Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Nội dung cơ bản của học thuyết chính trị thần quyền của Thomas Aquino

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.35 KB, 26 trang )

TIỂU LUẬN MƠN

CÁC LÝ THUYẾT CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ

Tên đề tài:

“Nội dung cơ bản của học thuyết
chính trị thần quyền của Thomas Aquino”

HÀ NỘI, 2022


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thomas Aquino (1225-1274) là một nhà thần học, bác sĩ của Giáo hội, tu sĩ
Dominican, linh mục Công giáo và là một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất
của chủ nghĩa kinh viện. Tư tưởng của ông đã cho phép phát triển các nghiên cứu
thần học và triết học có tầm quan trọng lớn. Tương tự như vậy, các tác phẩm của
ông có ảnh hưởng lớn đến thần học Kitơ giáo, đặc biệt là trong Giáo hội Công
giáo.
Trong số các bài viết của ơng có thể kể đến Summa Contra người
ngoại, Summa Teologiae, cũng như các nghiên cứu khác nhau dành cho cơng việc
của Aristotle, các lĩnh vực thần học nói chung, siêu hình học, luật pháp, và nhiều
hơn nữa. Ơng là cha đẻ của Thomism và đối với ông triết học là ngành học điều tra
những gì tự nhiên có thể được biết về Thiên Chúa và con người. Trong các nghiên
cứu của mình, ơng đã đối xử với các phân ngành chính của triết học; nhận thức
luận, logic, triết học tự nhiên, triết học thần học, đạo đức, triết học chính trị hay
triết học thần học. Một trong những đóng góp nổi tiếng nhất của ơng là năm cách


cố gắng để chứng minh sự tồn tại của Thiên Chúa. Nếu Thánh Augustinô được coi
là học giả vĩ đại đầu tiên của thời Trung cổ, thì Thánh Thomas có thể là người cuối
cùng.
Trong giai đoạn hiện nay việc dựa trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước về tơn giáo để
nhìn nhận đánh giá thực chất những giá trị, hạn chế cũng như những đóng góp của
học thuyết chính trị thần quyền và tác giả Thomas Aquino là vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu tìm hiểu trên một số khía cạnh khác nhau. Do vậy em đã chọn đề
tài câu: “Nội dung cơ bản của học thuyết chính trị thần quyền của Thomas
3


Aquino” để làm tiểu luận kết thúc môn nhằm giúp cho bản thân em có thể hiểu
thêm được một số các nội dung có liên quan đến đề tài.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nghiên cứu về học thuyết chính trị thần quyền của Thomas Aquino
hiện nay chưa được nhiều nhà nghiên cứu, học giả quan tâm tìm hiểu đưới những
khía cạnh khác nhau cũng như đã luận giải, tiếp cận ở những nội dung cụ thể. Do
vậy chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu dựa trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo để
luận giải vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận chung về sự phát triển của học
thuyết chính trị thần quyền và tác giả Thomas Aquino đề tài phân tích những nội
dung cơ bản trong học thuyết chính trị thần quyền của Thomas Aquino cũng như
hệ thống hóa những đóng góp của học thuyết chính trị thần quyền của Thomas
Aquino đối với thực tiễn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về sự phát triển của học thuyết chính trị
thần quyền và tác giả Thomas Aquino;
- Phân tích những nội dung cơ bản trong học thuyết chính trị thần quyền của

Thomas Aquino;
- Hệ thống hóa những đóng góp của học thuyết chính trị thần quyền của
Thomas Aquino đối với thực tiễn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: học thuyết chính trị thần quyền của
Thomas Aquino.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khơng gian: học thuyết chính trị thần quyền của Thomas Aquino.
- Phạm vi thời gian: tư khi có học thuyết chính trị thần quyền của Thomas
Aquino đến nay.
5. Cơ sở luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở luận
Đề tài dựa trên cơ sở luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng
và chính sách, pháp luật của nhà nước về tơn giáo để nghiên cứu các nội dung có
liên quan đến học thuyết chính trị thần quyền của Thomas Aquino.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học như duy vật biện
chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Đồng thời đề tài sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp thống kê, phân tích - tổng hợp;
phương pháp so sánh và phương pháp quy nạp-diễn dịch.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần hệ thống hóa những lý luận về học thuyết chính trị thần
quyền nói chung cũng như của Thomas Aquino nói riêng đồng thời làm rõ về cuộc
đời và sự nghiệp của Thomas Aquino.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn


5


Đề tài được thực hiện sẽ góp phần làm rõ hơn những giá trị đóng góp của
học thuyết chính trị thần quyền của Thomas Aquino trên một số khía cạnh lĩnh vực
nhất định cũng như bài học đối với Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài bao gồm 3
chương và 7 tiết.

6


NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỌC
THUYẾT THẦN QUYỀN VÀ TÁC GIẢ THOMAS AQUINO
1.1. Tổng quát chung về học thuyết thần quyền:
Với sức mạnh kinh tế, chính trị và sự thống trị về tinh thần của mình, nhà
thờ thiên chúa giáo mưu toan bắt các lãnh chúa phong kiến quý tộc, và toàn xã hội
phải quy phục và lệ thuộc vào mình. Các giáo hội tích cực tun truỳên các học
thuyết thần quyền nhằm thơng trị thế giới. Một trong Những học thuyết được phố’
biến rộng rãi là “học thuyết mặt trời và mặt trăng”, trong đó cho rằng “mặt trăng
tỏa sáng nhờ mặt trời, vương qun chói sáng nhờ giáo hồng”. Thuyết lý “hai
gươm” cũng được phố' biến rộng rãi, theo đó nhà Vua có được gươm báu của mình
là chính quyền, nhờ có giáo hội và do đó cũng phải phục tùng giáo hội.
Việc sử dụng các học thuyết thần quyền vào mục đích chính trị, trọng cuộc
đấu tranh giành quyền bính giữa các giáo hồng La Mã và các hồng đế đó chính
là cuộc đấu tranh giữa các tập đồn phong kiến thống trị khác nhau. Nhưng cả nhà
thờ và giới phong kiến đêu có mục tiêu chống lại các phong trào đấu tranh của

