I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến.
Miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung
những đặc điểm, tính chất nổi bật của sự vật, sự việc, con người, phong cảnh,…
làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. Trong văn
miêu tả, năng lực quan sát của người viết, người nói thường được bộc lộ rõ nhất.
Do vậy miêu tả là một kiểu bài khó vì học sinh khơng có khả năng quan sát kĩ và
tinh tế, học sinh chỉ có thể gặp một lần hoặc xem trên truyền hình, qua hình
ảnh... nên các em khơng cảm nhận được vẻ đẹp của đối tượng hay những hoạt
động thường ngày của chúng, khơng biết dựa vào cảm xúc của mình để làm cho
đối được được tả trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn.
Qua thực tế giảng dạy tại lớp 4B trường Tiểu học Tân Văn, xã Tân Văn,
huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân
mơn khó nhất trong các phân mơn của mơn Tiếng Việt, nó khơng chỉ giúp cho
học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học sinh
khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt hình thành cho học
sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người. Dạy Tập làm văn là bồi dưỡng tâm
hồn các em lớn lên từng ngày, dạy các em cách nhìn cuộc sống xung quanh
trong thực tế với cảm xúc thực của các em.
Vì vậy, làm thế nào để học sinh làm văn hay và có hiệu quả thì lại là một
vấn đề cịn gặp nhiều khó khăn với các trường Tiểu học nói chung và trường
Tiểu học Tân Văn nói riêng. Chính điều này đã thúc đẩy tơi tìm ra các biện pháp
để “Hướng dẫn lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả cho học sinh lớp 4B trường
Tiểu học Tân Văn”. Tôi mong rằng sáng kiến nghiên cứu của tôi sẽ giúp cho các
đồng nghiệp khác thực hiện tốt nhiệm vụ của mình để cơng tác giáo dục ngày
càng đạt được hiệu quả cao hơn.
2. Mục tiêu của sáng kiến.
- Giúp học sinh nắm được tầm quan trọng của phân mơn Tập làm văn của
mơn Tiếng Việt từ đó tìm ra được cách quan sát, tìm ý cũng như lập dàn ý chi
tiết để viết thành đoạn văn, bài văn miêu tả hay và sinh động. Qua đây giúp các
em thấy được cái hay, cái đẹp của phân môn tập làm văn để các em u thích
phân mơn hơn.
- Giúp học sinh hiểu rõ hơn bản chất của văn miêu tả, biết phân tích đề bài
và lựa chọn các chi tiết để miêu tả một cách dễ dàng hơn và đã biết áp dụng để
làm được bài văn hoàn chỉnh tránh được lý lẽ dài dịng khó hiểu. Đồng thời các
em yêu thích học Tiếng Việt.
2
2
- Đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình
học tập, giáo viên quan tâm đến khả năng học tập của từng học sinh, đặc biệt
những học sinh có khó khăn về học tập, học sinh có năng khiếu mơn học.
- Tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng
sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ
thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ.
- Có kinh nghiệm trong dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
3. Phạm vi của sáng kiến:
- Đối tượng nghiên cứu: Thể loại văn miêu tả cho học sinh lớp 4. Một số
kinh nghiệm rèn viết đoạn văn miêu tả.
- Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 4B trường Tiểu học Tân Văn.
- Thời gian áp dụng sáng kiến: Tháng 9 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lí luận.
Văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung
những đặc điểm, tính chất nổi bật của sự vật, sự việc, con người, phong cảnh,…
làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. Trong văn
miêu tả, năng lực quan sát của người viết, người nói thường được bộc lộ rõ nhất.
Văn miêu tả là loại văn mang tính thơng báo thẩm mĩ. Đó là sự miêu tả thể hiện
được cái mới mẻ, cái riêng trong cách quan sát, cách cảm nhận của người viết.
Trong văn miêu tả, cái mới, cái riêng phải gắn với cái chân thật. Ngơn ngữ
trong văn miêu tả giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, âm thanh. Muốn
miêu tả được, trước hết người ta phải biết quan sát, rồi từ đó nhận xét, liên
tưởng, tưởng tượng, ví von, so sánh,… để làm nổi bật lên những đặc điểm tiêu
biểu của sự vật.
Đối tượng của văn miêu tả là những con vật, cây cối, đồ vật...quen thuộc
xung quanh chúng ta. Khi viết đoạn văn miêu tả cần tập trung vào những nét
riêng, hoạt động tiêu biểu của đối tượng đó. Để bài văn được sinh động và hấp
dẫn hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó những hình ảnh so sánh, nhân hóa
với những cung bậc cảm xúc khác nhau.
Ngơn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét
riêng biệt. Chính vì thế để có bài văn hay địi hỏi người viết phải có hiểu biết về
2
3
3
phương pháp làm văn, phải biết quan sát, tìm ý, lập dàn ý, dùng từ ngữ, biết vận
dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật tu từ được học để viết đoạn văn.
2. Cơ sở thực tiễn.
Trong thực tế giảng dạy, tôi thấy nhiều học sinh chưa biết cách làm một
bài văn miêu tả từ việc tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý đến viết thành thạo một bài
văn hoàn chỉnh. Trong khi làm một bài văn miêu tả các em mới chỉ là kể lể và
liệt kê chứ chưa biết cách tái hiện lại đối tượng cần tả theo yêu cầu của đề bài.
Đặc biệt là phần lớn các em chưa biết cách lập dàn ý cho một bài văn miêu tả,
các em nghĩ đến đâu, nghĩ đến cái gì là các em miêu tả đến đó mà khơng theo
trình tự nào cả. Bài viết của các em thường thiếu hình ảnh, câu văn viết khơng rõ
ràng, diễn đạt lủng củng...Chính vì thế mà điểm bài văn miêu tả của các em
thường khơng cao.
Chính vì một số ngun nhân trên tôi đã khảo sát chất lượng đầu năm của
học sinh lớp 4B trường Tiểu học Tân Văn năm học 2021- 2022 để làm kiểm
chứng thực nghiệm sau này
Đề bài: Em hãy tả một đồ vật mà em yêu thích
Kết quả thu được như sau:
HS lập được dàn HS lập được HS lập được dàn ý
ý và viết được dàn ý và viết nhưng viết đoạn
Năm học
TSH đoạn văn hay
được đoạn văn văn còn lủng củng
S
TS
%
TS
%
TS
%
2021-2022
28
3
10,7
15
53,6
10
35,7
Như vậy, từ kết quả trên tôi thấy chất lượng học sinh lập được dàn ý và
viết được đoạn văn hay còn hạn chế, học sinh lập được dàn ý nhưng viết đoạn
văn còn lủng củng cịn nhiều. Vì vậy tơi quyết định nghiên cứu và lựa chọn một
số giải pháp để hướng dẫn lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả cho học sinh để
mong muốn học sinh có được kết quả tốt hơn.
