Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

NHỮNG BIẾN đổi vể văn HOÁ Mường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.46 KB, 11 trang )

NHỮNG BIẾN Đổi VỂ VĂN HOÁ
7.1. Về tập quán ăn uống
Khi xem xét những biến đổi về tập quán ăn uống của người Mường ở xã Phong
Phú, trước hết cần nhìn lại các đặc điểm trong tập quán ăn uống truyền thống
của họ.
Sống ở vùng thung lũng, lấy canh tác mộng nước làm hoạt động chủ yếu nên
nguồn lương thực chính trong xã hội truyền thống của người Mường là gạo,
trong đó gạo nếp là chủ yếuỗ Xưa kia, người Mường cũng ăn màu như ngô,
khoai, sắn, song chỉ ăn vào lúc thiếu gạo, như khi giáp hạt, lúc mất mùa. Trước
năm 1986, người Mường ở xã Phong Phú cũng như nhiều vùng khác của Tân
Lạc vẫn ăn nếp là chủ yếu. Nguồn thực phẩm của đồng bào khá phong phú,
trong đó đáng kể là các loại thực phẩm khai thác từ thiên nhiên, như thuỷ sản,
rau rừng, muông thú. Theo một điều tra của Võ Thị Thường (1987), người
Mường ở vùng Lương Sơn đã sử dụng tới 90 loại rau rừng. Tại
xã Phong Phú, chúng tơi chưa có điều kiện tìm hiểu sâu vấn đề này, song các
thơng tín viên đều cho biết, khoảng 20 năm trước, rau rừng vẫn là nguồn thức
ăn thường ngày của các gia đình ở đây.
Trong cách thức chế biến món ăn truyền thống của người Mường, đồ thức ăn là
cách làm rất phổ biến. Đồ là cách làm chín thức ăn bằng hơi nước. Để đồ, người
ta thường đặt nguyên liệu vào một dụng cụ gọi là chõ, sau đó chõ được đặt trên
một nồi nướcệ Khi nước sôi, hơi nước bốc lên qua phần lót đáy chõ, làm chín
ngun liệu. Thức ăn chế biến theo kiểu đồ sẽ ít bị mất nước, có vị đậm và thơm
ngonỗ
Người Mường nói chung và ở xã Phong Phú nói riêng đều có thể chế biến bằng
cách đồ những món ăn sau đây:
- Cơm nếp: Trước khi đồ, gạo nếp được ngâm nước lã 5-6 giờ cho mềm, sau đó
vớt ra cho ráo nước rồi đồ trong khoảng 30-40 phút là được.

1



Cơm tẻ: Phải đồ hai lần. Lần thứ nhất, sau khi thấy hơi bốc lên đều thì bỏ
xuống, cho gạo vào chậu tưới nước rồi úp vung một lúc để gạo nở đều; sau lại
mang đồ tiếp cho tới chín.
-

Củ mài: Củ được cạo sạch, cắt từng khúc rồi cho vào chõ đồ.

-

Bánh i: Người ta đem gói bột nếp (đã nhào với nước) vào lá chuối khô
rồi đem đồễ

-

Bánh chì: Gạo nếp sau khi ngâm, đem đồ chín rồi mang giã nhuyễn.

-

Bánh chay: Trước khi mang đồ, bánh được gói bằng bột nếp, khơng có
nhân.

-

Giị lụa: Giị được làm bằng thịt lợn nạc giã nhuyễn, gói trong lá chuối
tươi rồi đem đồ chín.

-

Mọc: Thịt nạc được giã nhuyễn với các nguyên liệu và phụ gia khác ỗ Sau
khi cho vào chõ, người ta rắc mộc nhĩ và đập trứng vịt đổ lên trên và đem


đồ.
-

Cá: Trước khi đồ, cá được làm sạch, tẩm ướp gia vị. Các loại cá thường
hay được đồ là chép, trê hay cá quả.

-

Ếch: Để đồ ếch, người ta phải ướp ếch đã làm sạch với các nguyên liệu
rồi vùi vào bếp than hồng, sau đó mới đem đồ.

-

Nịng nọc: Trước khi đồ, nịng nọc được trộn với muối, gừng, xả, nõn
khoai môn, nước măng chua, sau đó mới để vào trong liễn, đạy kín vung
rồi cho vào nồi nước đun cho chín.

-

Măng đắng: Khi đem đồ, măng đắng được bóc vỏ và làm sạch.