qùân chúng nhân dân bị áp bức. Nhà thờ thiên chúa giáo giúp đỡ phong kiến quý
tộc đàn áp các cuộc khởi nghĩa nơng dân, cịn các hồng đê' thì ủng hộ nhà thờ đấu
tranh chống các phịng trào “tà đạo”.
Đại biểu của tư tưởng thần quyền thời kỳ này là Tômál Đacanh (1225 1274), nhà tư tưởng lớn nhất của Thiên chúa giáo dịng Đơminích, đã cố gắng biện
minh cho những giáo điều Thiên Chúa giáo nhăm khẳng định tư tương mới cho chế
độ phong kiến chống lại sự phê phán của phái tà giáo thế kỷ X - XIII.

7


Tômát Đacanh cho răng, thế giới được xây dựng trên cơ sở tơn ti trật tự
thánh thần, trong đó các hình thức tối cao đem sức sống cho hình thức thấp nhất.
Đứng đầu tơn ti trật tự đó là Chúa, thực thể quy định nguyên tắc phục tùng của
đẳng cấp dưới đốì với đẳng cấp trên. Chính ở đây ơng đã thần thánh hóa chế độ
đẳng cấp phong kiến.
Là một nhà duy tâm, Tômát Đacanh phân biệt thần luật và nhân luật. Thần
luật chỉ ra con đường “đạt tới sự cực lạc chơn thiên đường”, cịn nhân luật quy định
trật tự đời sống xã hội nơi trân tục. Trong tác phẩm “Thần học tồn như” Tơmát đã
phân chia pháp luật thành bốn loại:
“Luật, vĩnh cửu” được Tơmát gọi là “chính trí tuệ của Chúa Điều hành thế
giới”, và khẳng định rằng luật này là cơ sở tự nhiên và xã hội, của trật tự toàn thế
giới. “Luật tự nhiên” được coi là “sự phản chiếu của luật, vĩnh cứu bàng lý trí con
người” và bao gồm mong muốn tự bảo tồn, kế tục dòng giống và quy luật chung
sống của con người. “Nhân luật” (luật hành văn) hay gọi là luật thực định là pháp
luật phong kiến hiện hành được coi là sự phản ánh các đòi hỏi của luật tự nhiên,
không được phản tự nhiên. “Thần luật hay luật báo ứng” được Tôniát Đacanh dành
cho kinh thánh.
Để bảo vệ chế độ nhà thờ thiên chúa giáo nhăm thu phục giai cấp phong kiến
quý tộc, Tômát cho ràng, khi một nhà quân chủ vi phạm các đạo luật của nhà thờ
thì nhà thờ có quyền lật đổ ơng ta, cịn các thần dân có nghĩa vụ tuân thủ giáo hội.

Những luật thuyết của Tômát về Nhà nưởc cũng nhằm mục đích đó, bảo vệ
chế độ nhà thờ thiên chúa giáo. “Bản chất của chính quyền” tức là trật tự điều hành
và tuân thủ là do Chúa định; chính với ý nghĩa này Tômát đã luận giải thuyết giáo
của tông đồ Paven “mọi chính quyền là do Chúa”.

8


Song, Tô mát tiếp tục thuyết lý, rằng không phải vì thế mà mỗi vị qn chủ
q tộc đ'êu có thể trực tiếp trở thành thánh thần; cũng do đó không phải mọi hành
động của vị quân chủ đêu mang “tính chất thánh thần”. Một quận cơng có thể trở
thành kẻ tiếm quyền, chuyên chế, điên rồ. Trong trường hợp này, luận điểm vê tính
hợp pháp của nguồn gốc và việc sử dụng quyền lực của quận công này
thuộc về nhà thờ. Do đó, học thuyết của Tơ mát Đacanh về “ba yếu tố quyền lực đã
tạo nên sự biện giải tinh tế cho học thuyết thân quyền.
Tômát Đacanh phân biệt các thể chế quân chủ, quý tộc, tập đoàn thống trị và
chuyên quyền với biến dạng là nên dân chủ. Coi chế độ qn chủ.là hình thức cao
nhất. Tơmát Đacanh ưu tiên cho Nhà nước với “hình thức kết hợp” giữa thiết chế
quân chủ, quý tộc và dân chủ. Lý tưởng của ông là chế độ quân phủ phong kiến với
vai trị khá lớn của hội đƠng các đại phong kiến (bao gồm cả “các giáo hoàng”);
các yếu tố dân chủ được Tơmát Đacanh coi là nhà thờ có khả năng kêu gọi thần
dân lật đổ “tên độc tài” khi cần thiết.
Học thuyết phản động của Tômát Đacanh được các tư tưởng gia của nhiều
thời đại tiếp thu, sử dụng như một thứ vũ khí tư tưởng phản động đấu tranh chống
lại tiến trình phát triển của nhân loại, bảo vệ lợi ích của nhà thờ, tăng quyền can
thiệp của nhà thờ vào đời sống chính trị, Nhà nước và xã hội.
2.2. Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Thomas Aquino
Ngày sinh chính xác của Thomas Aquinas khơng được biết. Tuy nhiên, có
thể ước tính rằng ơng được sinh ra trong khoảng thời gian từ 1224 đến 1225. Lâu
đài Roccasecca là nơi Tomás được sinh ra, một thị trấn nằm ở Ý, rất gần với thành