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Nội dung và những kết quả nghiên cứu của sáng kiến.
1.1. Các giải pháp đã và đang tiến hành để giúp học sinh lập dàn ý và viết
đoạn văn miêu tả tại lớp 4B trường Tiểu học Tân Văn, xã Tân Văn, huyện Bình
Gia.
1.1.1. Điều tra phân loại học sinh.
Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh: học sinh
năng khiếu, học sinh đạt chuẩn, học sinh đạt chuẩn chưa bền vững và học sinh
3
4
4
cá biệt. Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch
dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học
sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh đạt chuẩn
chưa bền vững biết lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả, có thể vận dụng làm
được một bài văn hồn chỉnh, học sinh có năng khiếu được phát huy hết khả
năng của mình.
1.1.2. Cá thể hố hoạt động dạy học.
- Quan tâm đến mọi đối tượng học sinh đạt chuẩn, học sinh đạt chuẩn
chưa bền vững đồng thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn học đối
với học sinh có năng khiếu.
Ví dụ:
+ Bài làm của một học sinh trên chuẩn và học sinh năng khiếu: Dưới
bóng mát của cây bàng, chúng em vui chơi, nô đùa thoả thích. Cây bàng như
người bạn lớn hiền từ và tốt bụng của tất cả chúng em.
+ Bài của một học sinh đạt chuẩn kiến thức kĩ năng: Trong vườn nhà em
có một cây nhãn rất to.
+ Bài làm của một học sinh cận chuẩn kiến thức kĩ năng: Mỗi ngày em
thường chăm sóc cây.
- Khi học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, giáo viên
phải quan tâm đến từng em. Đối với học sinh đạt chuẩn và cận chuẩn giáo viên
phải hướng dẫn cụ thể cho các em bằng những gợi ý như:
+ Em hãy nói tình cảm của mình đối với con vật em yêu thích (yêu, ghét)?
(Em rất yêu quý con mèo nhà em...).
+ Em thể hiện tình u đó bằng những việc làm như thế nào ? (Em trồng
cây, chăm sóc bồn hoa để trường em ngày càng đẹp hơn hay Em không bao giờ
phá phách làm hỏng đồ đạc hay bẻ hoa của nhà trường...)
- Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh một cách đồng loạt để các em
có những câu văn nghĩa chung chung như: Em rất yêu quý cây. Em thường
chăm sóc cây mỗi ngày để cây mau lớn hay Chú mèo là người bạn thân thiết đối
với em....
Phải hướng dẫn để học sinh tìm ra những nét đặc sắc của đối tượng miêu
tả. Những nét đặc sắc đó giúp người đọc hình dung được đối tượng miêu tả cụ
thể mà không lẫn lộn với đối tượng miêu tả khác.
Ví dụ: Để hướng dẫn học sinh tả cây phượng, tơi cho học sinh quan sát,
tìm ý và chọn những chi tiết mà chỉ cây phượng mới có: " Khi mùa hè đến cây
4
5
5
phượng như nhuộm một màu đỏ rực nhờ những chùm hoa phượng đỏ thật đẹp
biết bao nhiêu. Mùa hè sẽ khơng buồn một chút nào bởi vì sắc đỏ của hoa
phượng. Cứ thỉnh thoảng có một cơn gió nhẹ nhàng thổi qua thì cánh hoa
phượng khi đã nở bung sẽ rơi rụng xuống. Hoa phượng đỏ rực giống như những
đốm lửa rực rỡ khiến cho mùa hè đẹp hơn, vui tươi hơn. Hoa phượng đối với em
nó là một lồi hoa thân thiết, một lồi hoa học trị..."
1.1.3. Làm giàu vốn từ cho học sinh.
Nếu học kiểu bài trong phân môn kể chuyện, học sinh chỉ tái hiện lại nội
dung câu chuyện đã nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài
thì văn miêu tả địi hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế
giới quanh ta rất phong phú, đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn
không thể “vẽ” được một cảnh, một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ,
vốn sống.
Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ
gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Thường xuyên yêu cầu học sinh đặt câu với
các từ mới để các em hiểu rõ nghĩa của từ đồng thời luyện kĩ năng nói câu hồn
chỉnh cho các em. Giáo viên cần giúp các em hiểu và vận dụng tốt các từ đồng
nghĩa, trái nghĩa, các từ tượng thanh, tượng hình và các biện pháp tu từ đã học.
Hướng dẫn học sinh cách tích lũy vốn từ qua tất cả các môn học và qua cuộc
sống hằng ngày.
Ví dụ: Giáo viên u cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả cây cối như:
Gốc cây (to, thô, sần sùi, mảnh mai, chắc nịch, …); Thân cây (to, cao, chắc, ghồ
ghề, xù xì, bạc phếch, ram ráp, nhẵn bóng, mềm mại, phủ đầy gai,…)
Cành cây (vươn dài, tỏa ra, khẳng khiu, mập mạp, chắc chắn, xum xuê, um tùm,
cong queo, trơ trụi,…)
Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát vật
thật), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của
Tiếng Việt hoặc các môn học khác và qua hình thức trị chơi,…
1.1.4. Hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn kiến thức văn học.
Tích luỹ văn học là điều kiện tối thiểu để học tốt môn Tiếng Việt, nhất là
trong phân môn Tập làm văn. Giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép những tiếng
khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được sửa chữa vào vở. Trong
phân môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để giúp học sinh trau
dồi vốn kiến thức văn học. Các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay.
Việc ghi chép này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử
dụng nhưng trước hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi
5
6
6
nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý
văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong bài làm.
1.1.5. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một
đoạn văn.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc
một đoạn văn được thầy cô tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay,
cái đẹp, các em sẽ hình thành được những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học
tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả.
Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên
hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay
quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như:
+ Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của con vật ?
+ Đoạn văn này dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của con vật?
+ Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?...
1.1.6. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu.
Gợi ý cho học sinh trên chuẩn và học sinh năng khiếu làm bài, trình bày
câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại. Nhưng điểm
mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa chữa từng em,
động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ.
Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các
kiến thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với
đối tượng học sinh đạt chuẩn và đạt chuẩn chưa bền vững.
Ví dụ: Học bài văn tả cây cối, học sinh miêu tả cây hoa hồng. Khi gặp
một đề văn yêu cầu tả cây bóng mát, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu tả, bố
cục, các biện pháp nghệ thuật đã sử dụng ở đề bài trước để thực hiện làm đề bài
thứ hai. Tất nhiên, giáo viên phải giúp học sinh tránh sự sao chép nguyên văn.
1.1.7. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát.
