LUẬN VĂN
Tổng quan về liên
văn bản
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC TRANG
DẪN NHẬP
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5
4. Phương pháp nghiên cứu
6
5. Kết cấu khóa luận
7
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LIÊN VĂN BẢN
8
1.1. Diễn trình của ý thức liên văn bản
8
1.2. Vấn đề liên văn bản
11
1.2.1. Những khái niệm
11
1.2.2. Tinh thần 13
1.2.2.1. Liên văn bản như một hình ảnh thế giới
13
1.2.2.2. Liên văn bản như một yếu tính của văn bản văn học
15
1.2.2.3. Liên văn bản như một phương pháp
16
1.2.3. Tính chất
19
1.2.3.1. Đặc trưng của người viết
19
1.2.3.2. Đặc trưng của người đọc
22
1.2.3.3. Quan niệm về văn bản
24
CHƯƠNG 2: LỜI TIÊN TRI CỦA GIỌT SƯƠNG – NHÌN TỪ ĐỘ RỘNG CỦA VĂN BẢN
28
2.1. Từ cơ chế cảm hứng của tính liên văn bản…
28
2.1.1. Liên văn bản là một ý thức
28
2.1.2. Liên văn bản là một nhu cầu đối thoại
32
2.1.3. Liên văn bản là trò chơi chất liệu
36
2.1.4. Liên văn bản và tâm ý tiếp nhận
39
2.2 đến ý thức sáng tạo nghệ thuật
42
2.2.1. Tính hoạt năng của thể loại cực hạn
42
2.2.2. Kết cấu ý niệm là sự phóng chiếu của ngôn ngữ
48
2.2.3. Thế giới nghệ thuật – vũ trụ của hóa giải
50
2.2.3.1. Không – thời gian là những mô thức
50
2.2.3.2. Chủ thể là những kí hiệu
53
CHƯƠNG 3: LỜI TIÊN TRI CỦA GIỌT SƯƠNG – NHÌN TỪ ĐỘ SÂU CỦA Ý TƯỞNG
56
3.1. Hệ đề tài chính
56
3.1.1. Mộng
56
3.1.1.1. Mộng là soi chiếu
56
3.1.1.2. Mộng như hư vô
58
3.1.2. Tồn
60
3.1.2.1. Cảm thức tra vấn bản nguyên
60
3.1.2.2. Tồn tại và phi tồn tại
62
3.1.3. Chơi
67
3.1.4. Chân
69
3.1.4.1. Sự thật trớ trêu
69
3.1.4.2. Sự tỉnh, ngộ, tự do
71
3.1.5. Giả
74
3.1.5.1. Sự mạo nhận, nhân danh
74
3.1.5.2. Sự tha hóa
77
3.1.5.3. Sự vô minh
79
3.2. Hệ thủ pháp chính
81
3.2.1. Nghịch đảo
81
3.2.2. Ám chỉ
83
3.2.3. Xoáy vặn
84
3.2.4. Cắt dán, nhại
86
3.2.5. Giễu nhại
88
KẾT LUẬN
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
PHỤ LỤC
108
1. 1. Diễn trình của ý thức liên văn bản
Khởi đi từ hoàn cảnh hậu hiện đại, ý niệm về hiện tượng liên văn bản đã
manh nha xuất hiện và ngày càng được khẳng định trong tiến trình văn học
thế giới. Liên văn bản (intertextuality), cùng với phi tâm hóa
(decentralization) là hai từ khóa cốt yếu của khuynh hướng giải cấu trúc
(deconstruction), thuộc dòng chảy mạnh mẽ trong trào lưu hậu hiện đại vào
khoảng sau thế kỷ XX.
Có thể thấy, liên văn bản là phát hiện quan trọng trong tư duy văn học thế kỷ
XX. Nó gần như là một trong các cánh cửa mở ra bước ngoặt diễn giải lớn
của thời đại, khi kiến tạo nên những nhận thức hoàn toàn mới mẻ về việc tồn
tại và vận động của bản chất sự sống và sự thực hành ngôn ngữ. Thực chất,
“ý thức liên văn bản”, “tính liên văn bản” đã tồn tại âm thầm trong đời sống
văn học xưa nay, trước khi được hệ thống hóa khái niệm. Nói cách khác, liên
văn bản như một ý thức sáng tạo (sáng tạo nghệ thuật và sáng tạo đời sống
của con người) đã sẵn có như một thứ mã sinh tồn được cài đặt trong tâm
thức nhân loại. Chủ thể người, theo một số quan niệm của triết học hậu hiện
đại, từ bản chất đã được sinh ra giữa những vấn đề: luôn chịu sự dẫn dụ, chi
phối của bản năng liên đới; luôn tư duy trong trường ngôn ngữ và luôn phóng
mình về phía trước (tương lai) bằng quá trình tự sáng tạo bản ngã. Điều này
phần nào lý giải rằng năng lượng liên văn bản vốn là thực hữu phổ biến khi
con người sáng tác nghệ thuật và hình thành cái tôi, cũng như khi xây dựng
thế giới quan xung quanh. Chẳng hạn, nếu khảo sát chiều dài và độ rộng của
nền văn học nhân loại từ Đông sang Tây tất yếu sẽ bộc lộ các dấu vết liên văn
bản. Chẳng tác phẩm nào mà không có dáng dấp gì từ bóng hình xa xưa của
thần thoại, huyền ngôn, truyền thuyết, cổ tích, của văn học dân gian nói
chung và những ý tưởng lớn của văn học thành văn sau này để lại. Đi sâu hơn
nữa, vì luôn thức nhận trong trường ngôn ngữ, tư duy bằng mã ngôn ngữ và
liên đới lẫn nhau xuyên không-thời gian để kiến trúc nên hệ thống bản ngã cá
nhân, cho nên, chỉ một ý niệm, một đoạn văn, một tưởng tượng được tạo hình
và nghĩ/viết ra cũng âm vang tiếng vọng của hàng lớp ngữ-nghĩa-tư-tưởng
song trùng, tương liên và bổ sung cho nhau để tạo thành một hiện tượng hoàn
chỉnh. Như vậy, ý thức liên văn bản luôn sẵn có trong quá trình sáng tạo nói
chung, hành trình sáng tác nói riêng của nhân loại, và hiển lộ vô số dấu vết
phức hợp, chằng chịt. Điều này sẽ được diễn giải cụ thể ở phần sau của công
trình, bằng sự đúc kết các quan niệm học thuật của những nhà nghiên cứu
chuyên nghiệp. Tuy có bề dày tồn tại, đó vẫn là một hiện tượng chưa được ý
thức, cho đến khi có sự soi chiếu bằng hệ thống khái niệm.