phố Aquino. Gia đình của Thomas là q tộc và có tổ tiên của Đức.
Bên cạnh đó, đó là một gia đình rất lớn, vì Tomás có mười một anh em và là
đứa con cuối cùng mà bố mẹ anh có. Người cha được gọi là Landolfo de Aquino và
9


thuộc dòng dõi con cháu của những người là bá tước của Aquino; Ngồi ra,
Landolfo cũng có một mối quan hệ gia đình với Federico II, hồng đế của Rome.
Mẹ của Tomás được gọi là Teodora và cũng có liên quan, trong trường hợp này với
Bá tước Chieti.
Đội hình đầu tiên mà Tomás de Aquino có được là khi anh 5 tuổi. Vào thời
điểm đó, cha mẹ anh đã đưa anh đến Tu viện Montecassino, một tu viện gồm các tu
sĩ Benedictine; trụ trì của tu viện này là chú của Tom. Các ghi chép lịch sử của thời
kỳ này cho thấy Thomas, ngay từ khi còn nhỏ, đã thể hiện sự tận tâm đáng kể, và
ông là một học sinh gương mẫu. Những lời dạy của các nhà sư có liên quan đến
cách thiền trong khi giữ im lặng, cũng như các lĩnh vực khác nhau về âm nhạc, ngữ
pháp, tôn giáo và đạo đức. Các tu sĩ thành lập Thomas nói rằng anh ta có một trí
nhớ rất tốt, và anh ta nhanh chóng và dễ dàng giữ mọi thứ anh ta đọc.
Năm 1239, các tu sĩ Benedictine phải rời khỏi đất nước vì Hồng đế
Frederick II ra lệnh cho họ phải lưu vong. Sau tập này, năm 1239 Tomás vào Đại
học Naples. Ở đó, ơng đã ở trong năm năm và đào sâu vào các khái niệm liên quan
đến logic Aristoteles. Vào cuối quá trình hình thành của mình, vào năm 1244,
Tomás bắt đầu gắn bó với trật tự của dòng Đa Minh, người mà anh say mê. Lúc
này, ông trở thành bạn với Juan de Wildeshausen, người là một bậc thầy về trật tự
của dòng Đa Minh. Tình bạn này ủng hộ rằng Tomás đã nhập cuộc rất nhanh để
nói.
Ở giữa bối cảnh này, gia đình Tomás cảm thấy rất bối rối, vì kế hoạch mà họ
dành cho Tomás là ông đã thay thế người chú của mình làm trụ trì Tu viện
Montecassino. Thomas đã đến Rome để bắt đầu các nghiên cứu liên quan đến giai
đoạn mới bắt đầu, khi các anh em của anh ta đến và đưa anh ta đến lâu đài

Roccasecca, nơi anh ta buộc phải ở lại trong khi cố gắng thuyết phục anh ta không
đi theo lệnh của Dominicans. Thomas đã xem xét lập luận của anh em mình hết lần
10


này đến lần khác, và đôi khi chuẩn bị nhượng bộ những quan niệm của họ. Tuy
nhiên, cuối cùng anh đã trốn khỏi lâu đài và đi du lịch đến Paris, để tránh xa gia
đình.
Sau giai đoạn này, Tomás vào Đại học Paris. Thời kỳ này rất quan trọng, vì
trong số các giáo viên của mình có những tính cách mà giáo lý của họ hài hòa với
các giáo lý của Aristotle. Một số giáo viên xuất sắc nhất của nó là Đức Alberto
Magno, linh mục, nhà địa lý học và triết gia; và Alejandro de Hales, một nhà thần
học gốc Anh. Cũng trong giai đoạn này, Tomás de Aquino được đặc trưng là một
sinh viên ứng dụng và có tiềm năng trí tuệ lớn.
Khi Tomás sắp hồn thành khóa đào tạo của mình tại trường đại học này,
giáo viên của anh ta là Alberto Magno đã yêu cầu anh ta thực hiện một hành động
kinh viện, một công cụ mà qua đó mối liên hệ giữa lý trí và đức tin được tìm kiếm.
Tomás de Aquino đã thực hiện nhiệm vụ một cách mẫu mực, thậm chí phân
tách nhiều lập luận được thành lập bởi Alberto Magno, một bác sĩ trong khu vực và
được công nhận là một nhân vật học thuật. Nhờ sự tương tác này, Magno đã đề
xuất với Thomas Aquinas để cùng ông đến Cologne, Đức, nơi ông dạy công việc
của nhà triết học Hy Lạp Aristotle và nghiên cứu sâu về lập luận của họ. Sau khi
phân tích cơng trình của Aristote, Thomas Aquinas có thể kết luận rằng đức tin và
lý trí khơng phải là những khái niệm trái ngược nhau, nhưng có sự hài hịa giữa cả
hai quan niệm.
Chính xác khái niệm này là những gì được coi là đóng góp lớn nhất mà
Thomas Aquinas đã làm cho lịch sử và nhân loại. Đó là vào thời gian này trong
cuộc đời của mình, Thomas Aquinas đã được phong chức linh mục.
Năm 1252, ông trở lại Paris với ý định tiếp tục việc học. Vào thời điểm này
trong cuộc đời, anh gặp phải một tình huống bất lợi đến từ bàn tay của những giáo