-

Rau: Người Mường có thể đem đồ rất nhiều loại rau, kể cả rau trồng và
rau dại.

Những món ăn kể trên (Nguyễn Thị Thanh Nga-Nguyễn Ngọc Thanh: 148-159)
chắc chắn chưa phản ánh hết các loại thức ăn mà người Mường cóthể chế biến
bằng cách đồ. Tuy nhiên qua đó cho thấy: người Mường đã áp dụng cách đồ


2


chín thức ăn với cả nguyên liệu thực vật và nguyên liệu động vật; với cả các
món thuộc nhóm cơm và các món thuộc nhóm thức ăn.
Một cách thức chế biến khác rất phổ biến của người Mường, đó là nướng. Cách
chế biến này chủ yếu được áp dụng cho các món thức ăn có nguồn gốc động
vật. Người ta có thể nướng các loại thịt, như thịt lợn (chả thịt nạc, chả lá bưởi,
chả sườn, chả mọcỂ..), thịt gà, cua, cá...
Nói tới món ăn truyền thống Mường, có thể kể tới một số món tiêu biểu, như
thịt gà nấu măng chua, thịt trâu nấu lá lồm, cá đồ, nòng nọc đồ nõn khoai... Tại
ngày lễ Khai hạ hàng năm, thường có tổ chức làm cỗ thi giữa các địa phương
trong huyện. Các món trong mâm cỗ thi đều là món ăn truyền thống. Trong các
kỳ thi cỗ đó, người Mường ở xã Phong Phú thường giành được giải cao. Sau
đây, chúng tơi nêu ví dụ về các món ăn truyền thống được phụ nữ Mường ở
xóm Mận chế biến trong thi cỗ của lễ Khai hạ năm 2005. Để bạn đọc hình dung
được sự biến đổi của món ăn truyền thống, chúng tơi sẽ nói thêm việc sử dụng
các món ăn này trong điều kiện hiện nay. Đáng lưu ý là trong cuộc thi kể trên,
cỗ của người Mường ở xã Phong Phú do phụ nữ xóm Mận nấu đã giành được
giải nhất. Sau đây là các món ăn và cách chế biến những món đó trong ngày lễ
Khai hạ năm 2005 của phụ nữ xóm Mận:
-

Thịt gà nấu măng chua và hạt dổi: Thịt gà dò chặt miếng vừa phải, nấu
với măng bương ngâm chua. Món này hiện nay vẫn được người Mường ở
xã Phong Phú nấu để ăn trong bữa ăn hàng ngày, có khi cịn được dùng
trong cả đám cưới, nếu gia chủ có điều kiện.

-


Thịt lợn luộc: Thịt miếng to, lẫn cả xương được đem luộc rồi cho thêm ít
muối cho đậm. Thức chấm là muối, có thể trộn thêm ớt hoặc hạt tiêu.

-

Chả cuốn lá bưởi: Thịt ba chỉ thái miếng vừa phải, bóp muối rồi cuốn
trong lá bưởi bánh tẻ và đem nướng. Món này xưa kia được chế biến cả
trong cỗ đám ma và đám cưới, song nay ít dùng vì chế biến tốn nhiều
công.

3


-

Cá ốt đồ: Cá suối sau khi làm sạch đem trộn với lá lồm hoặc măng chua
rồi đem đồ. Khi chín, người ta đem bọc cá trong lá chuối rồi vùi vào than
hồng cho thơm. Món này thường được chế biến vào dịp tết hoặc khi có
khách.

-

Cá nướng: Nguyên liệu là cá rơ, cá diếc chỉ to bằng 2 ngón tay. Trước đây
người Mường không ướp cá với gia vị hoặc phụ gia; cịn nay trước khi
nướng, người ta bóp cá với muối, mì chính và gừng rồi đem nướng.

-

Cá suối ốt sả: Cá suối sau khi làm sạch, được trộn với sả và sau đó làm

như cá ốt đồ.

-

Trứng ốt kiệu: Trứng đánh lên với kiệu (hoặc hẹ), đem gói lá chuối rồi
vùi trong than hồng cho chín.

-

Trứng ốt lá mơ: Cách làm như trứng ốt kiệu.

-

Hến nấu lá khoai nước: Hến được làm sạch rồi nấu (cả vỏ) với búp khoai
nước.