Điều quyết định sự thành công của lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả là
các em phải "có cái gì để viết" mới có thể tả được. Một trong những cách để "có
cái gì để viết" là quan sát. Muốn quan sát có hiệu quả, giáo viên cần phải dạy
học sinh xác định mục đích quan sát, hơn thế nữa, các em phải có tấm lịng, biết
u, biết ghét, phải có cách nghĩ, cách cảm nhận riêng của mình. Quan sát sao
cho khi làm văn phản ánh được đối tượng vừa cụ thể, chi tiết, vừa có tính khái
qt. Chi tiết phải làm cho người đọc thấy được bản chất của sự vật. Vì vậy, cần
dạy học sinh khi quan sát phải lựa chọn .Quan sát theo trình tự từ xa đến gần và
6
7
7
ngược lại, từ trong ra ngoài, từ bao quát đến chi tiết và ngược lại. Ghi chép
những điều đã quan sát được. Tổ chức quan sát từng đối tượng cụ thể. Có thể
hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (hoạt
động ngoài trời, qua các tiết học môn TNXH, Khoa học, trong giờ ra chơi,…);
quan sát ở nhà (vườn cây nhà em, con vật ni trong gia đình, …); quan sát qua
báo, đài, tivi ( một số cây được bảo tồn, cây quý hiếm, một số khu rừng quốc
gia, các loại động vật trong vườn bách thú, thế giới động vật...)
Dàn ý và đoạn văn miêu tả cần có các chi tiết cụ thể nhưng đó khơng phải
là chi tiết rời rạc, hay mang tính liệt kê mà đó là những chi tiết lột tả được cái
riêng của người và vật.Ví dụ:Tả ngoại hình của con vật, không nhất thiết phải tả
hết cả mắt, mũi, tai, đuôi, lông, …mà phải tập trung vào những nét nổi bật, gây
ấn tượng của con vật đó. Thậm chí đối với những học sinh trên chuẩn, có năng
khiếu viết văn, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách tả một đặc điểm nổi bật
của con vật mà vẫn làm nổi bật được hình ảnh của con vật đó.
Ví dụ: Cơ mèo này cũng khá là đanh đá. Đầu cơ trịn giống như quả bóng
tennis. Lại thêm một đơi tai mới thính làm sao, dù tiếng nhỏ đến đâu cơ cũng có
thể phát hiện ra...
1.1.8. Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc với học sinh và rèn kĩ năng tìm
hiểu đề.
Việc phân tích tìm hiểu đề giúp các em xác định được yêu cầu, giới hạn của
đề bài.Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề cần hướng dẫn cho học
sinh trả lời các câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần
bộc lộ trong bài là thái độ như thế nào? Đích của bài viết khơng phải lúc nào
cũng nhận thấy.
Ví dụ: Với đề bài "Em hãy lập dàn ý cho bài văn miêu tả một con vật ni
trong gia đình em." Nhưng thực ra mục đích thực sự của bài viết này là thông
qua việc miêu tả ngoại hình và tính nết, các em cần thể hiện được tình cảm thân
thương đối với đối tượng miêu tả. Trong khi tìm hiểu đề, có những học sinh vì
khơng xác định được rõ thái độ cần có khi tả nên khi tả con vật hoặc tả cây cối
lại có những chi tiết phản ánh một thái độ khơng ưa thích hay khơng bộc lộ được
tình cảm đối với đối tượng miêu tả. Đó cũng chính là lí do khiến mỗi giáo viên
chúng ta khi dạy học sinh làm một bài văn miêu tả không thể bỏ qua việc rèn
cho học sinh bộc lộ rõ thái độ, tình cảm của mình khi viết. Vì vậy cần xen vào
bài làm những câu văn nêu nhận xét suy nghĩ của mình. Nhưng tình cảm, thái độ
khơng phải lúc nào cũng thể hiện ở những câu nói trực tiếp như: em rất yêu …,
em rất thích …, em rất quý …, mà có thể thể hiện qua cách miêu tả.
7
8
8
Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh, khi ra đề bài cho các em,
tôi luôn tạo cho các em quyền lựa chọn bằng cách ra nhiều đề bài để các đối
tượng trong lớp đều có thể tự do chọn đề bài thích hợp cho mình, tránh áp đặt
cho các em.
Ví dụ: Khi ra đề lập dàn ý hoặc viết đoạn văn cho bài văn tả cây cối
, tôi chọn ba đề bài sau:
Em hãy lập dàn ý cho một trong ba đề bài sau:
a) Tả một cây hoa mà em u thích
b) Tả một cây có bóng mát (hoặc cây ăn quả) mà em yêu thích
c) Tả một cây cối được trồng ở sân trường em
Với các đề bài trên, các em có thể chọn đối tượng miêu tả là một cây hoa
mà em yêu thích. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả
một cây có bóng mát (hoặc cây ăn quả) mà các em đã có dịp quan sát trực tiếp
hoặc qua các chương trình trên ti vi hoặc phim ảnh...
1.1.9. Giúp học sinh luyện viết câu.
- Để lập được dàn ý và viết đoạn văn, trước hết mọi học sinh phải viết
được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản (vì câu là đơn vị lời nói).
Đối với học sinh có năng khiếu, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ
pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học
sinh đạt chuẩn, dưới chuẩn, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng,
thể hiện được ý cần nói. Ví dụ: Miêu tả cây phượng:
+ Với học sinh đạt chuẩn chưa bền vững: thân cây phượng to, nhiều rễ.
+Với học sinh đạt chuẩn: thân cây phượng rất to, dưới gốc mọc rất nhiều
rễ nhô lên khỏi mặt đất.
+Với học sinh trên chuẩn và học sinh năng khiếu: thân cây phượng rất to
chắc phải mấy đứa chúng em ôm mới xuể, phần rễ cây phát triển nhô lên cả mặt
đất, vơ tình như một cái ghế tạo thành chỗ ngồi cho các bạn học sinh ở trường.
- Biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ
diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy
cho các em sử dụng đúng dấu câu đã được tiến hành từ các lớp dưới và phải
được thường xuyên ôn luyện. Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu
chưa đúng để cả lớp nhận xét.
Ví dụ:
+ Trong giờ ra chơi các bạn đều đến gốc cây phượng để ngồi đọc sách.
+ Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng cây phượng.
8
9
9
Học sinh trao đổi, sửa chữa:
+ Trong giờ ra chơi, các bạn đều đến gốc cây phượng để ngồi đọc sác h.
+ Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng, cây phượng.
1.1.10. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý bằng sơ đồ tư duy.
Tìm ý và lập dàn ý trong làm văn nói chung và trong văn miêu tả nói
riêng là một thao tác, một bước chuẩn bị khơng thể thiếu, có thể nói nó có vai trị
rất quan trọng đối với học sinh đặc biệt là học sinh Tiểu học. Vì vậy đối với học
sinh lớp 4 để lập được một dàn ý chi tiết, đủ ý và theo đúng bố cục của một bài
văn miêu tả để mà học sinh có thể dựa vào đó viết thành một đoạn văn hay một
bài văn hay thì quả thật là rất khó.
