Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tiểu luận triết học câu hỏi thi kết thúc học phần mâu thuẫn đều dẫn đến sự phát triển và mọi sự phát triển đều có nguồn gốc từ việc giải quyết mâu thuẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.57 KB, 11 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
Câu 1 (2 điểm). “Mọi mâu thuẫn đều dẫn đến sự phát triển và
mọi sự phát triển đều có nguồn gốc từ việc giải quyết mâu thuẫn”.
Nhận định trên đúng hay sai? Hãy giải thích và lấy các ví dụ vận

1

dụng thực tế để làm rõ.
Câu 2 (2 điểm). “Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, thước đo khách quan nhất của chân lý là sự tán thành của số
đông”. Nhận định trên đúng hay sai? Hãy giải thích và lấy các ví dụ

4

vận dụng thực tế để làm rõ.
Câu 3 (2 điểm). “Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, lực lượng sản xuất quan trọng hàng đầu của tồn thể nhân loại
chính là người lao động”. Nhận định trên đúng hay sai? Hãy giải



6

thích và lấy các ví dụ vận dụng thực tế để làm rõ.
Câu 4 (4 điểm). Sự lan rộng và diễn biến phức tạp của dịch
bệnh Covid – 19 đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho cả thế giới và
mỗi và mỗi cá nhân. Hãy liên hệ những ý nghĩa phương pháp luận rút
ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
của phép biện chứng duy vật để đưa ra một số góc nhìn của mình về
vấn đề này?

8


ĐỀ SỐ 1
Câu 1 (2 điểm). “Mọi mâu thuẫn đều dẫn đến sự phát triển và mọi sự
phát triển đều có nguồn gốc từ việc giải quyết mâu thuẫn”. Nhận định trên
đúng hay sai? Hãy giải thích và lấy các ví dụ vận dụng thực tế để làm rõ.
Nhận định trên là đúng, luận giải vấn đề này như sau:
Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy
vật là hạt nhân của phép biện chứng duy vật vì nó vạch ra nguồn gốc động lực
của sự vận động phát triển của thế giới khách quan và vì nó là chìa khố là cơ
sở giúp chúng ta nắm vững thực chất của tất cả các quy luật và phạm trù của
phép biện chứng duy vật.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn là mối liên
hệ tác động qua lại giữa các mặt đối lập trong cùng một sự vật.
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính có xu hứơng phát triển ngược
chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng tác động biện chứng với
nhau làm cho sự vật phát triển.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến

Mâu thuẫn là khách quan có nghĩa là mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự
vật hiện tượng. Mâu thuẫn hình thành phát triển là do cấu trúc tự thân bên trong
của sự vật quy định nó khơng phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên
nào và khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến có nghĩa là mâu thuẫn tồn tại trong tất
cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất
hiện cho đến khi kết thúc. Mâu thuẫn tồn tại ở mọi không gian, thời gian, mọi
giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành.
Trong mỗi sự vật khơng phải chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có nhiều mâu
thuẫn vì sự trong cùng một lúc có thể có nhiều mặt đối lập.
Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực
của sự phát triển. Do vậy mà “Mọi mâu thuẫn đều dẫn đến sự phát triển và mọi
sự phát triển đều có nguồn gốc từ việc giải quyết mâu thuẫn”.
1


Đấu tranh của các mặt đối lập gây ra những biến đổi của các mặt đối lập
khi cuộc đấu tranh của các mặt đối lập trỏ lên quyết liệt và có điều kiện chín
muồi thì sự thống nhất của hai cũ bị phá huỷ, các mặt đối lập chuyển hoá lẫn
nhau. Sự chuyển hố của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật cũ bị mất đi, sự vật mới xuất hiện. Các mặt đối lập có thể chuyển
hố lẫn nhau với ba hình thức.
Các mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập
kia và ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật.
Ví dụ, Mâu thuẫn giữa vơ sản và tư sản biểu hiện thành cuộc cách mạng vô sản
lật độ giai cấp tư sản
Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển hố thành mặt đối lập mới. Ví dụ
Giải quyết mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ (chế độ phong kiến) xã hội lại
xuất hiện mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản (Chế độ tư bản chủ
nghĩa). Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau, cải biến lẫn nhau.

