bắc Kỳ công thương đồng nghiệp”,
Nghiên cứu lịch sử số 1, tr. 11.
Trung Kì cơng thương gia hội, Điều lệ, Nhà in Đắc Lập, Huế, 1934, tr. 14.
Thực nghiệp dân báo, số 578, ngày 22 tháng 9 năm 1922.
Thực nghiệp dân báo, số 532, ngày 5 tháng 4 năm 1924.
Title: THE MAIN FOCUSES OF THE REVIVING INDUSTRIAL ACTIVITIES IN VIETNAM,
PERIOD 1919 – 1929
Abstract: Reviving industrial activities released in the early twentieth centry associated with Duy Tan
movement. During the period 1919-1929, industrial activities continued to develop, mainly due to the
leading of bourgeois class; the large-scale of the movement was widely taken place on many economic
sectors with more methods such as establishing companies, professional associations, using press to
propagandize and organize struggle for the interests of bourgeois class and nation.
Keywords: reviving industrial activities, Duy Tan movement
NGUYỄN THỊ HƯỜNG
Học viên lớp Cao học, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, khóa 21 (2012-2014), Trường Đại học Sư
phạm – Đại học Huế
ĐT: 0168 627 7591