Khởi đi bằng quan niệm “không có cái bên ngoài văn bản” của Jacques
Derrida, với ý tưởng rằng, toàn bộ thế giới là một văn bản lớn được cấu thành
bởi những mạng lưới văn bản bằng chịt, đan dệt, xuyên thấm vào nhau, như
thế, những cột mốc đầu tiên trong quá trình hình thành thuật ngữ đã được xác
lập. Cụ thể hơn, lý thuyết của Derrida xác định rõ, toàn bộ đời sống là chuỗi
quan hệ biểu nghĩa trong kết cấu của những cách vận dụng ngôn ngữ, biểu
tượng và diễn ngôn phức hợp.
Thuật ngữ “liên văn bản” đã lần đầu tiên được đề cập trong công trình Từ, đối
thoại và tiểu thuyết (1967) của Julia Kristeva. Tại đây, J.Kristeva đã đi vào
phân tích tư tưởng của nhà nghiên cứu Mikhail Bakhtin, người vận dụng và
phát triển một cách mới mẻ lý thuyết ngôn ngữ của Ferdinand de Saussure
trong việc tìm hiểu văn học. Theo đó, cùng với sự phát hiện bản chất đối
thoại của ngôn ngữ, Bakhtin đã đề xuất nên một hướng nhìn nhận phổ quát về
việc thực hành ngôn từ, cụ thể là cả trong văn học. J.Kristeva ghi nhận điều
này, đi vào xem xét nó và định danh nên một bản chất của văn bản, vốn là kết
quả của hành động tư duy ngôn ngữ, đó là tính liên văn bản.
Theo Bakhtin, không ngôn ngữ nào lại không gắn liền với một quan niệm,
một ngữ cảnh và một hiện tượng nhất định. Như vậy, ngôn ngữ là thứ luôn
luân chuyển, vận động ở bên trong và bên ngoài sự sống. Khác với các
nghiên cứu của Saussure chú ý vào các quy ước và quy luật trừu tượng của
cái gọi là ngôn ngữ nói chung, tạo nên chiều nghiên cứu đồng đại về ngôn
ngữ, Bakhtin đi vào các quan hệ có tính lịch đại, mà theo ông, luôn chi phối
dòng chảy ngôn ngữ xuyên suốt. Trọng tâm trong hệ thống Saussure là khái
niệm cái biểu đại (signifier), cái được biểu đạt (signified) và quan hệ giữa
chúng quyết định sự vận hành ngôn ngữ, với bản chất là tính khác biệt. Trong
khi đó, Bakhtin nhìn nhận rằng, quan hệ ấy không chỉ một chiều, quy chiếu
lẫn nhau, mà tồn tại vô cùng đa dạng phức tạp dưới sự giao thoa không biên
giới giữa các ý niệm, khuynh hướng, niềm tin vốn đã, đang và sẽ tồn tại. Do
vậy, đặc trưng của ngôn ngữ, chính là tính đối thoại, khi ý nghĩa của nó tùy
thuộc vào những diễn ngôn đã có trước và phương thức tiếp nhận, diễn giải
cách nói ấy sau đó. Chính sự phát hiện tính đối thoại đa thanh trong ngôn ngữ
đã mở ra hướng nghiên cứu về ý thức liên văn bản trong văn học và những
khía cạnh khác nhau của đời sống.
Hai năm sau tiểu luận của J.Kristeva, Roland Barthes, trong bài viết Cái chết
của tác giả, đã khai triển khái niệm liên văn bản một cách hệ thống và đầy
đặn hơn. Theo đó, ông quan niệm, “mọi văn bản đều là liên văn bản đối với
một văn bản khác, nhưng không nên hiểu tính liên văn bản này theo kiểu là
văn bản có một nguồn gốc nào đó; mọi sự tìm kiếm “cội nguồn” và “ảnh
hưởng” là phù hợp với huyền thoại về quan hệ huyết thống của tác phẩm, văn
bản thì lại được tạo nên từ những trích đoạn vô danh, không nắm bắt được
nhưng đồng thời lại đã từng được đọc – những trích đoạn không để trong
ngoặc kép” [109]. Văn bản, theo R.Barthes, không phải là một tổ hợp ngôn
ngữ tự trị, cố định, mà ngược lại, là không gian đa nguyên chứa đựng vô số
các văn bản đến từ vô số các hiểu biết, niềm tin, văn hóa khác nhau. Tất cả
chúng hòa trộn vào trong nhau, gối chồng ý tưởng vào nhau, và không có một
văn bản nào là hoàn toàn độc sáng hay là cội nguồn gốc. Ý nghĩa của văn
bản, không chỉ có từ chính nó, mà còn nằm ở khoảng giao thoa giữa các văn
bản xung quanh.