-

Ốc nấu lá ráy: Lá ráy tước sống, đem nấu với ốc đồng hay ốc suối (cả
vỏ). Trước đây khi nấu, người ta còn giã nát lá ráy.

-

Ếch nấu cách thuỷ: Ếch làm sạch (không lột da), cho vào ống tre rồi đặt
vào nồi nước đồ cơm. Khi đồ cơm chín, món ếch đồ cũng chín.

-

Ng nấu lá lồm: Ngoé làm sạch (không lột da) rồi đem nấu với lá


lồm.
-

Nấm rừng ốt: Nấm mọc trên thân cây mục. Lấy nấm, rửa sạch, trộn muối
rồi gói trong lá chuối và vùi vào than hồng.

-

Trứng kiến nấu chuối: Sau Tết khoảng 2 tháng thì kiến đẻ trứng. Khi lấy
được trứng kiến, người ta đem nấu với chuối tây hoặc chuối rừng (chuối
tiêu nấu bị đắng).

-

Dơi nấu tấm: Dơi bắt trong hang đá hoặc vào mùa đông, dơi hay về ăn
quả xoan thì căng lưới bắt. Đây là loại dơi to, cỡ đến 0,5 kg/ con. Dơi
được làm sạch, chặt miếng nhỏ và nấu với tấm. Đến nay, loại dơi này cịn
rất ít.

4


-

Sóc nấu chuối rừng: Đem sóc vùi vào tro nóng rồi vặt lông, làr sạch và
chặt thành miếng để nấu với chuối rừng. Nay người dân ở Phong Ph ít bắt
được sóc.

-


Rau cỏ bợ nấu măng: Rau cỏ bợ thường thu hái trên đồng, đem rủ sạch
nấu với măng chua.

-

Rau cỏ bợ ốt: Rau cỏ bợ làm sạch, gói lá chuối rồi vùi trong tha

hồng.
-

Rau đồ: Các loại rau quả như hoa chuối, đu đủ xanh, rau ngót, 1 gấc, rau
muồng, lá sung, các loại rau rừng... đem rửa sạch và đồ.

-

Rau dớn xào lòng gà: Rau dớn rửa sạch, xào với lòng gà (hoặc vc lòng
lợn).

-

Cơm nếp đồ: Gạo nếp đem ngâm rồi đãi sạch và đồ chín.

-

Xơi gấc đồ: Lấy ruột gấc, bóp với gạo nếp rồi đồ chín.

-

Xơi đồ lá lồng: Luộc lá lồng lấy nước rồi ngâm gạo nếp qua đên Sau đó
vớt gạo để ráo nước rồi đồ. Xơi đồ lá lồng có màu đỏ như gấc.


-

Bánh chưng: Mỗi bánh gói khoảng 2-3 lạng gạo nếp. Nhân bán bằng thịt
lợn (thịt sống), đậu xanh, hạt tiêu bắc. Bánh được gói bằng lá dong.

-

Bánh tét: Bánh gói hình ống bằng lá dong. Nhân bánh cũng nh nhân bánh
chưng.

-

Bánh chay: Nhào bột gạo nếp rồi nắm trong lá chuối, sau cắt thàn miếng
rồi đem đồ. Trong đám ma phải có loại bánh này.

-

Bánh trơi nước: Nhào bột rồi nặn thành từng viên bánh và đeĩ luộc. Khi
ăn, chấm bánh với mật.

-

Cơm lam: Cho gạo và nước vừa đủ vào ống nứa xanh rồi đem đ( cho tới
chínẽ

Trong thời gian qua, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tập quá ăn uống
của người Mường nói chung, ở xã Phong Phú nói riêng đã có sự tha đổi. Sự thay
đổi đó trước hết ở nguồn lương thực và thực phẩm. Từ năm 1986 đến nay, người
Mường ở xã Phong Phú đã chuyển sang ăn tẻ là chủ yếu. Như đã trình bày ở