Mọi người ai cũng hiểu rằng khi viết văn nếu bỏ đi cơng đoạn tìm ý và lập
dàn ý thì bài làm của các em sẽ khơng đi đúng theo yêu cầu, khi viết bài kiểm tra
bài văn của các em sẽ thiếu đi tính hệ thống, tính lơgic. Điều này làm cho bài
văn khơng đạt được như mục tiêu đã đề ra.
Đối với kiểu bài miêu tả, quan sát là cơ sở chủ yếu để tìm ý. Việc quan sát
có thể tiến hành ngay trên lớp hoặc tiến hành ngoài lớp trước tiết học. Muốn bảo
đảm các yêu cầu trên, các đề bài ra cho học sinh phải tính đến khả năng quan sát
của các em. Không nên ra các đề miêu tả mà học sinh không thể quan sát trực
tiếp.
Khi hướng dẫn học sinh quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, quan trọng
nhất là biết cách đặt câu hỏi kết hợp với hướng dẫn học sinh quan sát. Câu hỏi
cần chỉ rõ sử dụng giác quan nào, quan sát bộ phận nào của đối tượng miêu tả.
Thông thường học sinh chỉ quen sử dụng mắt để quan sát và nhận xét, ít biết
cách dùng các giác quan khác. Đề tài miêu tả phong phú, giáo viên chú ý đặt câu
hỏi yêu cầu học sinh tập sử dụng mắt, mũi, tai, tay, da,…để thu thập nhiều nhận
xét khác nhau giúp cho việc miêu tả sinh động, mới mẻ.
Để viết được bài văn miêu tả hoàn chỉnh, học sinh cần có nhiều kĩ năng
như: xác định đúng yêu cầu của đề bài, quan sát, tìm ý miêu tả, lập dàn ý, viết
đoạn và bài, chỉnh sửa và hoàn thiện bài viết... Trong các kĩ năng trên thì lập dàn
ý là khâu vơ cùng quan trọng và không dễ đối với rất nhiều học sinh. Học sinh
không biết sắp xếp ý nào trước, ý nào sau dẫn đến bài văn lủng củng, rời rạc,
thiếu ý. Vì vậy sơ đồ tư duy sẽ là một giải pháp phù hợp với các em bởi nó là sơ
đồ có cấu trúc và hình ảnh rõ ràng giúp các em ghi nhớ tốt và tạo hứng thú để
các em có thể liên tưởng, tưởng tượng và sáng tạo về đối tượng được miêu tả.
Nếu như học sinh lập được dàn ý đúng, đầy đủ thì coi như bài viết đã thành công
một nửa.
9
10
10
Với sự sáng tạo của mình, giáo viên chỉ cần hướng dẫn một vài lần tỉ mỉ
là các em có thể tự làm được các dàn ý cho bài văn bằng cách vẽ sơ đồ tư duy.
Cách làm này vừa lôi cuốn, gây hứng thú cho các em, vừa giúp các em nhớ bài
lâu và viết được bài văn hoàn chỉnh, sáng tạo.
Để học sinh có kĩ năng cách lập dàn ý của một bài văn miêu tả, tôi cho
học sinh làm quen rút dàn ý từ những bài văn hoàn chỉnh cho trước.
Sau khi học sinh đã quan sát đối tượng miêu tả ở nhà, công việc của giáo
viên là đặt câu hỏi gợi ý để học sinh hồi tưởng lại những gì đã quan sát được.
Khi học sinh đã quan sát và tìm đủ ý rồi, giáo viên hướng dẫn các em lập
dàn ý bài văn. Dàn ý phải đủ 3 phần:
- Phần mở bài: Giới thiệu bao quát đối tượng định tả.
- Phần thân bài:
+ Miêu tả bao quát đối tượng
+ Miêu tả chi tiết, bộ phận (chú ý chi tiết chính)
Trong q trình miêu tả cần đan xen cảm xúc, suy nghĩ của đối tượng
miêu tả.
+ Kết bài: Nêu suy nghĩ, cảm xúc hay đánh giá ý nghĩa của đối tượng
miêu tả.
Khi lập dàn ý cần cân đối câu từ. Câu không quá dài hay quá ngắn, mỗi
câu cần làm nổi rõ một trọng tâm của bài. Các ý cần chặt chẽ, logíc với nhau,
học sinh cần nắm chắc từng kiểu bài cụ thể:
- Kiểu văn tả đồ vật, loài vật, cây cối:
+ Khi làm kiểu bài này có thể chọn trình tự miêu tả từ bao quát đến cụ
thể. Riêng tả loài vật, cây cối có thể theo q trình trưởng thành của đối tượng
với các giai đoạn cụ thể.
+ Đối tượng miêu tả ở kiểu bài này là những đồ dùng, vật dùng, những
hình ảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Do đó khi miêu tả phải chú ý tới
công dụng ý nghĩa của chúng cũng như mối quan hệ giữa chúng với con người.
Đặc biệt thỉnh thoảng trong q trình tả có thể đan xen vào một vài kỉ niệm thể
hiện sự gắn bó giữa người tả với đối tượng được tả.
+ Cần biết điều chỉnh hợp lý giữa tả thực và các hình ảnh liên tưởng. Nếu
tả thực nhiều quá thì hình ảnh miêu tả trở nên trần trụi. Nếu liên tưởng nhiều q
thì tính chân thực sẽ giảm đi. Riêng đối với đồ dùng vật dụng không phải lúc
nào cũng tả cái mới. Có thể tả những đồ dùng đã cũ (xen vào các kỉ niệm thể
hiện sự gắn bó giữa vật dùng với người tả) thì ý nghĩa của việc miêu tả trở nên
sâu sắc hơn, bài văn trở nên sinh động và hấp dẫn người đọc, người nghe.
10
11
11
Ví dụ: Với đề văn "Tả một cây có bóng mát (hoặc cây ăn quả) mà em yêu
thích", giáo viên có thể đặt những câu hỏi để học sinh trả lời và lập ý như sau:
I. Mở bài: Cây đó là cây gì? Cây bao nhiêu tuổi? Cây đó được trồng ở
đâu? Cây đó có cao lớn khơng?Cây cao khoảng bao nhiêu mét? (có thể so sánh
với các sự vật gần đó như ngơi nhà, cột đèn đường, tường rào…)
II. Thân bài: + Thân cây to như thế nào? Mọc thẳng hay cong theo hướng
khác?
- Lớp vỏ quanh thân cây có màu gì? Đặc điểm về màu sắc và hình dáng bề
mặt thân cây? Khi chạm vào có cảm giác như thế nào?
- Cây có nhiều cành khơng? Kích thước của các cành? Nhờ đâu mà các
cành tạo thành một tán cây lớn tạo bóng mát?