Tiếp đến, khái niệm liên văn bản, được đi vào thực tiễn nghiên cứu trong lý
thuyết của các nhà hậu cấu trúc luận (post-structuralist) của Pháp như Jacques
Derrida, Jacques Lacan, Michel Foucault, Jean-Francois Lyotard, Gilles
Deleuze, Félix Guattari, v.v, cũng như được các nhà giải cấu trúc luận
(deconstructivist) của Mỹ như Paul de Man, Harold Bloom, Geoffrey
Hartman, Joseph Hillis Miller, v.v, sử dụng phổ biến. Chẳng hạn,
M.Foucault, quan niệm “biên giới của một cuốn sách không bao giờ thực rõ
ràng: vượt ra ngoài nhan đề, dòng chữ đầu tiên và dấu chấm cuối cùng, vượt
ra ngoài cấu trúc nội tại và hình thức mang tính tự trị của nó, nó bị bắt gặp
quả tang là đang hòa lẫn vào một hệ thống quy chiếu đến các cuốn sách khác,
các văn bản khác, các câu văn khác: nó chỉ là cái gút trong một mạng lưới
lớn…” [105]. Trong khi đó, M.Riffattere đặc biệt quan tâm đến quá trình tiếp
nhận của người đọc đối với tác phẩm thơ. Ông vận dụng lý thuyết liên văn
bản trong việc phân tích thơ ca và độc giả sẽ hiểu được thơ ca thông qua một
mạng lưới liên văn bản được xây dựng trong quá trình giáo dục và quá trình
đọc ngôn ngữ. Còn H.Bloom, lại tìm hiểu khái niệm này trong quá trình
nghiên cứu tu từ học và phân tâm học. Theo ông, “bất cứ bài thơ nào cũng là
liên-thi (inter-poem) và bất cứ việc đọc thơ nào cũng là liên-độc (inter-
reading)” [105]. Ngoài ra, G.Genette, đã mở rộng khái niệm liên văn bản
thành xuyên văn bản (transtextuality) với các khái niệm nhỏ đính kèm: liên
văn bản, bàng văn bản (paratextuality), siêu văn bản (metatextuality), cực
đại văn bản (hypertextuality) và kiến trúc văn bản (architextuality).
1.2. Vấn đề liên văn bản
1.2.1. Những khái niệm
Trước hết, cần làm rõ khái niệm chủ chốt của vấn đề nghiên cứu, đó là liên
văn bản. Theo Oxford Dictionary Terms, liên văn bản là “thuật ngữ do Julia
Kristeva đặt ra để chỉ những mối quan hệ khác nhau có thể có của một văn
bản cho trước với những văn bản khác. Những quan hệ có tính chất liên văn
bản này bao gồm sự nghịch đảo (anagram), sự ám chỉ (allusion), sự phỏng
thuật (adaptation), sự dịch thuật (translation), sự biếm phỏng (parody), sự cắt
dán (pastiche), sự mô phỏng (imitation) và những kiểu biến đổi khác. Trong
lý thuyết văn học của chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hậu cấu trúc, các văn
bản được nhìn ở góc độ quy chiếu đến các văn bản khác (hay với bản thân
chúng xét như là văn bản) hơn là với một thực tại bên ngoài. Thuật ngữ liên
văn bản được dùng tùy từng trường hợp cho: một văn bản sử dụng các văn
bản khác, một văn bản được sử dụng bởi một văn bản khác, và cho mối quan
hệ giữa hai văn bản này” [123].
Với nội hàm khái niệm trên, J.Kristeva là người đóng vai trò tiên phong trong
việc xây dựng hệ thống ý niệm và lý giải những phạm trù liên quan. Bà quy
chiếu văn bản vào một biểu đồ gồm hai trục: trục ngang (horizontal axis),
biểu đạt sự liên kết giữa tác giả và độc giả; trục dọc (vertical axis), thể hiện
mối tương liên giữa văn bản này với các văn bản khác. Theo đó, khi quy
chiếu đồng thời hai trục lên một văn bản nhất định, người đọc sẽ phát hiện
một quy luật tất yếu, đó là: “mọi văn bản ngay từ khi bắt đầu đã chịu ảnh
hưởng và nằm trong phạm vi tác động của những giải trình ngôn ngữ khác
nhau, mà mỗi lần giải trình ngôn ngữ như thế, luôn luôn chịu sự chi phối bởi
một vũ trụ gồm nhiều văn bản khác” [91]. Không văn bản nào thực sự độc
lập, mà luôn nằm trong vùng ảnh hưởng của các văn bản văn hóa (cultural
text), với các ý thức hệ, niềm tin và khái niệm tan loãng vào nhau. Văn bản
nào, cũng là hoặc nằm trong giao điểm với những đường dây văn bản đã
được đọc. Từ đấy, hình thành khái niệm giao điểm (intersection), phân biệt
với điểm (point), ở chỗ, giao điểm thì không cố định, luôn vận động và di
chuyển xung quanh những trục hồi ứng khác nhau theo từng biến đổi xung
quanh. Giao điểm đó, là những gút thắt kết nối đường dây văn bản, là văn bản
trong sự tái cấu trúc, tái sáng tạo các mảnh vụn diễn ngôn, khuôn mẫu nhịp
điệu và quy ước nghệ thuật có thể hữu danh hoặc hoàn toàn vô danh trong
dòng chảy thời gian.