11


viên thế tục. Những giáo sư này, những người thế tục, đã phản đối các mệnh lệnh
khất sĩ, có lối sống phụ thuộc vào bố thí. Họ tỏ ra chống lại các tu sĩ khất sĩ, những
người kêu gọi sự chú ý của các sinh viên vì những đặc điểm kỳ dị của họ, như
nghèo đói, thói quen học tập mà họ thể hiện và sự kiên định mà họ thể hiện trong
các lĩnh vực hành động khác nhau của họ..
Trong bối cảnh này, nhà thần học gốc Pháp Guillermo de Saint Amour đã
viết hai bản tuyên ngôn rất quan trọng và nguy hiểm cho các vị khất sĩ. Để đáp ứng
điều này, năm 1256, Thomas Aquinas đã xuất bản tác phẩm mang tên Chống lại
những người thách thức sự thờ phượng thiêng liêng, đó là quyết định trong quyết
định mà Giáo hồng Alexander IV sau đó đã đưa ra để thông báo cho Saint Amour,
cũng ngăn cản ông giảng dạy trong bất kỳ trung tâm nghiên cứu nào. Thực tế này
ngụ ý rằng Giáo hoàng đã tâm sự với Thomas Aquinas những vấn đề phức tạp khác
nhau trong lĩnh vực thần học, chẳng hạn như sửa đổi công việc mang tên Cuốn
sách giới thiệu về phúc âm vĩnh cửu.
Việc có được sự tin tưởng của Giáo hồng Alexander IV và các nhiệm vụ mà
ông thực hiện trong bối cảnh đó, là một trong những yếu tố khiến ơng trở thành
một bác sĩ chỉ với 31 tuổi. Từ cuộc hẹn này, ơng bắt đầu sự nghiệp của mình như
một giáo sư đại học. Năm 1256, ông là giáo sư thần học tại Đại học Paris. Lúc đó
Thomas cũng là cố vấn cho Louis IX, Vua Pháp.
Ba năm sau, vào năm 1259, ông tham dự thành phố Valenciennes của Pháp,
dưới sự chỉ dẫn rằng ông chịu trách nhiệm tổ chức các nghiên cứu về trật tự của
Dominicans cùng với Pedro de Tarentaise và Alberto Magno. Sau đó, ơng chuyển
đến Ý, nơi ông làm giáo viên ở các thành phố Orvieto, Viterbo, Naples và Rome;
hoạt động đó kéo dài trong 10 năm.
Trong thời gian này, Thomas Aquinas cũng là cố vấn cá nhân cho Giáo
hoàng Urban IV, người đã ủy thác một số ấn phẩm sau này của ông, cũng như đánh
12



giá các tác phẩm của các học giả khác, như cuốn sách của Đức cha Nicolás de
Durazzo Về đức tin vào Chúa Ba Ngôi.
Thomas Aquinas trở lại Paris, nơi anh ta phản đối mạnh mẽ các ý tưởng của
mình được đại diện từ ba lĩnh vực khác nhau: một mặt, những người theo các ý
tưởng của Augustine of Hippo; mặt khác, những người theo Averroism; và cuối
cùng, giáo dân đã chống lại trật tự khất sĩ.
Trước hết, kịch bản về sự thù địch trí tuệ đối với các ý tưởng của Thomas
Aquinas, ông đã trả lời bằng nhiều ấn phẩm khác nhau, trong đó De đơn vị trí tuệ
chống lại averroists. Trước mỗi cuộc đối đầu này, Tomás là người chiến thắng.
Sắc lệnh của dòng Đa Minh yêu cầu Thomas Aquinas tham dự thành phố
Naples, nơi ông nhận được một sự tiếp đón to lớn và đầy sự tơn trọng và ngưỡng
mộ. Trong khi ở thành phố này, ông bắt đầu viết phần thứ ba của một trong những
tác phẩm được cơng nhận nhất của mình, mang tên Thần học Summa. Ngay tại
thời điểm anh ta bắt đầu viết nó, anh ta đã cho biết rằng anh ta đã nhận được một
điều mặc khải cho anh ta thấy rằng tất cả những gì anh ta đã viết cho đến nay là vô
trùng. Vào ngày 7 tháng 3 năm 1274, Thomas Aquinas đang thực hiện một đức tin
ở thành phố Terracina, với năng lượng đặc trưng cho anh ta, khi anh ta đột ngột qua
đời.
Khơng có thơng tin rõ ràng về nguyên nhân dẫn đến cái chết của anh ấy. Anh
ta thậm chí cịn đưa ra giả thuyết rằng mình có thể đã bị vua Sicily, Carlos de
Anjou đầu độc. Tuy nhiên, khơng có dữ liệu cụ thể để hỗ trợ cho yêu cầu này; chỉ
có tuyên bố về chủ đề được thực hiện bởi Dante Alighieri trong tác phẩm nổi tiếng
của ông Phim hài thần thánh. 50 năm sau khi ông qua đời, vào ngày 28 tháng 1
năm 1323, Thomas Aquinas đã được Giáo hội Công giáo phong thánh.

13



Các tác phẩm của Thomas Aquinas rất đa dạng và ấn phẩm của họ rất phong
phú. Ông đã xuất bản một số lượng lớn sách trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của
mình, kể từ khi ơng qua đời khi ơng chỉ 49 tuổi. Trong danh sách khổng lồ các ấn
phẩm, các tổng hợp thần học của nó nổi bật: Triệu hồi chống lại người ngoại, Thần
học triệu tập và Scriptum siêu quatuor libris sententiarum magistri Petri Lombardi.

