Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đặc điểm của thương mại Quảng Trị thế kỷ XVI – XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.61 KB, 6 trang )

ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG MẠI QUẢNG TRỊ THẾ KỶ XVI – XIX
PHẠM NHÂN ĐỨC
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Ngồi các đặc điểm chung với thương mại Việt Nam, thương mại Quảng
Trị cũng mang những đặc điểm riêng biệt, được thể hiện qua hai giai đoạn phát
triển và sự biến đổi về chất của nội thương và ngoại thương. Trong hơn ba thế kỷ
XVI - XVIII, các chúa Nguyễn tập trung phát triển thương mại song song với việc
ổn định sản xuất nông nghiệp, tạo động lực cho sự phát triển sức mạnh kinh tế tổng
hợp để đối đầu với chúa Trịnh. Sang thế kỷ XIX, khi bối cảnh lịch sử của Việt
Nam và thế giới thay đổi, đặc điểm thương mại Quảng Trị cũng biến đổi theo.
Từ khóa: Thương mại Quảng Trị, thê kỷ XVI – XIX, nội thương

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quảng Trị, đất dựng nghiệp của chúa Nguyễn, vốn là vùng đất biên viễn và cịn nhiều bất ổn.
Sau khi Nguyễn Hồng vào trấn thủ, bộ mặt kinh tế nơi đây đã dần chuyển biến. Nhận thức
được tầm quan trọng của thương nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, các
chúa Nguyễn về sau đã có những chính sách khá cởi mở nhằm phát triển thương mại. Chỉ sau
hơn 10 năm, Thuận Hóa đã trở thành nơi đơ hội lớn của một phương, các trung tâm bn bán
dần được hình thành, các chợ làng xuất hiện dày đặc, nhân dân no đủ, nhiều loại hàng hóa có
giá trị được đem ra giao thương và sự xuất hiện của nhiều tầng lớp thương nhân. Tất cả đều
chứng minh cho một nền thương mại phát triển, đặc biệt là nội thương. Trải suốt 4 thế kỉ,
thương nghiệp Quảng Trị có những đặc điểm cơ bản sau.
2. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA THƯƠNG NGHIỆP QUẢNG TRỊ SO VỚI CẢ NƯỚC
- Thứ nhất, thương nghiệp khơng tách rời khỏi nơng nghiệp:
+ Đặc điểm văn hố của cư dân Việt Nam nói chung và người Quảng Trị nói riêng, là việc tụ
cư thành từng nhóm nhỏ trong những đơn vị xóm, làng, bản. Văn hố của những người nông
dân trong cộng đồng làng xã gắn với nông nghiệp, thường là độc canh lúa nước với một nền
kinh tế tiểu nơng, khép kín, tự cung tự cấp.
+ Nông thôn Quảng Trị cũng giống như Việt Nam, về cơ bản bên cạnh nông nghiệp lại đan
xen hay gắn liền với thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ; bên cạnh nơng dân lại có thương nhân,
thợ thủ cơng. Ngay cả các làng có tiếng về đi bn hay sản xuất thủ cơng, thì phần lớn vẫn


thiên về nơng nghiệp như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), làng buôn Lý Hịa (Quảng Bình),
làng rèn Hiền Lương (Thừa Thiên Huế)… Làng xã có kết cấu kinh tế đan xen ba thành phần:
nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp tồn tại tương đối phổ biến ở các vùng đồng
bằng Việt Nam. Thậm chí trong phạm vi từng gia đình vẫn tồn tại kết cấu kinh tế nơng - cơng
- thương; ví dụ người cha và anh cả làm nghề truyền thống, cùng con cái cho đi làm nông,
người mẹ và con dâu cho đi buôn.
+ Do vậy, tất cả các hoạt động của làng xã đều khơng thốt ra khỏi sự chi phối của một nền
kinh tế tiểu nông. Tại các làng có số người đi bn khá đơng ở Quảng Trị như Tùng Luật,
Mai Xá, Phú Hội, Đại Hào, Phương Ngạn, Lâm Xuân, Kim Long, Lan Đình, Phổ Lại,… thì
nguồn sống chính của phần lớn cư dân vẫn là sản xuất nông nghiệp trồng lúa hoặc khai thác
thủy sản, lâm sản. Cịn việc bn bán chỉ được xem như là nghề phụ, góp phần tăng thêm thu
nhập và phục vụ nhu cầu thiết yếu cho gia đình những người dân nông thôn.
Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sau Đại học lần thứ hai
Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 10/2014: tr. 389-394