5


phần trên, đến nay, người Mường tại đây đã chuyển sang canh tác các giống lúa
mới. Ngay cả các giống lúa nếp truyền thống người dân vốn ưa chuộng cũng ít
được gieo trồng. Trong những loại cây màu, cây ngô cũng được thay bằng giống
mới và loại ngô này chỉ dùng cho chăn nuôi gia súc, gia cầm Ể Nguồn thức ăn
khai thác từ thiên nhiên cũng ngày một hạn chế. Ngay rau rừng là loại dễ tìm,
song nhiều người ở đây cũng chỉ nhớ được vài loại mà họ còn hay thu hái, như
măng đắng, rau dớn, rau sắng, rau lồm... Đánh bắt thuỷ sản ở suối (riêng đánh
bắt cá thường diễn ra vào thời gian sau tết) vẫn còn nhưng chỉ thu được rất hạn
chế. Săn bắn thú rừng hầu như ít thấy, vì thú hiện nay rất hiếm. Để bù lại sự hạn
chế về nguồn thực phẩm khai thác từ thiên nhiên, người dân ở đây đã tăng
cường canh tác các loại rau đậu, nuôi cá ao, cá lồng và tạo thu nhập bằng tiền
mặt để mua lương thực, thực phẩm ở ngoài chợ.
Sự biến đổi trong tập qn ăn uống cịn thể hiện: một số món ăn, cách thức chế
biến truyền thống của người Mường bị mai một. Như đã trình bày, đồ là cách
thức chế biến rất phổ biến trong xã hội truyền thống, song đến nay, cách này chỉ
được sử dụng trong một số dịp nhất định. Xưa kia, người Mường tại xã Phong
Phú chủ yếu ăn cơm đồ, nhưng đến nay, hầu như việc đồ cơm (cơm nếp) chỉ
được thực hiện vào các dịp tết hay lúc có khách.
Một trong những biểu hiện của sự biến đổi trong tập quán ăn uống của người
Mường ở xã Phong Phú là việc tiếp thu một số món ăn cũng như cách thức ăn
uống của người Kinh. Do sống cùng hoặc sống gần cộng đồng người Kinh, lại
thường xuyên mua các loại lương thực, thực phẩm, món ăn chế biến của họ nên
người Mường đã tiếp thu một số tập quán ăn uống của tộc người này. Các thơng
tín viên đều cho rằng, việc tiếp thu đó chủ yếu diễn ra trong vịng hơn chục năm
trở lại đây, biểu hiện qua các khía cạnh:
Cách thức chế biến: Có những cách chế biến người Mường hồn tồn học ở

người Kinh, bởi trong truyền thống hầu như họ khơng sử dụng. Ví dụ như cách
nấu cơm bằng nồi, cách xào món ăn. Với các loại như thịt lợn, lòng gà, vịt, thịt

6


trâu bị, xưa kia người Mường khơng xào, nhưng nay họ đã áp dụng phổ biến
cách này để chế biến, nhất là trong dịp cưới xin, khách khứa.
-

Sử dụng món ăn của người Kinh: Đến nay, đã có một số món ăn của
người Kinh được đồng bào Mường sử dụng trong bữa ăn như giò, chả,
nem trạo... Người ta thường mua các món này ở ngồi phố Lồ. Sự phát
triển về ăn uống của người Kinh và người Mường cũng gắn bó chặt chẽ
với lịch sử phát triển của phố Lồ. Vào những năm 60 đã xuất hiện phở ở
khu vực này, song phở chỉ bán ở chợ Lồ. Phải đến năm 1985, quán phở
đầu tiên mới được mở ở khu vực phố Lồ ngày nay. Đến năm 2000, đã
xuất hiện dịch vụ đặt cơm tiệc và cơm khách; đặt các món ăn cho đám
cưới (có 5 quán làm dịch vụ này). Năm 2003, quán cơm đầu tiên được mở
ở khu vực phố Lồ. Vào năm 2006, tại khu vực phố Lồ có khoảng hơn 10
quán ăn của người Kinh, trong đó cỏ bán ăn sáng và cơm phở. Khách ăn
ở các quán ăn của người Kinh có rất nhiều người Mường. Theo kết quả
phiếu điều tra các hộ người Mường tại xóm Mận, có 65 % số người được
hỏi trả lời rằng món ăn được sử dụng trong đám tang có cả món ăn
Mường và món ăn của người Kinh. Việc sử dụng món ăn của cả hai dân
tộc trong các trường hợp khác có kết quả trả lời như sau: đám cưới - 84,8
%; đám sinh nhật, mừng thọ - 89,4 %; về nhà mới - 93,5 %; liên hoan
tổng kết - 89,6 %.