14


Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ THẦN
QUYỀN CỦA THOMAS AQUINO

2.1. Quan điểm của Thomas Aquinas về đấng sáng tạo và về bạo lực và
bất tuân luật pháp
Theo Thomas Aquinas Thượng Đế là nhà lập pháp tối thượng (the superme
lawgiver), đấng sáng tạo mọi quy luật, siêu nhiên lẫn tự nhiên – bắt nguồn từ
những quy luật gốc ấy, luật pháp của con người được hình hành.
Thomas Aquinas nhận định rằng trật tự xã hội và những quy tắc cơng bằng
của nó tn theo khn mẫu mà Thượng Đế đã định sẵn trong thế giới tự nhiên.
Những điều luật bất công, vốn không tuân theo khuôn mẫu ấy, khơng thể được xem
là luật pháp đích thực.
Mặc dù, nói một cách nghiêm chỉnh, con người khơng có bổn phận phải tuân
theo những điều luật bất công, nhưng vẫn có những lý do đạo đức địi hỏi sự vâng
mệnh trước quyền lực, bởi lẽ “mọi quyền lực đều xuất phát từ Ý chúa”. Con người
phải tuân theo giới cầm quyền, bởi vì khơng có quyền lực nào nằm ngoài quyền
năng của Thượng đế.
Nắm quyền thống trị là sở hữu quyền lực, là bước lên cương vị và đảm nhận
trách nhiệm cao hơn người khác. Đối khán với quyền lực là đối kháng với thiên
mệnh, với “trật tự” mà Thượng đế đã định ra. Không chỉ quyết định thang bậc tôn
ti ở chốn thiên đường (celestial hierarchy), trật tự ấy cũng quyết định hệ thống

thang bậc trong giáo hội (ecclesiastical hierarchy) và cơ cấu xã hội (social order).
Trong xã hội trần tục, người lãnh đạo tối cao của nhà nước thọ lãnh thiên
mệnh, thực hiện trật tự của Thượng đế; mọi thần dân và thuộc cấp đều phải tuân
15


theo. Thomas Aquinas quan niệm rằng ngay cả hành động sai trái của kẻ cai trị tàn
ác nhất cũng là hành động gián tiếp của Thượng đế.
Thomas Aquinas còn nhận định rằng mối quan hệ đúng mực giữa năng lực
người dân và luật phát là cơ sở xác lập trị an mà không cần sử dụng đến bạo lực.
Bạo lực là điều đáng ghê tởm, chỉ nên sử dụng như biện pháp cuối cùng để tranh
đấu với cái xấu, và phải được giới hạn ở mức cần thiết.
Xét cho cùng, bạo lực đối nghịch với bản chất của tự nhiên, rất hiếm khi nó
hợp với thiên ý. Chính vì lý do đó, khi đối mặt trước bạo lực, con người ln có
khuynh hướng nhân nhượng và hồ hỗn. Tuy nhiên, người ta cũng cần nhận thức
rõ hiểm hoạ và khi cần thiết, bước vào cuộc chiến chống lại Cái Ác.
Thomas Aquinas cho rằng có sự khác biệt giữa những điều luận “bất công”
(vô đạo hay nghịch thiên) và những điều luật “bất lợi” (trái ý hoặc gây phương hại
cho lợi ích của một số cá nhân). Đối với các điều luật vô đạo, chúng ta không bao
giờ nên chấp nhận và tuân thủ.
Tuy nhiên, đối với các điều luật bất lợi (một trong những dạng biến động
thăng trầm của đời người), cách phản ứng của mỗi cá nhân (tuân thủ hoặc phủ nhận
chí kình chống) chính là thước đo lương tâm và đạo đức của bản thân. Một người
vô tội bị kết án tử hình có đủ lý do đạo đức khi tìm cách trốn tránh thụ hình, nhưng
một tội phạm thực sự thì khơng.
Thực tế, lịch sử nhân loại ghi nhận khơng ít gương trung thần, danh sĩ khí
tiết hơn người – họ chấp nhận hình phạt bất cơng để bảo vệ những giá trị và
nguyên tắc đạo đức cao đẹp.
Trong giới triết gia, Socrates là một tấm gương điển hình như vậy. Ơng đã
đón nhận án tử, sử dụng thái độ của mình như một phương cách tơn vinh công lý:


16


tơn trọng tính uy nghiêm của luật pháp, vận dụng lý lẽ để phản kháng. Cái ác thay
vì bài xích và hạ thấp giá trị công lý thiêng liêng của một phán quyết.
2.2. Quan điểm của Thomas Aquinas về quy luật tự nhiên và quy luật
vĩnh hằng xuất phát từ Thượng Đế
Suy luận lôgic, theo quan niệm của Thomas Aquinas, là cơ sở thích hợp để
đánh giá phẩm hạnh của con người, nhưng chính quy luật tự nhiên khơng chỉ quyết
định hình nên khn mẫu suy luận ấy. Cũng cần lưu ý rằng quy luật tự nhiên không
chỉ quyết định sự vận hành của các cơ quan của con người, nó cịn bao hàm những
phẩm chất ln lý – vì thế, nó cũng là quy luật đạo đức. Đối với quy luật tự nhiên,
con người có quyền chọn lựa thái độ tuân thủ, theo đuổi hay xuyên tạc nó. Tuy
nhiên, mọi hành vi trái luật tự nhiên đều trái với đạo đức.
Thomas Aquinas tin tưởng rằng con người không nhận thức về quy luật tự
nhiên thông qua con đường suy luận, mà thông qua sự trực nhận, một thiên hướng
cho phép con người nắm bắt được lẽ tốt đẹp phù hợp với bản chất của chính mình.
Thơng qua q trình suy luận, chúng ta có thể nhìn nhận rằng thiên hướng ấy là tốt
đẹp, rằng những điều sai lệch so với quy luật tự nhiên “bất thành văn” chỉ trở thành
tri thức và phản ứng tự nhiên của chúng ta thơng qua sự trực nhận, khơng địi hỏi
sự hỗ trợ của quá trình suy lý.
Thiên hướng trực nhận lẽ đúng sai khơng đơn giản chỉ là bản năng động vật;
nó bao gồm cả hoạt động ý thức. Hơn nữa, bản thể (ontological life) hoà hợp với
hoạt động ý thức. Hơn nữa, thiên hướng này bám rễ sâu trong các hành vi lý trí,
hoạt động dưới tiếng gọi, mệnh lệnh hay nguyên tắc của lương tâm, đòi hỏi chúng
ta hành thiện, động viên chúng ta chống lại cái ác.
Thực tế tri thức của nhân loại về những đạo lý trong đời đều được phát hiện
dựa trên thiên hướng trực nhận, một thiên hướng thuộc về bản chất của con người.
17