390

PHẠM NHÂN ĐỨC

- Thứ hai, khơng hình thành được các khu mậu dịch lớn:
+ Đặc điểm về sự hình thành đô thị ở Quảng Trị cũng tương tự nhiều tỉnh thành khác, đó là
việc hình thành các trung tâm hành chính – quân sự của nhà nước, dần thu hút lực lượng
người lao động tập trung và yếu tố “thị” mới bắt đầu xuất hiện. Tại Ái Tử, chỉ sau khi
Nguyễn Hoàng vào dựng nghiệp tạo ra dinh phủ, trung tâm hành chính qn sự của xứ
Thuận Hóa, thì hoạt động thương mại nơi đây mới có bước phát triển vượt bậc. Từ Ái Tử Trà Bát - Dinh Cát bao quanh nó là các đơ thị vệ tinh (chỉ chợ làng) làm cơ quan hậu bị và
điểm trung chuyển sản vật cho phủ chúa như chợ Thuận (Triệu Đại), chợ Gia Độ (Triệu Độ),
Chợ Sãi (Triệu Thành)… Phủ chúa Nguyễn đóng vai trị như một đơ thị đa chức năng, nó vừa
đóng vai trị điều phối nền kinh tế, quản lí nguồn hàng trao đổi, vừa đóng vai trị chi phối
quân sự và ổn định đời sống văn hóa xã hội.

+ Bước sang thế kỉ XVII, do sức phát triển của nền kinh tế hàng hóa cũng như tác động của
môi trường giao thương quốc tế, ở nhiều vùng duyên hải miền trung Việt Nam đã có sự trỗi
dậy và hồi sinh của các cảng thị, trong đó có Quảng Trị với thương cảng Mai Xá, Phó Hội,
Tùng Luật. Tuy nhiên, nền kinh tế hàng hóa Quảng Trị nói riêng và Đàng Trong nói chung
đang cịn ở giai đoạn manh nha, sản xuất nhỏ lẻ, chỉ đơn thuần phục vụ trực tiếp cho nhu cầu
sinh hoạt của người dân xung quanh các chợ làng, chợ huyện, chợ phủ. Các đơn vị phường,
hội, làng nghề sản xuất tuy có được hình thành nhưng vẫn khơng tách khỏi hoạt động sản xuất
nơng nghiệp, khơng hình thành được các khu mậu dịch lớn.
+ Đến thế kỷ XIX, do chính sách ngoại giao của triều Nguyễn với phương Tây khá cẩn trọng
và dè chừng, nhất là khi nhận thấy nguy cơ bị xâm lược, nhà nước đóng cửa, làm cho các hoạt
động ngoại thương bị chững lại, các trung tâm mậu dịch, thương cảng, thương điếm vừa xuất
hiện như Phú Hội – Hà Tây, Tùng Luật, Mai Xá, dần đi vào quên lãng. Cuối cùng, nền kinh tế
tiểu nông vẫn ngự trị xã hội Quảng Trị.
- Thứ ba, lưu thông bằng đường thủy là chủ yếu:
+ Quảng Trị, vùng đất bị cách trở bởi địa hình ngắn và dốc, theo hướng Đơng – Tây thường
có các dãy núi vắt ngang cản trở cộng với hệ thống sơng ngịi chi chít, dày đặc tạo ra sự đứt
gãy liên tục về địa hình, tạo nhiều sự ngăn cách về khơng gian văn hóa, địa lý. Thời các chúa
Nguyễn, đường biển từ Cửa Việt đến Phú Xuân, Hội An và từ Phú Xuân đến Hội An rồi đi
các hải cảng phía nam, đóng một vai trị cực kì quan trọng, chúng quyết định về cơ bản bộ
mặt thương mại Đàng Trong thế kỉ XVI – XVIII. Sang thế kỉ XIX, tuy nhiều con đường trên
bộ đã được xây đắp mới, nhưng vẫn không thay thế được vai trị quyết định của giao thơng
đường thủy. Nhà nước cho đóng nhiều thuyền cơng và thuyền Hải vận để tải lương thực và
vận chuyển bằng đường biển từ bắc vào nam và ngược lại.
+ Các thủy lộ vùng Quảng Trị được hình thành theo trục các con sơng lớn trong vùng và hệ
chi lưu của chúng. Các sông Minh Lương, sông Thạch Hãn, sông Hiếu cùng với phân lưu của
chúng tạo ra những con đường thương mại hướng biển, với điểm tập kết trung chuyển là các
cửa sông như Tùng Luật, Cửa Việt…
+ Giao thông đường thủy nội địa (nội tỉnh) được vận hành bởi các ghe thuyền cỡ nhỏ đảm bảo
trao đổi sản vật giữa vùng thượng nguồn, thượng du và vùng đồng bằng cửa sông bên
dưới. Thuyền nhỏ lách theo các nhánh sông vươn lên tới thượng nguồn, thu gom các sản vật