Sử dụng một số loại thức ăn chế biến theo cơng nghiệp: Các món ăn như mì

tơm, nước mắm, bia, nước ngọt... vốn rất ít xuất hiện trong cộng đồng người
Mường ở xã Phong Phú vào giai đoạn trước năm 1986 thì nay đã được họ sử
dụng nhiều hơn. Mì tơm thường được dùng để nấu lẫn với rau. Nước mắm vốn
không phổ biến trong vùng của các tộc người thiểu số thì nay người Mường
khơng chỉ sử dụng nấu nướng mà cịn được dùng để chấm thức ăn. Bia cũng
được dùng, song chủ yếu là với thanh niên. Kết quả điều tra bằngphiếu hỏi cho
thấy, có đến trên 80 % số người trả lời là trong các dịp như đám ma, đám cưới,

7


sinh nhật, mừng thọ, về nhà mới..., người Mường ở xóm Mận chỉ dùng thức
uống (nước chè, rượu) tự nấu.
- Thay đổi chuẩn mực của cỗ bàn theo chuẩn mực của người Kinh: Cỗ bàn của
người Mường ở xã Phong Phú vào các dịp như cưới xin, tang ma trước đây chủ
yếu gồm các món ăn Mường. Song đến nay, họ đã sử dụng một số món ăn của
người Kinh và phải có những món đó mới được coi là sang. Ví dụ trong đám
cưới, người Mường ở xóm Luỹ có hai loại cỗ: cỗ Mường và cỗ Kinh. “Cỗ
Mường” thường chỉ có các món: thịt lợn luộc (bày trên lá chuối), xơi đồ, canh
rau cải; cịn “cỗ Kinh” gồm các món ăn: thịt lợn luộc, giị, chả, thịt gà luộc, chả
nướng, món xào thập cẩm, dưa bóp với mì chính và hoa quả. “Cỗ Mường” chỉ
dùng cho người Mường trong làng xóm. “Cỗ Kinh” được
dành tiếp khách là người Kinh hoặc các vị khách Mường sang trọng, ở nơi khác
đến. Cịn tại xóm Mận, cỗ đám cưới của người Mường thường có các món như
một đĩa dồi (có cả chả sườn); một bát óc trộn với tai và lưỡi lợn; các loại thịt
cịn lại của con lợn thì được để trên mâm lá chuối và ngồi ra, cịn có một bát
canh nấu với rau chuối tây. Trong cỗ đám cưới, người ta kiêng ăn những món
chế biến theo kiểu ốt. Cịn với các mâm tiếp khách (ngồi cộng đồng, có thể cả
người Kinh hay người Mường có vai vế), ngồi các món trên, mâm cỗ thường
có thêm thịt gà luộc, giị nạc, đĩa xào thập cẩm. ẵ. Nhìn chung, xu hướng của

đám cưới Mường hiện nay là ngày càng giảm lối chế biến truyền thống. Theo
một số thông tin viên, vào khoảng 10 năm trước đây, “cỗ lá” - tức cỗ truyền
thống của người Mường còn phổ biến trong các đám cưới. Đến nay, hầu như rất
ít gia đình chế biến loại cỗ này trong đám cưới, có chăng là chỉ phổ biến trong
đám ma. Vào thời điểm cuối tháng 11 năm 2007, chị Đinh Thị Thìn đang chuẩn
bị kết hôn với một thanh niên Mường ở xã khác. Gia đình chị chuẩn bị cỗ đám
cưới của chị bằng cách mua một con bò, đem thịt và chế biến thành các món:
thịt luộc, thịt xào sả ớt, thịt nấu lá lồm, món pịa. Ngồi ra, trong mâm cỗ cịn
những món khác, như thịt ngan luộc,

8


trứng luộc, lòng ngan xào thập cẩm, canh hầm (xương sườn lợn hầm bí hoặc su
su), 1 gói cơm nếp, 1 âu cơm tẻ, 1 lít rượu và hoa quả tráng miệng.
Như vậy, có xu hướng chung là làm những món ăn chế biến theo kiểu người
Kinh trong một số sinh hoạt ăn uống như đám cưới, về nhà mới... đang ngày
càng phổ biến. Lý do chuyển sang các món ăn mới, theo người dân là bởi giao
tiếp của người Mường với người Kinh ngày càng phổ biến. Trong đám cỗ của
người Mường, nếu có người Kinh đến dự mà lại chỉ ăn đơn giản những món ăn
Mường thì gia chủ cảm thấy áy náy. Còn nếu lại tiếp loại cỗ riêng cho người
Kinh, còn dân làng chỉ ăn cỗ Mường thì sợ mang tiếng phân biệt sang hèn. Bởi
vậy, giải pháp tốt nhất của họ là làm theo kiểu cỗ Kinh.
-