Ngoài ra, cần phải kể đến khái niệm mosaics of citations của Roland Barthes,
được chuyển ngữ tương đối là “bức tranh khảm kết đính các trích dẫn”. Đây
là một trong số các hình dung chủ chốt của R.Barthes về văn bản: “bất cứ văn
bản nào cũng được tạo nên như một bức tranh khảm chứa đựng cả một thiên
hà các trích dẫn, bất cứ văn bản nào cũng mang dấu vết của sự hấp thụ và
chuyển thể từ các văn bản khác” [103].
Bên cạnh đó, J.Kristeva còn nhắc đến tính năng sản (productivity) của văn
bản như một đặc trưng cốt yếu. Văn bản không phải là một vũ trụ ngôn ngữ
đứng yên, hoàn tất, mà luôn vận động không ngừng trong việc chuyển tiếp,
va chạm giữa các giao điểm, luôn bổ sung những mảnh vụn ngữ nghĩa mới,
những cách thông diễn mới, tức là luôn sản xuất những năng lượng mới, cả
cho ý niệm của nó và cho lối đọc.
Một khái niệm phổ biến khác trong nghiên cứu liên văn bản là cái ở giữa (the
between-ness). Trong văn bản luôn có một khoảng không ở giữa, luôn trống
trải và đòi hỏi sự bổ sung về ý tưởng liên tục từ trường liên tưởng rộng lớn
của mạng lưới văn bản xung quanh. Cũng như thế, ý nghĩa thực sự của văn
bản, là đa diện, đa nguyên và không bao giờ chỉ nằm gọn trong hiện thể của
nó, mà nằm giữa tại nơi giao cắt của các đầu mối văn bản với nhau.
1.2.2. Tinh thần
Liên văn bản là một trong những khái niệm có nội hàm và ngoại diên linh
hoạt nhất trong hệ thống lý thuyết văn học, và việc xác lập yếu tính của nó
tùy thuộc vào phương diện nghiên cứu mong muốn và lập trường triết học
của người tiếp cận.
1.2.2.1. Liên văn bản như một hình ảnh thế giới
Quay lại với quan niệm của J.Derrida: không có cái “bên ngoài văn bản”, tức
là, mọi hiện tượng trong đời sống đều là những văn bản nhỏ kết cấu nên toàn
bộ thế giới như một văn bản rộng lớn. Gọi là văn bản, bởi vì, không thể có
một nhãn quan hay diễn giải chung cuộc, cố định khi phóng chiếu lên chân
diện thế giới. Sự nhận thức về vạn vật trong đời sống là tùy thuộc vào diễn
ngôn văn hóa, tư thế triết học và mục đích luận mà chủ thể tựa vào. Như vậy,
diện mạo thế giới luôn là một quá trình dang dở, đang tự hoàn thiện mình
nhưng vĩnh viễn không thể hoàn tác bằng hàng loạt sự bổ sung vô hạn từ phía
người tư duy, người trải nghiệm. Hơn nữa, bản thân nhân loại, như đã đề cập,
là giống loài tồn tại trong trường ngôn ngữ, nhận thức bằng quy ước khái
niệm, do đó, thế giới, nói cho cùng, luôn là một tập hợp các kí hiệu đa nghĩa.
Như thế, đặc trưng văn bản và tính kí hiệu của cấu trúc ý niệm về thế giới,
khi liên kết với nhau sẽ cấu tạo nên yếu tính liên văn bản, chi phối hoàn toàn
sự vận hành đời sống. Nói rõ hơn, một mạng lưới các kí hiệu, mẫu gốc, các
diễn ngôn văn hóa, quy ước ngữ nghĩa đã viết nên những những văn bản
riêng biệt, để rồi chúng va chạm, vỡ vụn, tan loãng trong nhau, chồng xếp lên
nhau tạo thành một tổng thể chung của hình ảnh thế giới. Có thể hình dung
thế giới như một thư viện vĩ đại chứa đựng vô số quyển sách, mỗi quyển sách
là một văn bản, mỗi văn bản lại tựa trên các chữ cái, các quy tắc hành ngôn,
các diễn ngôn văn hóa, chính trị, xã hội, cứ thế, mọi thứ tạo nên một vòng
xoắn ốc đan bện vào nhau, và tất cả, vừa là đa thể, vừa là nhất thể.
Liên văn bản, không gì khác, là liên ngôn ngữ, liên bản ngã, liên đới ý thức.
Tất cả trong số đó đều vừa là bản năng, vừa là dạng thức tồn tại và phát triển
của con người, khi mà, đa phần các kinh nghiệm sống làm nền tảng cho cuộc
đời nhân loại, đều là kết quả của sự truyền thụ, giáo dục, quan sát, nhận thức
từ việc học hỏi và mô phỏng cộng đồng xung quanh.