Trong sự vật mới lại có mâu thuẫn mới, các mặt đối lập trong mâu thuẫn
mới lại đấu tranh với nhau, làm cho sự vật ấy lại chuyển hoá thành sự vật khác
tiến bộ hơn, cứ như vậy mà các sự vật hiện tượng thường xun biến đổi và phát
triển khơng ngừng, vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của mọi quá trình
vận động phát triển của sự vật hiện tượng.
Ví dụ chứng minh:
Chúng ta đã biết hoạt động chính của ngân hàng là nhận gửi và cho vay
với mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Mối quan hệ mâu thuẫn giữa lợi nhuận và
rủi ro là một mâu thuẫn biện chứng, là hai mặt của một vấn đề. Bất cứ quá trình
sản xuất, kinh doanh nào cũng vậy, lợi nhuận và rủi ro luôn tồn tại song song với
nhau, mâu thuẫn với nhau. Kết thúc một quá trình sản xuất, kinh doanh chúng ta
có thể thu được lợi nhuận nhưng có khi là gặp phải rủi ro. Lợi nhuận dự kiến
mang lại càng cao thì độ rủi ro nếu gặp phải cũng sẽ rất lớn và ngược lại. Nhưng
mục đích của người kinh doanh bao giờ cũng là hướng tới lợi nhuận, và họ tìm
mọi cách để hạn chế được rủi ro như, cải tiến kỹ thuật và phương pháp sản xuất.,
đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý nhanh nhạy và năng động, kịp thời
2


nắm bắt và phân tích những biến động của thị trường, dự báo tình hình thị
trường nhằm hạn chế tối đa rủi ro hoặc nếu có gặp rủi ro thì thiệt hại là rất
nhỏ.... Do đó có thể nói mâu thuẫn giữa lợi nhuận vả rủi ro là một trong những
mâu thuẫn cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và là
động lực để các doanh nghiệp ngày một phát triển về trình độ quản lý doanh
nghiệp.

3


Câu 2 (2 điểm). “Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,

thước đo khách quan nhất của chân lý là sự tán thành của số đông”. Nhận
định trên đúng hay sai? Hãy giải thích và lấy các ví dụ vận dụng thực tế để
làm rõ.
Nhận định trên là sai, thước đo khách quan nhất của chân lý chính là
thực tiễn. Nhờ có thực tiễn, chúng ta phân biệt được chân lý và sai lầm, tức thực
tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Còn sự tán thành của số
đông không thể là thước đo của chân lý, sự tán thành đó có thể là ý muốn chủ
quan, dư luận xã hội, sự sai lẹch về thiên kiến… mà chưa được thực tiễn kiểm
nghiệm nên nó có thể đúng, là chân lý, có thể sai.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập
đối với nhận thức, nó luôn luôn vận động, và phát triển trong lịch sử. Nhờ đó là
mà thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức
suy cho cùng khơng thể vượt ra ngồi sự kiểm tra của thực tiễn. Nó thường
xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của thực tiễn.
Chính thực tiễn có vai trị làm tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri
thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, chỉnh sửa, điều chỉnh,
sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã viết "vấn đề tìm hiểu tư
duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay khơng, hồn tồn
khơng phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà con người phải chứng minh chân lý".
Nhờ có thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh mà ta xác định đâu là cái hợp
quy luật, đâu là cái tri thức đúng, đâu là sai lầm cũng như cái gì nên làm, cái gì
khơng nên làm, đâu là cái khơng hợp với quy luật mà chân lý chính là cái tri
thức đúng, cái hợp quy luật hay là đúng với quy luật.
Thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai
trị quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà cịn là nơi
nhận thức cịn phải ln ln hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
Vì thế mà thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức vừa là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý. Và khi nhấn mạnh điều này thì V.I. Lênin đã viết: "Quan
4