từ người dân địa phương nơi mà người dân di chuyển bằng gồng gánh, xe bò, xe ngựa và voi
kéo ven các con đường mòn và các ngạch sông, triền núi. Các sản phẩm được điều phối về
đồng bằng bởi các thương nhân người Kinh, thông qua một mạng lưới các chợ làng, chợ
phiên xuất hiện dày đặc ở các địa phương, người Thượng nếu đưa xuống trao đổi thì cũng ở


ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG MẠI QUẢNG TRỊ THẾ KỈ XVI-XIX

391

một vài địa điểm được giới hạn mà thơi. Hàng hóa có giá trị được tập hợp ra các thương cảng
ở vùng cửa sông, để trao đổi với thương gia ngoại quốc. Các con sông ở Quảng Trị đều ngắn
và dốc, với vận tốc chảy lớn, gây khó khăn cho việc vận tải thủy nội địa, nên vận tải đường
biển là biện pháp tối ưu.
+ Do sự cách trở này đòi hỏi phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai loại hình giao thơng
thủy bộ. Sự vận chuyển đường bộ và đường thủy, được cộng tác bổ túc cho nhau; ở những nơi
thủy lưu bị cản trở do cạn dòng, thì hàng hóa lại được chuyển lên bộ vận chuyển bằng voi
hoặc xe trâu bò kéo. Ngược lại, khi đường bộ bị chia cắt bởi các con sơng lớn, thì hàng hóa lại
được đưa xuống thuyền tại bến đị ngang, đò dọc, cắt ngang trục đường để tiếp tục hành trình.
Bởi những lý do dó nên con đường thương mại của Đàng Trong toàn thể hay từng phần đều
hướng ra biển, nơi con đường Hải vận không bị ngắt quãng và chỉ có thuyền bè mới liên kết
tất cả các vùng với nhau.
- Thứ tư, chợ làng được hình thành chủ yếu ven các con sông:
+ Các thương điếm hay các chợ làng thường nằm ở vị trí là trung tâm của làng, cạnh đình
làng, có giếng nước và bến chợ. Hầu hết các chợ làng ở Quảng Trị đều tọa lạc ven các con
sông lớn như Thạch Hãn, Bến Hải, sông Hiếu và hệ chi lưu của chúng như: con sông đào như
Vĩnh Định, kênh rạch dẫn nước như Mai Xá, kênh Hàm, kênh Châu Thị,… điều này tương tự
các chợ làng của vùng đất Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, nhất là vào giai đoạn giao
thông đường bộ chưa hoàn thiện.
+ Chợ làng là đầu mối trao đổi hàng hóa tập trung của một vài làng hay một vài vùng.