Hơn nữa, theo nhãn quan của chủ nghĩa hậu hiện đại, thì tinh thần liên văn
bản còn lan tỏa sâu rộng trong mọi ngóc ngách của việc thực hành nghệ thuật
và thậm chí mọi lĩnh vực thực hành diễn ngôn khác: tôn giáo, sử học, xã hội
học, tâm lý học, chính trị học, v.v. Điều này có thể lý giải bằng sự gắn kết
chặt chẽ giữa những biểu tượng, kí hiệu, những sự trích dẫn, viết lại, so sánh,
giễu nhại, thông dịch lẫn nhau, v.v, trong trường ngôn ngữ vô tận – chất liệu
cấu tạo nên những văn bản nghệ thuật và tri thức đó.
Cái nhìn liên văn bản tạo nên một diện mạo thế giới vô sai biệt với trùng
trùng lớp lớp những tương liên, gắn kết chặt chẽ, những ý nghĩa bung nở sản
sinh liên hồi các văn bản mới. Trong đó, mọi phương diện nhận thức, như
những ô màu của khối vuông rubic, đều thông qua nhau để nhận diện chính
mình, và trong sự phối kết đa chiều với nhau lại tạo nên những diễn giải mới
mẻ.
1.2.2.2. Liên văn bản như một yếu tính của văn bản văn học
“Bất kỳ văn bản nào cũng là liên văn bản” (R.Barthes). Đúc kết của
R.Barthes, phần nào, đã ghi nhận tính chất liên văn bản như một đặc trưng
phổ quát của mọi văn bản văn học. Mọi văn bản đều có tính liên văn bản, đều
có những dấu vết của văn bản này và trở thành chất liệu cho văn bản khác.
Theo đó, trong quan hệ giữa một số văn bản nhất định với nhau, khái niệm
liên văn bản có thể dùng để chỉ các văn bản gốc, rồi cả các văn bản được sinh
ra, và mối tương liên giữa hai loại yếu tố ấy.
Như vậy, vấn đề đặt ra là, sự tồn tại của một văn bản luôn lệ thuộc vào những
yếu tố khác bên ngoài bản thể nó, những mảnh vụn nhận thức trong bức tranh
khảm đa sắc của nhận thức, trí tuệ và cảm thụ, những dấu vết đã được đọc,
được ghi nhận và vận dụng xuyên không gian, thời gian. Về vấn đề này,
Terry Eagleton kết luận: “Một văn bản nổi tiếng thường gắn liền với một lịch
sử của những hành động đọc. Vì vậy, mọi công trình văn học đều là sản phẩm
của sự viết lại, ngay cả khi không ý thức, các văn bản ấy cũng được viết lại
bởi những nền văn hóa của các xã hội đã đọc chúng” [103]. Cụ thể hơn, trong
nội hàm một văn bản luôn chứa đựng một tiến trình lịch sử, một câu chuyện
của sự hình thành nên chính nó. Điều đặc biệt là, câu chuyện khai sinh ấy,
không chỉ phụ thuộc vào chủ thể viết nên nó, mà đong đầy tiếng vọng của
những chủ thể ẩn tàng, hữu danh hoặc vô danh, đã xuyên thấm vào tâm lý
sáng tạo của tác giả, đã cô đọng trong vỉa tầng ngôn ngữ, khái niệm được sử
dụng, đã bồi đắp cho bất kỳ văn cảnh nào mà nó được hướng tới, được đọc
ra.
Về tính chất này, M.Foucault ghi nhận: “Cuốn sách chỉ là một điểm nối kết
nhỏ bé trong một mạng lưới vô cùng rộng lớn…Cuốn sách không phải là một
vật thể độc lập mà người ta có cầm nắm một cách tách biệt trên tay mình, tính
chỉnh thể thống nhất của nó rất mong manh, dễ thay đổi và hết sức tương đối”
[103]. Quả thật, cùng với sự ý thức hiện tượng liên văn bản, thì quan niệm về
văn bản cũng có những biến đổi sâu sắc. Văn bản, không còn được xem như
một chỉnh thể hoàn thiện, với ý nghĩa do người viết toàn quyền định đoạt, mà
trở thành một quá trình luôn dang dở, luôn đòi hỏi sự bổ sung, trong đó ngữ
nghĩa vận động không ngừng nghỉ mà thực chất còn vượt ngoài vòng đoán
định tương đối của tác giả. Sự bổ sung ấy, là việc liên đới của các trường ngữ
nghĩa do người tiếp nhận lập nên, với mạng lưới thông diễn rộng lớn của
mình.
Do thế, trong nội hàm của một văn bản nhất định luôn chất chứa hàng loạt
các văn bản ngầm (sub-texts) thường trực tra vấn, xoáy vặn, va chạm và tái
sinh lẫn nhau. Hành động tạo lập văn bản, không gì khác, là tham gia vào trò
chơi ngôn ngữ, trò chơi “viết lại” một cách sáng tạo.
1.2.2.3. Liên văn bản như một phương pháp
Ngoài những phạm vi rộng về khái niệm, liên văn bản còn được hiểu phổ
biến dưới ngữ nghĩa hẹp hơn, đó là một loại phương pháp viết và đọc, nói
cách khác, là sáng tạo và phê bình.