- Lá cây có hình dáng, kích thước và màu sắc như thế nào? Cây có dày lá
khơng? Lá cây có xanh quanh năm khơng hay rụng theo mùa?
- Những hoạt động, kỉ niệm của em dưới bóng mát của cây:
+ Em thường làm gì dưới bóng mát của cây? (một mình, cùng bạn bè…)
+ Em có kỉ niệm tuổi thơ nào đáng nhớ cùng với cây đó?
+ Em có hành động gì giúp cây tươi tốt, phát triển hơn
khơng?
III. Kết bài: Tình cảm của em dành cho cây đó như thế nào? Những người
xung quanh có tình cảm như thế nào đối với bạn đó?
Việc đặt câu hỏi gợi ý sẽ giúp các em trình bày nội dung bài viết một cách
đầy đủ, mạch lạc, giúp các em diễn đạt các ý sinh động và chặt chẽ. Và khi lập
dàn ý, các em phải biết đâu là ý chính của bài.
Ví dụ: Đứng nhìn từ xa, thì lúc này đây cây phượng như một chiếc ơ có
màu xanh mát cực đẹp. Lá của cây phượng không to như lá của cây bàng hay
của cây bằng lăng, mà lá của cây phượng lại rất nhỏ. Dễ nhận thấy được rằng
cũng chính các chiếc lá phức dường như cũng lại có bề ngồi giống như lơng
chim vậy...
Bên cạnh việc xác định ý chính của bài, học sinh cần cần biết sắp xếp các
ý theo một trình tự thời gian, trình tự tâm lí…Việc thực hiện bố cục ba phần của
bài văn cần được thực hiện một cách tự nhiên, khơng gị bó, khn sáo. Để
hướng dẫn luyện tập cách lập dàn ý nên hướng dẫn học sinh một số bài tập lập
dàn ý như: từ một bài văn hồn chỉnh, hãy lập dàn ý của nó hoặc cho sẵn những
dàn ý chưa phù hợp yêu cầu học sinh chữa lại cho đúng.
1.1.11. Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý, viết từng đoạn của bài văn miêu
tả.
11
12
12
Khi đã có cái để viết, có dàn ý, các em chuyển sang các bước luyện viết
các đoạn của bài. Đây là một khâu rất quan trọng. Từ dàn ý đã có, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh viết từng đoạn (mở bài, thân bài, kết bài).
1. Hướng dẫn học sinh luyện viết đoạn mở bài:
Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu đối tượng sẽ miêu tả trong
phần thân bài đồng thời khêu gợi, lôi cuốn sự chú ý của người đọc đối với đối
tượng được miêu tả. Khi làm bài, đa số học sinh mất khá nhiều thời gian mà vẫn
khơng có được mở bài hay. Vì vậy cần hướng dẫn các em thực hành nhiều cách
mở bài.
a. Mở bài trực tiếp:
Theo cách này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giới thiệu trực tiếp
đối tượng được miêu tả.
b. Mở bài gián tiếp:
*Mở bài bằng cách nêu lí do:
Với cách này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu rõ được nguyên
nhân, hoặc dịp nào đó các em gặp đối tượng miêu tả.
* Mở bài bằng cách nêu tình huống:
Với cách này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử dụng một từ ngữ
hoặc một câu của một nhân vật để có thể nêu tình huống dẫn tới việc xuất hiện
đối tượng miêu tả.
Với các cách mở bài (trực tiếp và gián tiếp) đã nêu trên, học sinh có thể
lựa chọn, để áp dụng cho từng bài tập làm văn cụ thể.
Để giúp học sinh luyện tập cách mở bài, ngoài những vấn đề trong
chương trình Tiếng Việt 4, giáo viên có thể tự biên soạn thêm một số đề bài sao
cho phù hợp với học sinh.Có thể ra các đề văn miêu tả về các đồ vật, cây cối,
con vật…để học sinh có nhiều điều kiện rèn kĩ năng viết phần mở bài.
2. Hướng dẫn học sinh viết phần thân bài:
Sau khi đã có mở bài tốt rồi thì vấn đề quan trọng là biết diễn đạt nội dung
hay. Nhiều khi chúng ta bắt gặp ở bài làm của học sinh mở bài rât hấp dẫn song
phần thân bài lại lủng củng. Để giúp học sinh tránh được điều đó, giáo viên có
thể sử dụng các cách sau:
a. Hướng dẫn học sinh sử dụng đại từ, liên từ và giới từ.
Qua bài văn, người đọc có thể nhận thấy được thái độ kính mến, thương
yêu hay giận hờn, căm ghét đối với đối tượng được miêu tả. Điều ấy được thể
hiện qua việc lựa chọn từ ngữ.Từ xưng hô trong tiếng Việt rất giàu màu sắc biểu
cảm và hết sức phong phú. Trong bài văn miêu tả của học sinh, đại từ "em",
"con" được sử dụng nhiều hơn cả, các đại từ đó bộc lộ thái độ lễ phép, trân trọng
12
13
13
đối với người đọc song nếu cần bộc lộ tình cảm thân mật, gần gũi, có thể sử
dụng đại từ "tơi" hoặc “mình” để xưng hơ. Khơng chỉ ở cách xưng hô, các từ
ngữ nối như: vâng, đúng vậy, chà, này nhé, ôi chao, quả thật, gớm, ấy vậy mà,…
cũng góp phần tạo nên ấn tượng như học sinh đang nhận xét và đối thoại trực
tiếp với người đọc khiến đoạn văn trở nên tự nhiên hơn.
b. Hướng dẫn học sinh viết từ độc đáo.
Một bài văn miêu tả là một bài văn mà ở đó học sinh biết cách dùng từ
độc đáo.Trong việc làm một bài văn miêu tả nếu học sinh biết dùng từ đúng lúc
đúng chỗ sẽ vẽ lên được một chân dung có hồn khiến người đọc như có thể nhìn
thấy, sờ thấy được. Đối với học sinh lớp 4, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh
đạt được mục đích trên bằng cách hướng dẫn học sinh sử dụng linh hoạt các từ
láy, từ ghép, từ tượng thanh, từ tượng hình, từ nhiều nghĩa …
Có thể cho học sinh phân tích những đoạn văn ngắn có sử dụng nhiều từ
láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, từ đa nghĩa để phát hiện (có thể nêu tác
dụng). Hoặc có thể chọn đoạn văn ngắn có nhiều chỗ trống u cầu học sinh tự
tìm từ thích hợp (từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình từ gần nghĩa …) điền vào
chỗ trống. Hoặc có thể cho đoạn văn có gạch chân các từ đơn yêu cầu học sinh
tìm từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình để thay thế.
c. Hướng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh:
Văn miêu tả (đặc biệt là kiểu bài tả con vật và kiểu bài tả cây cối) là loại
văn ghi lại những nét tiêu biểu về hình dáng hay hoạt động của con vật hay từng
thời kì phát triển của cây. Khi viết học sinh dễ sa vào kể lể một cách khơ khan
khơng có cảm giác thích thú cho người đọc.