Phương tiện đi lại chủ yếu bằng ghe thuyền, tạo ra sự kết nối giữa miền xuôi và miền
ngược. Chợ Câu Nhi, Lương Điền, Mỹ Chánh hình thành ven sơng Ơ Lâu; chợ Như Lệ, chợ
Thạch Hãn, chợ Sãi, chợ Hơm hình thành ven dịng Hãn Giang; chợ Hải Thiện, Ngô Xá,
Phương Lang tồn tại dọc theo con sông đào Vĩnh Định và phân lưu của chúng; chợ Tùng
Luật, Châu Thị, Hàm Hịa, chợ Kêng/Kênh đều hình thành theo trục của sông mẹ Hiền
Lương/Bến Hải và phân nhánh của chúng.
- Cuối cùng là sự đa dạng của thành phần thương nhân: Thế kỉ XIX là giai đoạn mà thị trường
được thống nhất trong cả nước, tạo điều kiện cho đội ngũ thương nhân được hoạt động trên
phạm vi rộng hơn, cho nên thành phần người đi buôn rất đa dạng. Do việc bn bán bằng
đường thủy là chính yếu, nên các thương gia chủ yếu là những người đồng bằng ven biển.
Thành phần buôn bán ở chợ làng phần đông là các thương nhân người Kinh miền xuôi, đây
cũng là đặc điểm khơng riêng gì của Quảng Trị. Ngồi ra, các cư dân đến từ các châu, sách,
làng bản miền núi vùng Cam Lộ, Hướng Hóa đóng vai trị như một lực lượng khai thác lâm
thổ sản, đem trao đổi với người miền xuôi [2]. Giai đoạn từ thế kỉ XVI – XIX, còn chứng kiến
sự hiện diện của các thương nhân các nước trong khu vực và một số nước phương Tây. Từ
giữa thế kỉ XIX, do nhà nước có chính sách bế quan tỏa cảng, hạn chế buôn bán với phương
Tây nhưng lại ưu đãi đối với người Hoa, nên phần nhiều các chợ làng đều có người Hoa sang
định cư, tham gia bn bán, mà ít thấy xuất hiện của thương nhân các nước khác.
3. ĐẶC ĐIỂM RIÊNG CỦA THƯƠNG NGHIỆP QUẢNG TRỊ QUA HAI GIAI ĐOẠN
Xuất phát từ bối cảnh lịch sử xã hội khá đặc biệt, nên vùng đất Quảng Trị ngoài những đặc
điểm chung so với cả nước và cả vùng Thuận – Quảng, thì tự thân trong nó vẫn tồn tại những
sắc thái riêng biệt.


392

PHẠM NHÂN ĐỨC

- Thứ nhất, Quảng Trị khơng hình thành các đơ thị và các cảng thị có quy mơ lớn:
+ Đô thị Quảng Trị tồn tại với tư cách là một tiểu đơ thị, đóng vai trị điều hành kinh tế và chi