Một số món ăn truyền thống ít được sử dụng. Kết quả điều tra bảng hỏi ở
xóm Mận cho thấy, có 66 % số người được hỏi cho rằng họ khơng cịn
chế biến món thịt trâu nấu lá khoai mơn. Việc khơng cịn sử dụng một số
món ăn truyền thống khác cho kết quả (% số người được hỏi) như sau:
rau môn nấu lá giáy - 72 %; cá rươi - 74 %; thịt thú rừng - 88 %; nịng

nọc - 77 %Ể Lý do để một số món ăn truyền thống kể trên khơng cịn
được chế biến là bởi: chế biến phức tạp - 21,4 %; không biết cách chế
biến - 26,8 %; do kinh tế đầy đủ hơn nên khơng muốn ăn món ăn truyền
thống - 8,9 %; khó kiếm ngun liệu - 17,9 %; và khơng trả lời - 25 %.

-

Một số món ăn truyền thống của người Mường lại được ưa chuộng và trở
thành sản phẩm hàng hố: Ngày nay, một số món ăn truyền thống của
người Mường mà mọi người ưa thích đã được chế biến thường xuyên hơn
trong đời sống của người dân, như món thịt gà nấu măng chua; thịt gà nấu
măng chua và hạt dổi; thịt trâu nấu lá lồm... Một số món ăn của người
Mường đã được đưa vào thực đơn của nhà hàng, kể cả nhà hàng của
người Kinh để kinh doanh.

Bên cạnh tiếp thu những món ăn của người Kinh, do giao lưu và kinh tế thị
trường phát triển nên một số món ăn của người Mường cũng được người Kinh ở

9


xã Phong Phú ưa chuộng và làm theo, như các món thịt gà nấu măng chua, thit
trâu nấu lá lồm. cá đồ. rươu cần...
-

Nhìn lại tập quán ăn uống của ngưòi Mường ở xã Phong Phú cho thấy,
trong khoảng 20 năm qua - thời điểm tiến hành công cuộc Đổi Mới đất
nước, với q trình đơ thị hố, đã có những biến đổi nhất định. Sự biến
đổi này chủ yếu theo xu hướng: thay đổi về nguồn lương thực, thực
phẩm; tiếp thu một số cách chế biến và một số món ăn mới của người

Kinh; thay đổi chuẩn mực về món ăn trong ăn uống. Cùng với tiếp thu cái
mới, người Mường ở đây cũng làm mất đi của một số món ăn và cung

cách chế biến truyền thống.
- 7.2. Nhà ở
- Ngôi nhà truyền thống của người Mường xã Phong Phú, theo các cụ già
cho biết, đó là những ngôi nhà sàn nhỏ, một gian hoặc 3 gian; được làm
bên sườn đồi, bên mép các cánh đồng lúa, ven con suối nhỏ.
- Khuôn viên của ngồi nhà Mường truyền thống được rào dậu chắc chắn,
kiên cố, nhất là ở những nơi hẻo lánh, gần rừng. Rào dậu xung quanh nhà
khơng phải đẻ tách biệt với bà con lối xóm mà chủ yếu để chống thú dữ.
Bờ rào làm bằng tre, nứa chôn sâu xuống đất ề Mỗi khuôn viên thường có
2 cổng ra vào: trước và sau. Kiểu cổng được người Mường thường làm là
loại "cổng chống".
- Người Mường ở xã Phong Phú trước đây chỉ có một ngơi nhà chính là
nhà sàn, ngày nay, ngồi ngơi nhà chính (dù nhà sàn, nhà đất) cịn có ngơi
nhà phụ (bếp, kho, nhà ngang), chuồng trầu bị, lợn gà, các cơng trình vệ
sinh. Trong khn viên ngơi nhà sàn của người Mường thường có miếu
thổ thần dặt ở góc vườn hoặc trước nhà. Ngày nay người ta thường thay
bằng cây hương. Trong vườn xung quanh ngôi nhà người ta phân thành
từng khu vực: nơi trồng rau xanh, nơi trồng các cây gia vị, trầu, cau - thứ
mà ngưòi phụ nữ Mường rất thích dùng, cũng như nam giới hút thuốc lào.
Vườn còn được trồng
-

10


11




×