Thực chất, sáng tác dưới ý thức liên văn bản, như đã đề cập, vốn tồn tại từ xa
xưa và để lại dấu vết ít nhiều lên diện mạo của mọi tác phẩm văn học. Đối
với trường hợp này, sự phát hiện những dấu vết của ý niệm, những hòa điệu
của các diễn ngôn, trích dẫn, các tổ hợp kí hiệu hiển lộ lên hàng loạt các tác
phẩm là minh chứng xác đáng cho tính lâu dài của nó. Tuy nhiên, đó là một
sự tự phát về ý thức, nói rõ hơn, là người viết, từ lâu, đã vô thức sử dụng bản
năng liên tưởng, nối kết, thực hành ngôn ngữ trong mình, đã luôn tư duy
trong tính chất liên văn bản của chính văn bản, cho nên hiện tượng này vốn là
mạch ngầm chảy xuyên suốt dưới các vỉa tầng ngôn ngữ văn chương.
Cho đến khi định danh khái niệm, thì việc sáng tác dưới một dạng phương
pháp mang tên “liên văn bản” mới được hệ thống rõ ràng. Tại đây, ý thức về
tính giao điểm, tính mạng lưới, tính nhập nhòa của các mặt phẳng văn bản
cùng hiệu ứng nhận thức khi vận dụng các đặc trưng đó đã bồi đắp nên một
lối viết thực sự chạm đến phong cách liên văn bản đặc trưng.
Theo đó, một số hình thức thực hành kĩ thuật liên văn bản bao gồm: phóng
tác/chuyển thể (adaptation); dịch thuật (translation); mô phỏng (imitation);
điển cố, điển tích; giễu nhại (parody); nhại, cắt dán (pastiche, collage);
nghịch đảo (anagram); ám chỉ (allusion); xoáy vặn (twisting). Có thể thấy, lối
viết liên văn bản chứa đựng trong nó đậm đặc tinh thần sáng tác hậu hiện đại.
Ở đây, hai yếu tố chính yếu trong số các kĩ thuật trên: giễu nhại (parody) và
cắt dán (collage), vốn là sự hòa điệu giữa tinh thần tự phản tỉnh, luôn tra vấn
và khí chất trào tiếu, phỏng nhại, được hiện diện phổ biến nhất trong sắc thái
tư tưởng và phương thức sáng tạo của các tác phẩm liên văn bản đương đại.
Tinh thần liên văn bản kéo theo hiện tượng xóa nhòa mọi biên giới của các
phạm trù văn học, từ văn bản này đến văn bản khác, thể loại này đến thể loại
khác, và phân tách hoàn toàn cả cấu trúc của tác phẩm. Từ đấy, văn chương
nói chung, văn học nói riêng, đều cần được nhìn nhận như một hiện thể phi
trung tâm, với sự đa trị và đa diện trên mọi khía cạnh thông diễn. Lối viết liên
văn bản, nói chung, là sự giao thoa giữa hai khuynh hướng tự phát và tự giác
trên, trong trạng thái mờ nhòa của mọi ranh giới liên quan.
Mặt khác, liên văn bản còn là ý tưởng về một trạng thái đọc và một phương
pháp đọc. Theo quan niệm này, độc giả, trong quá trình tiếp cận với văn bản,
luôn hữu thức và vô thức chịu sự chi phối sâu xa của mạng lưới liên văn bản.
Nói cách khác, khi dấn thân vào trạng thái tiếp nhận, diễn giải, độc giả cũng
đang đồng thời tuân theo quy luật liên văn bản trong mọi tác phẩm. Khía
cạnh này cũng bao gồm hai phương diện tự phát và tự giác. Trước hết, ý thức
liên văn bản vĩnh viễn là bản chất của sự đọc. Khi muốn tham gia vào quá
trình tìm hiểu văn bản, độc giả, không gì hơn, là phải trang bị cho mình mã
ngôn ngữ và vốn từ vựng. Như một điều kiện cần của trò chơi, người chơi
cần có bảng kí hiệu để hiểu luật, và hiểu nội dung bước đầu mà trò chơi
hướng tới. Do vậy, trong mã ngôn từ đó đã bao hàm một lượng tri thức, một
không gian văn hóa, một phông nền hiểu biết và các quy ước thông diễn nhất
định, và người đọc, luôn tư duy trong trường liên tưởng phức hợp và phong
phú đó. Khi các chìa khóa văn hóa ấy tiếp cận với hệ thống biểu tượng đa
thanh của tác phẩm, quá trình đối thoại ngầm tất yếu sẽ diễn ra. Độc giả,
trong tâm lý tiếp nhận, sẽ hình thành hàng loạt các lựa chọn ngữ nghĩa để
ướm vào kí hiệu trong văn bản, để từ các nhận thức sẵn có mà nhận diện và
tạo hình nên dáng vóc của tác phẩm theo đặc trưng nhận thức của bản thân
mình.
Bên cạnh đó, liên văn bản còn là một phương pháp đọc phổ biến trong thời
kỳ hậu hiện đại, một khi đã được ý thức sâu sắc. Người đọc, với tinh thần bổ
sung, luôn tự biết đặt mình trong vai trò chủ thể đồng sáng tạo vào tiến trình
dang dở của tác phẩm, để bổ sung không ngừng nghỉ văn cảnh, nền tảng, diễn
ngôn, ý nghĩa vào khoảng trống của các văn bản và giữa các văn bản. Đấy là
lối đọc mở của tinh thần khai phá. Tuy nhiên, sự khai phá này không phải là
cuộc dấn thân vào thế giới tự trị của tác phẩm để tìm kiếm toàn vẹn những
hàm nghĩa mà tác giả cài đặt, mà là sự tham gia vào những nhân tố cả bên
trong và bên ngoài tác phẩm, để xem xét năng lượng tạo nghĩa và tự xâu
chuỗi tiến trình tạo nghĩa dồi dào của văn bản. Đọc, như vậy, có thể xem là
một hiện tượng lấp đầy khoảng trống, khi nó liên tục sản sinh ra những diễn
giải, những diện mạo, những chân tướng mới, nói cách khác, là những văn
bản mới từ chính một tác phẩm cố định.