phối quân sự là chính. Giai đoạn các chúa Nguyễn trị vì bộ mặt kinh tế nơi đây có nhiều biến
chuyển, tạo bước đệm cho sự hưng khởi các đơ thị. Nhưng do điều kiện hồn cảnh lịch sử cụ
thể của vùng đất này, nên các đô thị, cảng thị chỉ tồn tại trong một phạm vi nhất định và chức
năng trao đổi không nhiều. Một mặt, đây là mảnh đất địa đầu của Đàng Trong tính từ phía
nam sơng Gianh, thường xun bị đe dọa bởi nạn binh đao, nhất là hậu quả trực tiếp của cuộc
chiến tranh Lê – Mạc (1533 - 1592), chiến tranh Trịnh - Nguyễn (1627 - 1672), nên ít nhiều
vẫn ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
+ Mặt khác, do sự tính tốn về chiến lược kinh tế, quân sự của các chúa Nguyễn, do hồn
cảnh địa lý đặc thù, khơng cho phép Nguyễn Hồng, Nguyễn Phúc Nguyên và các con
cháu của ông, chọn những thương cảng hay những trung tâm hành chính Quảng Trị, để tạo
thành những thương cảng có quy mơ như Hội An, Thanh Hà, Hà Tiên, Nước Mặn. Hơn
nữa Nguyễn Hoàng đóng dinh phủ ở Triệu Phong chỉ tạm thời, sau đó dời vào phía nam là
Phú Xn. Các mặt hàng của thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản và Phương Tây ưa
chuộng là tơ lụa và đường mía thì Quảng Trị khơng có thế mạnh và cũng khơng là nơi
cung cấp các nguồn hàng này. Cịn hàng lâm sản có giá trị thì khơng phong phú như núi
rừng xứ Quảng [1], [2]. Cho nên, dù Cửa Việt và Cửa Tùng là những thương cảng có vị trí
thuận lợi và kết cấu khá hoàn chỉnh cho phát triển hải thương nhưng chúng vẫn không được
xây dựng để trở thành một thương cảng mang tầm vóc lớn như Hội An, Nước Mặn. Ghềnh
Phủ - Sãi Thị ở Triệu Phong vẫn chưa phải là một Thanh Hà – Bao Vinh ở Phú Xuân.
- Thứ hai, Quảng Trị khơng hình thành các làng bn:
+ Làng bn hình thành do sự hội tụ của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan khác nhau, chủ
yếu là phát triển lên từ chợ làng. Tại vùng đồng bằng Bắc bộ từ thế kỉ XVIII – XIX, đã xuất
hiện nhiều làng bn mang nhiều đặc điểm khác nhau đó là: làng Đa Ngưu, Báo Đáp, Phù
Lưu, Đan Loan [3]. Hai làng bn Lý Hịa và Cảnh Dương ở Quảng Bình, cũng được hình
thành trong giai đoạn sơi động của nền kinh tế hàng hóa thế kỉ XVII – XVIII. Sự phát triển
của các làng nghề và các hoạt động sản xuất khác của người dân, đã tạo ra nguồn hàng ổn
định phong phú cho các làng buôn, đã làm thay đổi thậm chí đã “phá vỡ” tính chất thuần nơng
của khơng ít vùng q truyền thống. Hai yếu tố làng bn và chợ làng có mối liên hệ tương
hỗ, biểu hiện cho một nền kinh tế hàng hóa trong nhân dân phát triển sôi động. Hoạt động của
các làng buôn đã tạo nên gạch nối giữa các làng xã, các trung tâm sản xuất thủ công, các chợ

làng với các thương cảng.
+ Tại Quảng Trị, xuất hiện nhiều chợ làng, chợ phiên, thương cảng mang tầm vóc liên làng,
liên vùng; với một đội ngũ thương nhân đa thành phần. Tuy vậy, nơi đây lại chưa hội đủ các
yếu tố về địa thế cũng như con người, sản vật để hình thành các làng bn. Có chăng chỉ là
các làng mang dáng dấp của làng buôn như Mai Xá, Phú Hội, Hà Tây, Tùng Luật, Đại Hào.
Thay vào đó, nền kinh tế sản xuất hàng hóa Quảng Trị thế kỉ XVII – XVIII dần hình thành,
thay cho kinh tế “tự cung tự cấp”, đem lại bộ mặt phát triển mới với sinh lực tràn trề cho nền
kinh tế giai đoạn kế sau. Nhưng trong suốt thế kỉ XIX, do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất
nước, thương mại Quảng Trị vẫn không tạo được sự phát triển nào đáng kể.
- Thứ ba, chợ làng được hình thành tập trung trong giai đoạn thế kỉ XVI – XVIII:
+ Kết quả nghiên cứu cho thấy, chợ làng Quảng Trị được hình thành chủ yếu trong giai
đoạn từ nửa sau thế kỉ XVI đến cuối thế kỉ XVIII. Tổng cộng có 51 chợ làng được thành
lập trong 4 thế kỉ XVI - XIX; trong đó từ thế kỉ XVI – XVIII có sự hiện diện của 42 chợ