Thời xa xưa, thiên hướng trực nhận ấy là con đường duy nhất dẫn đến tri thức luân
lý. Về sau, con đường ấy bị che khuất dần giữa đám rừng ngơn từ và ý tưởng trí
xảo; con người bắt đầu làm quen với các khuynh hướng suy luận, len lỏi theo
những lối mịn để tìm đến cánh cửa tri thức.
Theo Thomas Aquinas, mặc dù quy luật vĩnh hằng xuất phát từ Thượng Đế,
ý nghĩa của nó cần được nhận thức theo quan điểm triết học hơn là dựa trên quan
điểm thần học. Thượng đế bất diệt – Đấng sáng tạo, khởi động và vận hành muôn
vật – hiện hữu và hành động với ý nguyện và tuệ giác của ngài. Do vậy, bộ máy vũ
trụ vận hành theo lẽ trời – nói cách khác, quy luật tự nhiên là lẽ hành sự của
Thượng đế. Lý lẽ của ngài, Tuệ giác bất diệt của Ngài, Bản chất siêu phàm của
Ngài, hợp nhất với quy luật vĩnh hằng, thể hiện “sự minh tuệ thần thánh” bao trùm
mọi chuyển động và hành trạng của muôn vật.
Do xuất phát từ sự minh tuệ thần thánh ấy, quy luật tự nhiên tất phải bao
hàm đạo lý (hay lẽ phải) và luân lý (hay cơ chế vận hành mang tính áp đặt) – nói
cách khác, nó phải có bản chất của một quy luật đích thực. Khả năng áp chế của
quy luật tự nhiên, hình thành nên các nguyên tắc luân lý, hoàn toàn gắn liên với sự
tồn tại của Thượng đế – khơng có Thượng đế, tất khơng có đạo đức.
Thể hiện sự minh tuệ thần thánh (divine wisdom), quy luật vĩnh hằng vốn vô ngơn,
bất khả thuyết, bất khả tư lượng – chỉ có bản thân Thượng đế, hoặc những ai thực
chứng được bản thể của Ngài, mới có thể nắm bắt được quy luật ấy.
2.3. Quan điểm của Thomas Aquinas về luật pháp và quyền tự nhiên
Theo triết lý của Thomas Aquinas, luật pháp là luật được định hình dưới
dạng văn bản, thể chế hoá lẽ phải bằng lý luận thực tế. Do quan niệm về lẽ phải
được cụ thể hoá dưới dạng quy định pháp lý, áp đặt nên mỗi cá nhân và được xã

18



hội thực thi, nó trở thành một nghĩa vụ luật pháp mà nếu như phớt lờ, người ta có
thể bị trừng phạt.
Trong khi hiệu lực của luật pháp dựa trên cơ sở sự cưỡng chế của xã hội
(pháp chế), quy luật tự nhiên “bất thành văn”, thông qua mệnh lệnh của lương tâm,
đòi hỏi chúng ta tuân theo các nguyên tắc ln lý. Vì thế, quy luật tự nhiên có liên
quan đến nghĩa vụ đạo đức hơn là nghĩa vụ luật pháp.
Ngoài ra, tự bảo toàn sinh mạng” là một thí dụ điển hình cho quyền tự
nhiên (natural right), khái niệm thường đi kèm theo quy luật tự nhiên. Quyền tự
nhiên tồn tại như tiền đề cơ sở cho sự hình thành các quyền hạn cụ thể trong khn
khổ pháp lý. Nó tiềm ẩn trong quy luật tự nhiên. Cơng pháp hay luật quốc tế (the
jus gentium) là luật được áp dụng ở các quốc gia có cùng một nền văn minh.
Khác với quy luật tự nhiên, nó chỉ được nhận thức thông qua lý lẽ và các
khái niệm tư duy, không thông qua khuynh hướng trực nhận. Mặc dù có thể khơng
được thể chế hố thành những quy định rõ ràng, cơng pháp vẫn mang tính pháp
chế, dựa vào hoạt động lý trí và nhận thức của con người.
Tương tự như luật lệ xã hội đòi hỏi mỗi cá nhân trong cộng đồng phải tuân
thủ, luật quốc tế có giá trị pháp lý lẫn luân lý, bởi lẽ nó địi hỏi chúng ta phải có
nghĩa vụ luật pháp lẫn đạo đức.