điểm về đời sống và thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận
nhận thức".
Chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn, quan điểm này
yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, độ
sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, việc nghiên cứu
phải liên hệ với thực tiễn tức là "học phải đi đôi với hành". Nếu xa rời thực tiễn
sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu,
khơng xác định được quy luật, không phân biệt được quy luật đó có hợp quy luật
hay khơng có là tri thức đúng (chân lý) hay không nhưng nếu tuyệt đối hóa thì sẽ
rơi vào chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa nên địi hỏi chúng ta phải
có cái nhìn đúng đắn thì mới xác định được quy luật hợp chân lý.
Những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm
nghiệm chính là những tri thức đúng, có đúng thời mới phù hợp được với hiện
thực khách quan cịn tri thức sai, sai lầm thì khơng thể phù hợp với hiện thực
khách quan được.
Ví dụ: Nhà bác học Galile tìm ra định luật về sức cản của khơng khí, hay
trái đất quay quanh mặt trời; Khơng có gì q hơn độc lập tự do… Những ví dụ
trên chứng minh cho thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Bởi chỉ có đem những
tri thức đã thu nhận được qua nhận thức đối chiếu với thực tiễn để kiểm tra,
kiểm nghiệm mới có thể khẳng định được tính đúng đắn.

5


Câu 3 (2 điểm). “Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực
lượng sản xuất quan trọng hàng đầu của tồn thể nhân loại chính là người
lao động”. Nhận định trên đúng hay sai? Hãy giải thích và lấy các ví dụ vận
dụng thực tế để làm rõ.

Nhận định trên là đúng, chính con người chứ khơng phải bắt kỳ cài gì
khác là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất.
Lực lương sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật đựơc sử
dụng trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người cải
tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển của
mình. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định lực lương sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lương sản xuất, “lực lương sản xuất hàng đầu
của toàn thể nhân loại là công nhân là người lao động”. Con người là nhân vật
chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội. nhân tố
con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất và tinh
thần, sáng tạo và hồn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa là chủ
nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vơ giá ấy. Trên phương diện đó vai trị
nhân tố con người lao động trong lực lương sản xuất là yếu tố động nhất sáng
tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người chính là sức
lao động bao gồm thể lực và trí lực. Khơng có người lao động nào trong q
trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao đông thể lực hay lao động cơ bắp.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức
mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động trước hết là công
cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.
Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con
người khơng ngừng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người ngày càng
phát triển. Trong q trình đó khơng những con người sử dụng trí tuệ nội tại của
mình mà cịn được kế thừa những kinh nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những
người lao động cho nên có thể nói kinh nghiệm cũng là một lực lương sản xuất.
6


Kinh nghiệm được tích luỹ dần trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có thể trở
thành tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ.

Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động. Chỉ có
nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được công cụ sản xuất làm cho sản
xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan hệ sản
xuất và các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện đại, xấu hay
tốt, phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói chung và đối
tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vơ tri vơ giác mà thơi. Nó chỉ có ý
nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Muốn vậy tất yếu
người lao động phải tác động vào tư liệu sản xuất để sản sinh ra nó. Như thế q
trình sản xuất vật chất khơng thể thốt ly khỏi lao động của con người. Trong
thời đại mới, nhân tố con người có tri thức ngày càng đóng vai trị quyết định
hơn trong lực lương sản xuất. Có thể khẳng định rằng nhân tố con người đóng
vai trị quyết định q trình lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Ví dụ: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay con người đã tạo ra
những con robot, người máy có những tính năng đặc biệt, thay thế con người
làm được nhiều việc, ngay cả những việc khó. Những cỗ máy trong các nhà
máy, công ty đã sản xuất ra nhiều hàng hóa, gấp hàng ngàn lần con người tự tay
làm. Nhưng tất cả điều đó khơng nói lên vai trị quyết định trong lực lượng sản
xuất. Chính con người mới làm ra các robot, người máy, máy móc đó và chính
con người điều khiển nó.