Có thể đưa ra các đoạn văn có những hình ảnh sinh động, yêu cầu học
sinh phát hiện hoặc yêu cầu học sinh dùng biện pháp so sánh, nhân hố để viết
đoạn văn.
Ví dụ: Tả Con gà trống: "Chú gà trống khốc trên mình một chiếc áo
vàng óng, mượt như tơ". Tả cây bàng:" Mùa đông, cây bàng trơ trụi với những
bàn tay khẳng khiu, gầy gò".
d. Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn.
Có được những câu văn đúng ngữ pháp, có hình ảnh chưa đủ, học sinh
cịn cần biết liên kết các câu, các ý thành đoạn văn. Có thể có các đoạn văn như
sau:
Mơ hình 1: Câu mở đoạn -> Câu diễn tả - > Câu kết đoạn.
Mơ hình 2: Câu mở đoạn -> Câu diễn tả.
Mơ hình 3: Các câu diễn tả - > Câu kết đoạn.
13
14
14
Khi hướng dẫn học sinh, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập viết theo
một trong 3 cấu trúc trên, hoặc đưa ra các câu văn rời rạc yêu cầu học sinh sắp
xếp lại thành một đoạn văn thích hợp.
Điều quan trọng ở phần thân bài là phải biết diễn tả liền mạch suy nghĩ,
cảm xúc của người viết, trong sáng trong tình cảm, sắp xếp các ý thành những
đoạn văn mạch lạc. Mỗi đoạn văn nên tập trung nêu bật, làm rõ một dụng ý miêu
tả. Có thể đó là một ý về khơng gian, thời gian hoặc một ý về đặc điểm của đối
tượng được tách riêng ra để miêu tả... Không nên sáp nhập tất cả các ý trong
phần thân bài thành một hoặc hai đoạn văn. Do vậy, trong văn miêu tả, học sinh
thường được hướng dẫn quan sát, miêu tả những trình tự hợp lí như sau:
- Miêu tả theo trình tự thời gian: Là cách quan sát sự vật, hiện tượng theo
diễn tiến của thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc, từ mùa này sang mùa
khác, từ tháng này sang tháng khác,...Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả
trước, cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình tự này thường được vận
dụng trong bài văn miêu tả cây cối, hiện tượng tự nhiên (tả cảnh) hay tả con vật.
- Miêu tả theo trình tự khơng gian: Là từ quan sát tồn bộ (cái chung) đến
quan sát từng bộ phận (cái riêng) hoặc ngược lại. Tả từ xa đến gần, từ trên
xuống dưới, từ ngoài vào trong, từ trái sang phải,... hoặc ngược lại. Trình tự này
thường được vận dụng khi miêu tả loài vật, cảnh vật, đồ vật, cây cối nói chung.
- Miêu tả từng đặc điểm của đối tượng: Mỗi sự vật, hiện tượng thường
chứa đựng những đặc điểm riêng biệt, vì thế khi miêu tả thấy đặc điểm gì nổi bật
nhất, thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân thì tập trung quan sát
trước, tả trước; các bộ phận khác quan sát sau, tả sau. Nhưng cũng không nhất
thiết phải miêu tả tất cả các đặc điểm của đối tượng. Trình tự này thường được
vận dụng khi tả đồ vật, loài vật, cây cối.
Trong phần thân bài những ý tưởng viết ra cần phải chân thật, đúng với
những điều mình thấy và cảm nhận được từ đối tượng. Điều quan trọng là các
em phải biết chọn lọc những chi tiết tiêu biểu, đặc sắc để đưa vào đó thì bài văn
mới nổi bật được trọng tâm, thoát khỏi sự sao chép, máy móc. Tránh viết một
cách mơng lung, dễ lạc đề.
Ví dụ: Khi tả hình dáng con vật ni thì trọng tâm là những nét đặc sắc về
hình dáng của con vật đó, khơng nên chăm chú tả kĩ về điều kiện bên ngoài của
chúng như: chỗ ăn ngủ, con vật thích ăn gì,...
3. Hướng dẫn học sinh viết đoạn kết luận:
14
15
15
Phần kết luận trong bài văn rất quan trọng. Nó sẽ để lại ấn tượng đẹp
trong lòng người đọc nếu được viết ngắn gọn, tinh chắc. Có thể hướng dẫn học
sinh viết phần kết luận bằng nhiều cách:
- Cách 1: Nêu cảm tưởng, suy nghĩ thực của bản thân đối với đối tượng
được miêu tả.
- Cách 2: Kết luận bằng cách nêu lời của đối tượng miêu tả hoặc nhân vật
khác.
- Cách 3: Có thể dùng cử chỉ, một hoạt động của đối tượng miêu tả để kết
luận.
4. Hướng dẫn học sinh hoàn chỉnh bài:
Để hoàn chỉnh được bài viết, sau khi viết nháp, học sinh phải biết đọc lại
bài làm và tự sửa chữa. Giáo viên có thể dùng cho từng cặp học sinh tự chấm bài
của nhau để tìm ra khuyết điểm của bạn. Lúc ấy, giáo viên đóng vai trị trọng tài,
giám sát chặt chẽ việc kiểm tra đánh giá của học sinh, giải đáp các thắc mắc của
học sinh cả về cách chọn ý, dùng từ diễn đạt trên cơ sở tôn trọng những ý tưởng
sáng tạo của học sinh.
Ví dụ:
Đề bài: Hãy miêu tả một cây có bóng mát
Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được,
đây chính là dàn ý của bài.
+Cây mít do nhà em trồng đã được 5 năm, cây rất sai quả.
+ Cây mít là loại cây ăn quả rất ngon và dinh dưỡng.
+ Cây mít cao chừng 3 mét.
+ Thân cây chia ra nhiều nhanh và khẳng khiu.
+ Lá mít có màu xanh lá cây đậm, rất dày, dày, một mặt bóng
+ Tới mùa ra hoa hoa mít có màu vàng xanh và được nhiều cánh hoa dài
+ Sau khi rụng hoa khoảng một tuần thì những trái mít nhỏ mắt đầu lớn.
+ Quả mít vỏ ngồi màu xanh và có rất nhiều gai nhọn, khơng cẩn thận là
bị cắm vào người.
+ Khi mít chín tỏa ra một mùi thơm lồng
+ Múi mít có màu vàng, ăn vào ngọt.
+ Mít là cây ăn quả có nhiều lợi ích kinh tế.
+ Nhiều nơi có thể dùng loại cây này để phát triển kinh tế rất tốt.
Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp xếp ý thành các đoạn mở bài, thân
bài, kết bài phù hợp. Ví dụ:
* Đoạn mở bài:
15
16
16
Trong vườn nhà em có rất nhiều loại cây ăn quả, nào là xoài, bưởi, na…
Cây nào cũng tốt và cho rất nhiều quả. Trong tất cả các loại cây, em thích nhất
cây mít vì em thích ăn quả mít nhất.
* Đoạn thân bài:
Cây mít nhà em rất to, vì đã được trồng từ rất lâu rồi. Khi em lớn lên thì
cây mít trước sân đã to như vậy và hàng năm cho rất nhiều quả. Nghe bà em kể
lại thì cây mít đó khơng do ai trồng mà là tự mọc, vì gần giếng ẩm ướt nên rất
phát triển, thấy vậy bà em chăm sóc và lớn lên to như bây giờ. Thân cây to, một
mình em dang tay ôm cũng không thể hết được.
Vỏ cây không được nhẵn mà sần sùi, thậm chí có cả rêu mọc, chính vì vậy
sau mỗi cơn mưa cây mít rất trơn khơng thể nào trèo lên được. Cây mít nhà em
chia thành hai nhánh lớn, mỗi nhánh lại phát triển thêm một vài cành con, lá mít
có màu xanh, những lá già và chuẩn bị rụng thì có màu vàng, chúng em hay nhặt
lá mít làm tiền để chơi trị chơi, các cụ ở đình chùa thì hay lấy lá mí đóng những
ông oản làm từ gạo nếp để phát lộc cho những ai ra chùa làm lễ, em nghe bà em
kể, những đứa trẻ nào chậm biết nói, có thể lấy những lá mít này đập nhẹ vào
miệng ba cái thì sẽ nhanh biết nói hơn, thật là kì diệu. Những cành và lá mít cịn
xanh và non khi bị bẻ gẫy sẽ có nhựa, nhựa này màu trắng và rất dính.
Đến mùa, mít bắt đầu là hoa, hoa mít rất đặc biệt chúng em hay lấy những
cánh rụng xuống thả vào chậu nước làm thuyền vì hoa những cánh hoa mít rất
giống chiếc thuyền. Hoa kết thành quả, quả mít non ăn với muối rất non, chúng
em hay hái trộm, và hay bị bà mắng những lúc bị phát hiện. Khi mít chín mùi
thơm lan tỏa mọi nơi.
Bên ngồi vỏ sần sùi và nhiều gai nhưng bên trong thì thật tuyệt. Mặc dù
mít chín vào mùa hè và ăn mít rất nóng nhưng em vẫn thích ăn, những múi mít
vàng ươm, thơm lừng, mít có thể ăn ngay, để tủ lạnh hoặc chế biến thành mít sấy
rất ngon.
* Đoạn kết bài:
Cây mít đã gắn bó rất lâu với gia đình em, mang đến cho mọi người
những quả mít ngon tuyệt mùi thơm lan tỏa khắp xóm làng.
Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở
bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất xứ của đối tượng
miêu tả. Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng lời về hình dáng, đường nét, cử chỉ,
hoạt động, tính nết của đối tượng. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của
người viết. Khơng thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần
16
17
17
hướng dẫn học sinh nêu được cảm xúc tự nhiên, chân thật, khơng sáo rỗng kiểu
như: Cây mít đã gắn bó rất lâu với gia đình em…
1.1.12. Nhận xét bài thường xuyên.
Đi đôi với công việc nhận xét bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải
giúp các em phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa hay,
chưa đạt để sửa chữa trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải sửa lại
bài làm của mình cho hay hơn, đúng hơn.
Giáo viên cần tránh việc chê bai các em nhưng cũng không được lạm
dụng lời khen, tạo sự thờ ơ của học sinh đối với lời khen do được khen quá
nhiều, khen không đúng lúc. Kiểu như mỗi lần các em nói xong, nhiều lúc chỉ là
nhận xét bạn đã viết hoa đầu câu chưa, giáo viên đều nhận xét “Em giỏi lắm!”.
1.1.13. Hướng dẫn học sinh lưu ý khi làm từng kiểu văn miêu tả.
1. Đối với bài tả cây cối:
Trong thế giới tự nhiên có rất nhiều lồi cây, nhưng đối tượng trong văn
miêu tả ở Tiểu học chủ yếu là các lồi cây ăn quả, cây có bóng mát hay cây cho
hương hoa... đó là những cây mang lại lợi ích thiết thực rất gần gũi với lứa tuổi
học trị. Vì vậy, khi miêu tả cần tập trung làm nổi bật lợi ích của cây đó là gì ?
Cần gắn tả cây với khung cảnh, cảnh vật xung quanh nó để tạo nên một bức
tranh nhiều sắc màu sinh động mà trong đó cây được tả là vật trung tâm. Nên
dùng biện pháp so sánh, các tính từ chỉ màu sắc, mức độ để diễn tả sát đúng.
2. Đối với bài tả đồ vật.
Mỗi đồ vật đều có những nét riêng về hình dáng, cấu tạo, màu sắc... Đồ
vật ln gắn bó với đời sống sinh hoạt của con người, vì thế khi miêu tả cần phải
nói tới lợi ích, cơng dụng của đồ vật ấy, cũng như tình cảm của con người đối
với đồ vật đó. Có như vậy đồ vật hiện lên trong bài văn miêu tả mới sinh động,
cụ thể.
Lời văn trong bài văn miêu tả đồ vật cần có sức sống, sử dụng biện pháp
so sánh, nhân hóa, các động từ, tính từ chỉ hoạt động và phẩm chất của con
người khiến đồ vật vơ tri, vơ giác cũng trở nên có những suy nghĩ và cử chỉ, tình
cảm giống như con người.
3. Đối với bài tả con vật.
Làm bài văn miêu tả con vật, cần chú ý tả hình dáng bên ngồi, thói quen
tính nết riêng biệt của con vật đó. Khi miêu tả hình dáng bên ngồi cần nhấn
mạnh vào một số đặc điểm nổi bật nhất, dễ nhìn thấy nhất về con vật.
17
18
18
Dùng từ tượng thanh để mô phỏng lại âm thanh nhằm mục đích khắc họa
lại âm thanh đặc trưng của con vật được miêu tả. Nên dùng biện pháp tu từ nhân
hóa, các từ ngữ chỉ màu sắc, phẩm chất, các động từ chỉ hoạt động mang đặc
trưng giống loài để miêu tả con vật cho cụ thể và sinh động.
2. Kết quả:
Xuất phát từ thực tiễn của lớp, trong năm học này thực hiện những biện
pháp Hướng dẫn lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả cho học sinh lớp 4B trường
Tiểu học Tân Văn, tôi thấy học sinh có chuyển biến rõ rệt về chất lượng học tập.
Trong giờ học, sự kết hợp của giáo viên và học sinh rất nhịp nhàng, các em tiếp
thu bài tốt, khơng khí lớp học sơi nổi.