19


Chương 3: NHỮNG ĐÓNG GÓP CƠ BẢN CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ
THẦN QUYỀN CỦA THOMAS AQUINO

3.1. Những đóng góp về triết học của Thomas Aquinas
Đóng góp to lớn của Thomas Aquinas cho triết học là cho rằng đức tin và lý
trí khơng phải là những ý tưởng trái ngược nhau, nhưng giữa những điều này có
thể có sự hài hịa và hài hịa. Theo tiền đề được trình bày bởi Thomas Aquinas, đức
tin sẽ ln có ưu thế hơn lý trí. Trong trường hợp những ý tưởng mâu thuẫn dựa

trên đức tin và những người khác dựa trên lý trí đã đạt được, những ý tưởng liên
quan đến đức tin sẽ ln vượt trội, vì Thomas Aquinas coi rằng Thiên Chúa là yếu
tố ưu việt và thiết yếu so với bất kỳ ai khác. Đối với Tomás, lý trí là một công cụ bị
hạn chế phần nào để tiếp cận kiến thức thực sự về Thiên Chúa. Tuy nhiên, đó là
một yếu tố thiết yếu để có được loại kiến thức mà anh ta coi là đúng.
Ngoài ra, Thomas Aquinas đã rất rõ ràng rằng tính hợp lý là cách mà con
người có thể biết được sự thật của các sự vật và các yếu tố xung quanh chúng. Do
đó, lý do khơng thể sai, vì nó là một cơng cụ tự nhiên cho con người. Thomas
Aquinas chỉ ra rằng có ít nhất 5 yếu tố mà qua đó có thể biết và chứng thực sự tồn
tại của Thiên Chúa; đó là về việc nhận ra sự hiện diện và quan niệm của Thiên
Chúa từ một tầm nhìn đi từ hiệu quả đến nguyên nhân.
Sau đó, Aquina quy định rằng có 5 yếu tố thiết yếu mà qua đó có thể tiếp cận
khái niệm đó về sự tồn tại của Thiên Chúa. Các yếu tố này được liên kết với khái
niệm rằng các hiệu ứng luôn được tạo ra bởi các nguyên nhân cụ thể và tất cả các
sự kiện trên thế giới có liên quan với nhau thơng qua một chuỗi nhân quả lớn. Năm
tuyến đường được đề xuất bởi Tomás de Aquino như sau:

20


Đối với Thomas Aquinas, mọi thứ đều chuyển động liên tục. Đồng thời, nó
thiết lập sự bất khả thi của một cái gì đó di chuyển và được di chuyển cùng một
lúc. Do đó, tất cả những điều di chuyển làm điều đó bởi vì một yếu tố khác thúc
đẩy phong trào này. Chuyển động liên tục này do người khác tạo ra khơng có đặc
điểm là vơ hạn, vì cần phải có sự bắt đầu và kết thúc. Trên thực tế, đối với Thomas
Aquinas, khởi đầu của phong trào vĩ đại này là Thiên Chúa, người mà ông gọi là
Động cơ bất động đầu tiên. Nhân quả nó phải làm với chuỗi nhân quả. Thông qua
con đường này, chúng tơi tìm cách nhận ra rằng ngun nhân hiệu quả tuyệt vời đã
tồn tại chính là Thiên Chúa, người là khởi đầu của mọi thứ, nguyên nhân chính của
tất cả những điều khác đã xảy ra, điều đó xảy ra và điều đó sẽ xảy ra.

Từ quan điểm triết học, Aquino được đặc trưng bởi Aristoteles. Ơng lấy
phân tích vật lý của các vật thể làm điểm khởi đầu. Có lẽ, khái niệm nổi bật nhất
trong tư duy triết học của ông phải liên quan đến ý tưởng của ông rằng các vật thể,
và mọi thứ hiện diện trong vũ trụ, tồn tại cùng với bản chất của chúng, có nghĩa là
tất cả vật chất tồn tại, nhưng bản chất của nó được thể hiện bởi sự sáng tạo hồn
hảo của Thiên Chúa.
Thánh Tôma Aquinô đã phát triển ý tưởng về Thiên Chúa là ai và Ngài đã
thực hiện nó bằng những ý tưởng tích cực cố gắng khám phá bản chất của nó.
Trong suy nghĩ suy diễn của mình, ơng nói rằng Thiên Chúa đơn giản, hồn hảo,
vơ hạn, bất biến và độc nhất. Thiên Chúa không bao gồm các bộ phận, nghĩa là,
anh ta khơng có thể xác và linh hồn, cũng khơng có vật chất và hình thức. Nó hồn
hảo đến nỗi nó khơng thiếu gì và khơng bị giới hạn dưới bất kỳ hình thức nào. Tính
cách và bản chất của anh ấy rất vững chắc đến nỗi khơng có gì có thể thay đổi
chúng.

21


3.2. Đóng góp của Thomas Aquinas trên các lĩnh vực khác
Đối với Santo Tomas, con người không bị giới hạn bởi ý tưởng về nhân quả.
Do đó, con người chịu trách nhiệm cho hành vi của chính họ. Tuy nhiên, sự tồn tại
của ý chí tự do khơng trái với sự tồn tại của Thiên Chúa.
Một trong những lĩnh vực mà Thánh Thomas Aquina đổi mới nhất là trong
siêu hình học. Tuy nhiên, tồn bộ dịng tư tưởng có liên quan mật thiết đến niềm tin
tôn giáo của họ. Thần tối cao luôn ở trên đỉnh của kim tự tháp. Theo nghĩa đó, suy
nghĩ của anh ta phát triển trên cơ sở rằng một thế giới tĩnh là ý tưởng của sự hồn
hảo. Theo lời anh, những gì bất động là hồn hảo. Ơng phân biệt giữa chuyển động
tự nhiên và chuyển động tự nguyện. Tuy nhiên, một lần nữa, mọi chuyển động đầu
tiên được thực hiện bởi một đấng tối cao, đó là Chúa.
Trong lĩnh vực luật pháp, học thuyết của Thánh Thomas Aquinơ đóng một