7


Câu 4 (4 điểm). Sự lan rộng và diễn biến phức tạp của dịch bệnh
Covid – 19 đã và đang đặt ra nhiều thách thức cho cả thế giới và mỗi và mỗi
cá nhân. Hãy liên hệ những ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng
duy vật để đưa ra một số góc nhìn của mình về vấn đề này?
Sự lan rộng và diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid - 19 đã và đang
đặt ra nhiều thách thức cho cả thế giới và mỗi và mỗi cá nhân, từ góc độ

phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến chúng ta thấy:
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, các quốc gia trên thế giới ngày càng
tăng cường hội nhập sâu rộng, toàn diện vào mơi trường thế giới , có mối liên hệ
ngày càng sâu rộng với nhau. Tuy nhiên, bên cạnh các nét tích cực, nhân loại cũng

phải đối phó với những hiểm họa đe dọa đến an ninh mang tính tồn cầu. Trong
đó các mối đe dọa an ninh phi truyền thống có phần ngày càng tác động mạnh
mẽ và lấn át các mối đe dọa an ninh truyền thống và dịch bệnh Covid-19 là minh
chứng rõ nhất cho nhận định này. Dịch Covid-19 như một cơn cuồng phong tác
động sâu sắc và tồn diện đến cục diện thế giới, nó có sức mạnh hủy diệt hơn bất
cứ loại vũ khí quân sự nào, kể cả vũ khí nguyên tử. Đối với Việt Nam, dịch
Covid-19 cũng có ảnh hưởng sâu rộng tới tình hình kinh tế, xã hội đất nước.
Như vậy, dịch Covid-19 bùng phát đã tác động đến tồn cầu, đó là mối liên hệ
phổ biến và giải pháp đưa ra để chấm dứt dịch cũng phải là tât cả các quốc gia
trên thế giới.
Phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cũng chỉ
ra: Khi bùng phát dịch bệnh Đảng và Nhà nước ta đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo
đúng đắn, quyết liệt, kịp thời, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó nổi
bật là tinh thần trách nhiệm, tận tụy, quên mình của cán bộ ngành y tế, lực lượng
quân đội, biên phịng, cơng an, sự cố gắng, chủ động, quyết liệt của cấp ủy,
chính quyền các địa phương (nhất là các đồng chí ở cơ sở xã, thơn, bản, ấp, khu
phố, tại các khu cách ly...). Sự vào cuộc nhanh chóng, kịp thời, thống nhất chỉ
đạo quyết liệt và xuyên suốt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Chính phủ, của
các cấp ủy Đảng với sự nỗ lực triển khai của chính quyền các cấp… là minh
8


chứng khẳng định ý thức trách nhiệm cao của Đảng và Nhà nước ta trong phòng
chống dịch. Đồng thời là cơ sở để chúng ta tin tưởng vào sự thắng lợi của cơng
tác phịng chống dịch ở nước ta hiện nay.

Sự lan rộng và diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid - 19 đã và đang
đặt ra nhiều thách thức cho cả thế giới và mỗi và mỗi cá nhân, từ góc độ
phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về sự phát triển chúng ta thấy: Quá trình
chống Covid-19 tại Việt Nam đã làm thay đổi dần dần về nhận thức của người
dân, lúc đầu là tâm lý chủ quan, ngại tiêm vắc xin, không tuân thủ 5K… nhưng
với những biện pháp đúng đắn, kịp thời của Nhà nước đã làm thay đổi, sự phát
triển về nhận thức của người dân tăng lên. Công tác tư tưởng tạo được sự thống
nhất trong nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân, trong đó có nhận thức đúng đắn về diễn biến, tình hình, tính chất
nguy hiểm và tác hại của đại dịch Covid-19 cũng như những biến chủng mới do
virus SARS-CoV-2 gây ra; tin tưởng, đồng lòng thực hiện chủ trương, quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật, giải pháp chỉ đạo về cơng tác
phịng, chống dịch Covid-19.
Nguyên lý về sự phát triển còn thể hiện trong lĩnh vực y học đã nghiên
cứu thành công nhiều loại thuốc, vắc xin để phòng chống, điều trị. Từ việc chưa
hiểu về Covid-19, con người đã nghiên cứu để nhận biết về nó, cơ chế lan
truyền, và nghiên cứu cách phòng trách. Đây thể hiện nguyên lý về sự phát triển.
Số lượng người Việt Nam tiêm vắc xin ngày càng tăng cũng thể hiện điều này,
lúc đầu số người ngại tiêm, không tiêm rất lớn nhưng bây giờ số lượng này cịn
rất ít, đó là sự phát triển nhận thức về vắc xin Covid-19.

9



×