ĐẶC ĐIỂM CỦA THƯƠNG MẠI QUẢNG TRỊ THẾ KỈ XVI-XIX

393

(kể cả các chợ được hình thành vào giai đoạn trước), trong thế kỉ XIX xuất hiện thêm 9
chợ. Trong đó huyện Triệu Phong (Đăng Xương) có nhiều chợ nhất khi xuất hiện tới 15
chợ, tiếp đó là huyện Hải Lăng và Gio Linh đều có 9 chợ, hai huyện Vĩnh Linh và Cam Lộ
đều có 4 chợ. Nhưng nếu xét ở huyện Minh Linh thời bấy giờ (bao gồm 2 huyện Gio Linh
và Vĩnh Linh hiện nay), thì nơi đây có tới 13 chợ. Cuối cùng thì Triệu Phong vẫn là huyện có
nhiều chợ làng nhất; điều này vừa phản ánh tính lan truyền thương mại từ phủ chúa Nguyễn, vừa
chứng minh cho sự nhộn nhịp của các con đường thương mại: Cửa Việt – sông Hiếu – Cam Lộ,
tuyến Cửa Việt – Thạch Hãn – Ba Lòng và tuyến Cửa Việt – Thạch Hãn – và nội địa Triệu Phong.
+ Đặc điểm này được hình thành bởi tác động của yếu tố chính trị xã hội cụ thể ở Quảng Trị
trong các thế kỉ XVI – XVIII. Đây là giai đoạn phủ chúa Nguyễn đóng tại Ái Tử - Trà Bát –
Dinh Cát, tồn tại trong gần 70 năm (từ 1558 đến 1626). Vì là nơi đóng đơ của cơ quan đầu

não của viên quan trấn thủ, đòi hỏi phải có sự ổn định mọi mặt, cả về tình hình chính trị xã
hội và sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Từ thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XVIII, nền
thương mại Đàng Trong phát triển lên một tầm cao mới, các thương nhân nước ngoài tập
trung vào đây mua bán, tạo bước ngoặc cho sự phát triển của ngoại thương. Do Quảng Trị
không hội đủ các điều kiện để phát triển ngoại thương, nên nội thương vẫn là yếu tố chi phối
nền kinh tế. Chợ làng được hình thành tập trung trong khoảng thời gian này, nó vừa là biểu
hiện của sự quần cư của người nông dân làng xã, vừa là hệ quả của các nhân tố chính trị quân sự. Sang thế kỉ XIX, chỉ xuất hiện thêm vài chợ làng có quy mô nhỏ gọn, bởi các chợ
trước đây vẫn tồn tại và khơng đánh mất vai trị của mình, thêm vào đó, nhà nước lại chú
trọng vào phát triển nơng nghiệp, làm cho các trung tâm thương mại không phát huy thêm vai
trị gì đáng kể.
- Thứ tư, nội thương giữ vai trò chủ đạo trong nền thương mại:
+ Thương nghiệp Quảng Trị trong gần 3 thế kỉ XVI – XVIII, phản ánh nhu cầu trao đổi sinh
hoạt trong nhân dân, đóng vai trị phục vụ chủ yếu cho một triều đình thiên về hành chính,
như Ái Tử - Trà Bát – Dinh Cát và sau này là Phú Xuân. Trong khi sức mạnh thương mại nằm
ở Quảng Nam, nơi hoạt động mậu dịch hướng đến cảng biển, nơi các thương nhân ngoại quốc
dừng chân lâu dài ở thương cảng Hội An. Sang thế kỉ XIX, nhìn chung các thương điếm quan
trọng vẫn ít thay đổi so với giai đoạn trước, có chăng chỉ là sự đa dạng hơn các mặt hàng trao
đổi và sự tăng lên về lượng vận tải hàng hóa.
+ Nguồn sống chủ yếu của người dân trong các vùng quê Quảng Trị vẫn là sản xuất nông
nghiệp. Hoạt động canh tác lúa nước vẫn đóng vai trị chủ đạo trong mỗi làng xã, các ngành
nghề sản xuất thủ công như làm muối, nghề rèn, làm quạt giấy, lám bún, bánh ướt, làm
mộc,… vẫn khơng thốt ra khỏi sự chi phối của nông nghiệp. Người thợ thủ công vẫn cày cấy
trên đồng ruộng, các lái buôn vẫn là những nông dân tranh thủ thời gian mùa vụ nhàn rỗi, vào
mùa giáp hạt mang chút vốn đi buôn thời vụ. Mặt hàng trao đổi ở các chợ làng chủ yếu là các
mặt hàng nông sản, nhu yếu phẩm phục vụ cho sinh hoạt thường nhật. Việc các chợ làng xuất
hiện khá dày đặc trong các vùng quê, là điểm chứng minh cho sự lấn át của một nền nội
thương bó hẹp trong nội bộ làng xã.
Nền ngoại thương Quảng Trị đến giữa thế kỉ XIX vẫn khơng có biểu hiện sáng sủa. Các
thương điếm thực chất là các chợ làng mở rộng thành các chợ liên làng, các con đường
thương mại vẫn khơng phát huy thêm vai trị của những tuyến mậu dịch mang tính chất liên