vai trị quan trọng và được tôn trọng. Suy nghĩ của ông được coi là một trong
những trục của lý thuyết luật và được phơi bày trong tất cả các ghế đại học như là
điểm khởi đầu cho sự phản ánh của các luật sư tương lai. Ý tưởng của ông về trật
tự thiêng liêng, hiện diện trong mỗi lần trình bày di sản của ông, khẳng định rằng
luật pháp được tuân thủ bởi các luật khơng hơn cơng cụ dành cho lợi ích chung.
Tuy nhiên, các luật này có hiệu lực miễn là chúng phù hợp với những gì cơng
bằng.
Santo Tomas tin rằng mọi thứ xung quanh chúng ta không thực sự là của
chúng ta. Bởi vì Chúa là người sáng tạo tuyệt vời, chúng ta nên chia sẻ mọi thứ và
coi đó là một món q. Ơng cho rằng đàn ơng cần khuyến khích để thực hiện và,
trong khía cạnh này, tài sản tư nhân là một phần của ưu đãi này và là kết quả của
công việc của con người.

22


Cách thứ ba được đặt ra bởi Thomas Aquinas nói về thực tế rằng thế giới có
rất nhiều khả năng trong các lĩnh vực tồn tại khác nhau. Mọi thứ xung quanh chúng
ta đều có khả năng tồn tại hoặc khơng, bởi vì rất có thể nó đã bị phá hủy. Vì có khả
năng là một cái gì đó khơng tồn tại, điều này ngụ ý rằng có một khoảnh khắc trong
lịch sử khơng có gì tồn tại. Trước sự hư vô này, sự cần thiết nảy sinh sự xuất hiện
của một sinh vật mà Aquina gọi là "cần thiết", tương ứng với sự tồn tại đầy đủ;
Chúa.
Đối với Thomas Aquinas, việc công nhận các giá trị là một trong những cách
lý tưởng để tiếp cận khái niệm về Thiên Chúa. Chỉ ra rằng các giá trị như cao quý,
trung thực và tốt đẹp, trong số các giá trị khác, sẽ lớn hơn khi chúng tiếp cận điểm
tham chiếu cao hơn, đại diện cho sự xuất hiện tối đa và nguyên nhân tuyệt đối của
các giá trị đã nói. Thomas Aquinas nói rằng điểm tham chiếu cao hơn này là Thiên
Chúa, tương ứng với sự hoàn hảo cao nhất.
Thomas Aquinas nói rằng các vật thể tự nhiên khơng có suy nghĩ, vì vậy

chúng khơng thể tự ra lệnh. Điều này làm cho sự cần thiết tồn tại của một thực thể
cao cấp chịu trách nhiệm đặt hàng.
Đối với Thomas Aquinas, Thiên Chúa như một khái niệm là một quan niệm
rất phức tạp, khơng thể tiếp cận trực tiếp vì lý do của chúng ta không thể hiểu được
rất nhiều sự vĩ đại. Đó là lý do tại sao ơng đề xuất rằng cách tốt nhất để tiếp cận
với Thiên Chúa là thông qua Kinh Thánh, đặc biệt là qua Tân Ước; về cái gọi là
truyền thống tông đồ, không được viết nguyên văn trong Kinh thánh mà là một
phần của động lực Kitô giáo; và về giáo huấn của giáo hoàng và các giám mục.

23


24


KẾT LUẬN
Thomas Aquinas cho rằng luật tự nhiên có nguồn gốc từ tơn giáo. Theo ơng,
có 04 loại luật: luật vĩnh cửu, luật tự nhiên, luật thiêng liêng và nhân luật (luật thực
định). Luật tự nhiên chính là phương tiện cho lồi người có lý tính kết nối luật vĩnh
cửu và luật thực định, giúp con người có thể phân biệt điều tốt, kẻ xấu dưới ánh
sáng của lẽ phải. Chính lý trí và lẽ phải đã giúp con người chuyển hóa luật tự nhiên
thành luật thực định, do đó, luật thực định phải được điều chỉnh cho phù hợp với
luật tự nhiên. Nếu không đáp ứng đầy đủ qui tắc này, những quy tắc do con người
ban hành sẽ không phải là luật thực sự mà chỉ là sự bóp méo của pháp luật.
Có thể nói, học thuyết luật tự nhiên là một học thuyết chứa đựng những giá
trị nhân văn, nhân đạo, dân chủ, công bằng và pháp quyền sâu sắc, có ảnh hưởng
sâu rộng trong lịch sử văn minh nhân loại nói chung và trong nền khoa học pháp lý
nói riêng. Đổi mới tư duy pháp lý và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại
Việt Nam đã tạo ra những tiền đề căn bản và quan trọng cho việc nghiên cứu, giới
thiệu, du nhập và ứng dụng học thuyết luật tự nhiên tại Việt Nam. Vai trò của luật

tự nhiên trong nghiên cứu và ứng dụng thời gian qua là khá đa dạng, bước đầu đã
góp phần làm sáng tỏ một số nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Từ đó, các hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo pháp lý tại Việt Nam
cũng đã có một cái nhìn thân thiện và cởi mở hơn, từng bước nhìn nhận và tiếp thu
những giá trị nhân văn của học thuyết này. Từ cách tiếp cận này, một số nghiên cứu
của các nhà nghiên cứu đã khẳng định vai trò của luật tự nhiên tại Việt Nam và phê
bình nhận thức truyền thống coi pháp luật chỉ thuần túy là tập hợp một cách có hệ
thống những khn thước hành xử do cơ quan công quyền công bố.

25


×