Ở một cấp độ hẹp hơn, thì liên văn bản còn là phương pháp nghiên cứu phổ
biến đối với các nhà phê bình hậu hiện đại. Phê bình liên văn bản, là khuynh
hướng kiếm tìm những tín hiệu liên đới, tương quan, ẩn chìm trong văn bản
để xác lập một nền tảng tri thức và lịch sử tương đối, một văn cảnh, ngữ
cảnh, một hoàn cảnh triết học và văn hóa xã hội nhất định, để từ đó mở ra vô
số các cách thông diễn khác nhau. Đấy gần như là quá trình tham gia trò chơi
“domino ngôn ngữ”. Tức là, một khi trạng thái liên tưởng, đối chứng, phản
biện đã diễn ra trong tâm lý đọc văn bản, đã khơi được một mạch ngầm kí
hiệu, thì cứ thế, những mạng lưới sẽ hình thành, đan kết chằng chịt với nhau
và mọi yếu tố liên văn bản, cứ thế, va chạm liên tiếp lẫn nhau.
Theo Nguyễn Minh Quân, khuynh hướng phê bình liên văn bản trong hoàn
cảnh hậu hiện đại có bốn giai đoạn: phân tích, kết hợp, tái tạo và diễn dịch
[103]. Như vậy, cái đọc đối với nhà phê bình là việc tái sáng tạo dựa trên một
nền tảng văn bản nghiên cứu và phông nền của các văn bản liên quan. Nhà
phê bình, trong quá trình phân tích, cũng sẽ được chính luồng ngôn ngữ tự
do, tự trị trong mạng lưới liên văn bản vừa được tái tạo kia viết lại những
khám phá của mình.
Muốn vậy, người đọc nói chung, và người phê bình nói riêng, trong thời kỳ
hậu hiện đại, ngoài bản năng liên đới ngôn ngữ vốn có, còn phải vận dụng
sâu sắc phông văn hóa và khả năng liên tưởng rộng lớn, và không ngừng bồi
đắp nền tảng hiểu biết đó cho chính bản thân.
1.2.3. Tính chất
1.2.3.1. Đặc trưng của người viết
Người viết, hay còn gọi là tác giả (author) vốn được xem là cha đẻ của văn
bản văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “nhìn bề ngoài, tác giả là
những người làm ra văn bản ngôn từ: bài thơ, bài văn, bài báo, tác phẩm văn
học. Về thực chất, tác giả là người làm ra cái mới, người sáng tạo ra các giá
trị văn học mới” [16;289]. Đây là cách định nghĩa phổ biến của văn học hiện
đại. Nói cho cùng, tác giả vẫn luôn là chủ thể trực tiếp tạo tác nên hữu thể tác
phẩm, như một tập hợp kí hiệu ngôn ngữ, và đó là quá trình sáng tạo riêng
biệt. Tuy nhiên, dưới sự soi chiếu của nhãn quan hậu hiện đại, trong tâm thế
liên văn bản thường trực, thì sự nhìn nhận về tác giả, hay người viết, cũng
bao trùm những sắc thái mới. Theo R.Barthes, cũng có thể xem người viết
như một kẻ truyền đạt (adresser) và người đọc là kẻ thụ nhận (receiver), vai
trò của hai chủ thể trên là song song và không thể thay thế trong quá trình
hình thành ý nghĩa văn bản (meaning of the text).
Như vậy, người viết, ở giai đoạn này, chỉ còn là một trong số các nhân tố tạo
nghĩa của văn bản, chứ không còn giữ vị thế độc tôn, toàn quyền tự trị. Trong
trạng thái mọi văn bản đều là sự viết lại, tái tạo lại những văn bản và ý niệm
đã có, không có sự độc sáng, nguồn cội hay mới mẻ, một số nhà nghiên cứu
còn đề xuất thay thế khái niệm tác giả bằng khái niệm người ghi (R.Barthes)
hoặc người thủ thư (J.Faules, H.L.Borges) mà quyền hành sáng tạo nằm ở
khả năng hòa trộn các lối viết khác nhau. Tác giả, được xem như nắm trong
tay một vũ trụ vô tận của các văn bản, các quy ước ngữ nghĩa, các diễn ngôn
văn hóa, các kí hiệu triết học, như người thủ thư của một thư viện lớn lao, và
việc sáng tác chính là sự thực hành đan dệt từ các chất liệu đó.
Điều này gắn liền với thuyết “cái chết của tác giả” (the death of author), một
trong những bước ngoặt tư tưởng quan trọng mà R.Barthes đã khai triển.
Trong sự xâm lấn của trào lưu và nhận thức luận hậu hiện đại, tác giả đã hoàn
toàn mất đi vai trò toàn trị của mình trong việc ấn định ý nghĩa cho văn bản.