vùng, liên tỉnh. Nền kinh tế tự cung - tự cấp của làng xã một lần nữa được củng cố, nhất là khi
tình trạng ngăn sông cấm chợ xuất hiện và khi nhà nước độc quyền mua bán các sản vật có
giá trị. Một thương điếm có tiếng một thời như Phú Hội – Hà Tây (Triệu An) dần tàn lụi, thay
vào đó là ngôi chợ làng Hà Tây nhỏ bé, đáp ứng nhu cầu trao đổi hàng hóa của hai ngơi làng


PHẠM NHÂN ĐỨC

394

này. Thương cảng Tùng Luật (Vĩnh Giang) cũng mất dần vai trị của một điểm trung chuyển
hàng hóa, điểm trao đổi sản vật của ngư dân với người nông dân đồng bằng duyên hải. Điều
này vừa là hệ quả của sự dịch chuyển các trung tâm thương mại, vừa là hệ quả trực tiếp của
các chính sách của nhà nước phong kiến và sự tác động tiêu cực của tình hình chính trị xã hội
Việt Nam nửa sau thế kỉ XIX. Cuối cùng, nội thương Quảng Trị vẫn là nhân tố chủ đạo, vẫn
là yếu tố quyết định bộ mặt kinh tế thương nghiệp Quảng Trị trong nhiều thế kỉ.
4. KẾT LUẬN
Như vậy, từ giữa thế kỉ XVI đến nửa sau thế kỉ XVIII, các chúa Nguyễn đã chú trọng phát
triển thương mại song song với việc ổn định nền nông nghiệp, nhằm tạo đà cho bước phát
triển mạnh về kinh tế, tạo sức mạnh tổng lực để đối đầu với chúa Trịnh. Với những hành động
thiết thực trong thương mại, các chúa đã tạo ra được một nền kinh tế theo hướng mở. Tạo đà
cho sự phát triển cho nền kinh tế Quảng Trị nói chung, qua đó thúc đẩy cho một nền thương
mại phát triển. Sang thế kỉ XIX, khi bối cảnh lịch sử Việt Nam và thế giới thay đổi thì thương
nghiệp Quảng Trị cũng bị thay đổi theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]

Dương Văn An (Văn Thanh, Phan Đăng dịch và chú giải) (2009). Ô châu cận lục, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Lê Q Đơn (2007). Phủ biên tạp lục. NXB Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
Nguyễn Quang Ngọc (1986). Về một số làng buôn ở đồng bằng Bắc bộ thế kỉ XVII – XIX,
luận án PTS Khoa học Lịch sử, lưu tại Thư viện quốc gia Việt Nam, Mã kho: LA86.0103.3.

Title: THE CHARACTERISTICS OF TRADE IN QUANG TRI IN THE CENTURIES XVI – XIX
Abstract: Beside sharing the same common features with the commerce of Vietnam, Quang Tri also
carried the distinct characteristics expressed through two stages of development and the development
of foreign trade and domestic trade. For more than three centuries from XVI - XVIII, the Nguyen
Lords focused on developing commercial as well as maitaining the stable of agricultureto provide
impetus for development of economic strength, human synergy to confront the Trinh Lords. The turn
of the nineteenth century when the context of the history of Vietnam and the world changes, the
commercial characteristics of Quang Tri also change as well.
Keywords: trade in Quang Tri, the XVI-XVII centuries, domestic trade

PHẠM NHÂN ĐỨC
Học viên Cao học, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, khóa 21 (2012-2014), Trường Đại học Sư phạm –
Đại học Huế
ĐT: 0905 956 113, Email:



×