Điều này phản biện lại niềm tin rằng chỉ cần khai thác được hàm ý cụ thể của
tác giả khi sáng tạo tác phẩm là việc phân tích sẽ hoàn thiện. Cụ thể hơn,
chính văn bản được trao trả lại nội lực vận động. Bản thân nó tuân theo
những quy luật tự trị và người viết cũng chỉ là một phần trong quá trình
chuyển dịch ngữ nghĩa liên tục. Hơn nữa, chính sự giao cắt không ngừng giữa
các ranh giới và mạng lưới văn bản đã khiến nảy sinh vô số những bóng dáng
tư tưởng của hàng loạt các tác giả khác nhau trong một văn bản, tức là, không
thực sự tồn tại một tác giả cố định, với một bản ngã và phong cách nguyên
chất.
Bối cảnh đó làm nảy sinh quá trình từ bỏ định hướng tối cao của văn học vào
tính độc sáng và tính mới mẻ, vì nói cho cùng, mỗi văn bản, có thể được xem
như các palimpsest, tức là dạng thức cái mới viết chồng lên cái cũ. Các yếu tố
gắn liền với chủ nghĩa cá nhân như tính khởi thủy (originaltity), tính sáng tạo
(creativity), khả năng diễn đạt (expressibility), nguồn gốc tác giả (authorship)
hay sự đạo văn (plagiarism) cũng dần bị mờ nhòe, trở thành những phạm trù
nhập nhằng và không ngừng đan xen lấy nhau. Sự minh định những hiện
tượng cụ thể giữa chúng đã bị chi phối sâu sắc bởi sự tan loãng và tổng hòa
của hằng hà sa số các đính khảm kết dính lấy nhau chặt chẽ. Ở vị thế này, tác
giả cũng đồng thời bộc lộ tính chức năng của mình đối với văn bản: là người
xâu chuỗi, người kết nối, người viết lại.
Điều này gắn liền với quan niệm của John Lye trong công trình Lý thuyết văn
chương đương đại, khi cho rằng, tác giả, trong quá trình viết, luôn chịu sự tác
động của bốn loại văn cảnh. Đầu tiên, đó là văn cảnh thẩm mỹ, vốn là những
văn cảnh nghệ thuật nói chung, với các phương tiện sáng tạo văn bản, truyền
thống mỹ cảm và phong cách thời đại mà tác giả đã kế thừa hay lựa chọn.
Tiếp theo là những điều kiện văn hóa và kinh tế xã hội của việc tạo lập và
tiếp nhận văn bản đó. Thứ ba là các bối cảnh gắn với lịch sử cá nhân, sự diễn
giải và ý nghĩa của nó đối với người viết như một cá nhân lẫn một chủ thể
sáng tạo. Cuối cùng, cũng quan trọng nhất, là sự ảnh hưởng của những nền
văn hóa phụ, giai cấp, chủng tộc, phái tính, khu vực, tạo nên một hệ thống
thái độ, nhận thức, nhãn quan và biểu tượng riêng. Hơn nữa, bốn lại văn cảnh
đó không vận hành tách biệt mà luôn đan xen nhau trong hành trình sống
cũng như sáng tác của người viết, và không phải toàn bộ chúng đều được
nhận thức tường minh, mà một số chỉ hiển lộ qua những dấu vết hàm ẩn, mơ
hồ, đa nghĩa. Do đó, mọi ý tưởng ban đầu của nhà văn, khi lọc qua lớp màng
chằng chịt của các văn cảnh và văn bản, khi thực sự bước vào tiến trình tạo
nghĩa của nó, đều phần nào lệch hướng và được cung cấp những cấu trúc
hoàn toàn mới lạ, tự do.
Theo R.Barthes: “chính ngôn ngữ là chủ thể hành ngôn, không phải tác giả;
viết là một hành động mà tại đó chỉ có ngôn ngữ hoạt tác, “biểu diễn” và
không còn có “tôi”…” [35;143]. Chính ngôn ngữ đã viết nên phong cách và
diễn ngôn cho tác giả trong mỗi không gian văn bản nhất định. Thực hành
ngôn ngữ là động thái tự viết lại các trường liên đới, tự để dòng chảy tự do
của các quy ước, kí hiệu, văn cảnh vận hành chính tiến trình sáng tạo của
mình.
Ý tưởng này được Claude Lévi-Strauss triển khai và mở rộng, với quan niệm
cho rằng, viết là trò chơi ngôn ngữ và người viết là người chơi, người vừa
tuân thủ, vừa tái sáng tạo luật trong ma trận các văn bản đã được đọc. Trên
hành trình đó, ngôn ngữ đã vượt qua ý chí cá nhân của người viết để trở
thành nhân tố tự tại, khi cái biểu đạt cũng trộn lẫn với cái được biểu đạt,
không còn ranh giới nhị nguyên.
Cho nên, trong quá trình lựa chọn những kết hợp của trục biểu đạt, các ý
tưởng ban đầu của tác giả không ngừng bị xoáy vặn, tra vấn, phóng chiếu và
cứ thế bội sinh lên những ngữ nghĩa khó lường. Người viết không thể dự
đoán hay kiểm soát trường liên tưởng tồn tại trong văn bản do chính mình
xâu chuỗi, và như thế, người viết, đã được chính ngôn ngữ viết lại chủ ý sáng
tạo.
1.2.3.2. Đặc trưng của người đọc
Người đọc, người tiếp nhận (reader, receiver) là một trong những nhân tố chủ
đạo của quá trình diễn giải văn học. Người đọc, theo Từ điển thuật ngữ văn
học, là “cá nhân thông qua hành vi đọc mà tham gia vào đời sống xã hội.