Kết quả kiểm tra của học sinh giữa học kì II mơn Tiếng Việt
ST
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
Họ và tên
Mức đạt được
Điểm KTĐK
Hoàng Thị Vân Anh
Hoàng Thị Châm
Lý Văn Duy
Hồng Thị Dun
Hồng Thị Ngọc Hân
Hồng Quang Hịa
Lý Thị Hịa
Dương Thị Khánh Huyền
H
H
H
H
T
H
H
H
8
8
8
8
9
6
5
7
Lành Bảo Hưng
Hồng Lâm Ngọc Khang
Hồng Đình Bảo Khanh
Hoàng Hà Linh
Hoàng Thị Khánh Linh
Nguyễn Thị Thanh Lụa
Hoàng Văn Luận
Hồng Long Nhật
Hồng Đại Quang
Lành Mạnh Qn
Triệu Minh Qn
Mã Chí Tài
Hồng Văn Thân
Hồng Bảo Thiên
Nguyễn Hồng Thiện
Triệu Tri Thức
Hồng Đình Tùng
Lâm Phương Uyên
H
H
H
H
H
T
H
H
H
T
T
H
T
H
H
H
H
T
8
5
8
8
8
9
5
6
8
9
9
8
9
8
8
8
7
9
18
19
19
27
28
Hoàng Hải Vân
Mã Thị Kiều Vy
H
H
8
6
Kết quả việc lập dàn ý và viết văn của học sinh giữa học kì II
Năm học
2021- 2022
TSH
S
28
HS lập được dàn HS lập được HS lập được dàn ý
ý và viết được dàn ý và viết nhưng viết đoạn
đoạn văn hay
được đoạn văn . văn còn lủng củng.
TS
%
TS
%
TS
%
18
64,3
10
35,7
0
0
Sau một thời gian ngắn vận dụng các biện pháp trên và qua kết quả kiểm
tra giữa học kì II năm học 2021-2022 của 28 em học sinh đã cho tôi một kết quả
khả quan, các em hào hứng hơn với phân môn Tập làm văn của môn Tiếng Việt.
Kỹ năng làm văn được nâng lên. Làm tốt việc quan sát, tìm ý, lập dàn ý đã giúp
học sinh có nền tảng kỹ năng viết đoạn văn vững chắc, tự tin trong khi làm văn,
hiệu quả dạy học trong phân môn Tập làm văn được nâng cao, đồng thời các em
u thích học mơn Tiếng Việt hơn hẳn. Cụ thể là:
+ 28/28 em nắm được thể loại, yêu cầu của đề bài.
+ 18/28 = 64,3% học sinh lập được dàn ý và viết được đoạn văn miêu tả
hay.
+ 10/28 = 35,7% học sinh có khả năng quan sát, biết lập dàn ý và viết
đoạn văn miêu tả.
3. Thảo luận, đánh giá kết quả thu được
3.1.Tính mới, tính sáng tạo:
- Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh giúp cho
giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học
phù hợp. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh đạt chuẩn
chưa bền vững biết lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả, có thể vận dụng làm
được một bài văn hồn chỉnh, học sinh có năng khiếu được phát huy hết khả
năng của mình.
- Giáo viên quan tâm đến mọi đối tượng học sinh đạt chuẩn, học sinh đạt
chuẩn chưa bền vững đồng thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn
học đối với học sinh có năng khiếu. Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh
một cách đồng loạt để các em có những câu văn nghĩa chung chung như: Em rất
yêu quý cây. Em thường chăm sóc cây mỗi ngày để cây mau lớn hay Chú mèo là
người bạn thân thiết đối với em....Phải hướng dẫn để học sinh tìm ra những nét
19
20
20
đặc sắc của đối tượng miêu tả. Những nét đặc sắc đó giúp người đọc hình dung
được đối tượng miêu tả cụ thể mà không lẫn lộn với đối tượng miêu tả khác.
- Ngoài giải nghĩa các từ trong sách, giáo viên tìm thêm những từ khó đối
với học sinh của lớp mình để giải nghĩa thêm cho các em. Cho học sinh tìm từ
bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát vật thật), quan sát tranh ảnh,
xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc các mơn học
khác và qua hình thức trò chơi.
- Giáo viên yêu cầu học sinh ghi chép những tiếng khó, ghi những trường
hợp mắc lỗi chính tả đã được sửa chữa vào vở, giúp học sinh trau dồi vốn kiến
thức văn học. Các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay. Việc ghi chép
này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước
hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu
dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái
hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong bài làm.
- Giáo viên hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn
qua việc hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu
hỏi xoay quanh nội dung đoạn văn.
- Giáo viên dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận
dụng các kiến thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau,
nhất là với đối tượng học sinh đạt chuẩn và đạt chuẩn chưa bền vững.
- Giáo viên chuẩn bị bài đầy đủ trước khi lên lớp. Sử dụng tốt các phương
tiện dạy học trong bài. Giáo viên hướng dẫn các em quan vật thật bằng việc kết
hợp tất cả các giác quan. Trong quá trình quan sát, các em cần ghi lại những ý
mình quan sát được một cách rõ ràng sau đó sắp xếp chúng theo một trình tự
hợp lí.
- Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh, khi ra đề bài cho các
em, tôi luôn tạo cho các em quyền lựa chọn bằng cách ra nhiều đề bài để các đối
tượng trong lớp đều có thể tự do chọn đề bài thích hợp cho mình, tránh áp đặt
cho các em.
- Đối với học sinh có năng khiếu, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng
ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với
học sinh đạt chuẩn, dưới chuẩn, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu
đúng, thể hiện được ý cần nói. Hướng dẫn học sinh dùng dấu câu đúng, nhất là
dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt rõ ràng, người đọc, người
nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy cho các em sử dụng đúng dấu câu đã
được tiến hành từ các lớp dưới và phải được thường xuyên ôn luyện. Giáo viên
đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu chưa đúng để cả lớp nhận xét.
20
21
21
- Giáo viên vận dụng sơ đồ tư duy để hướng dẫn các em lập dàn ý cho bài
văn miêu tả. Với cách làm này không những thu hút, lôi cuốn các em mà còn
giúp các em hiểu rõ, nhớ lâu về bố cục của bài văn. Từ đó các em viết được bài
văn đủ ý, có bố cục rõ ràng, mạch lạc. Đặc biệt, giải pháp này còn làm tăng khả
năng chủ động học tập và thỏa mãn sự đam mê sáng tạo của các em.
- Khi đã có cái để viết, có dàn ý, các em chuyển sang các bước luyện viết
các đoạn của bài. Đây là một khâu rất quan trọng. Từ dàn ý đã có, giáo viên cần
hướng dẫn học sinh viết từng đoạn của bài văn một cách cụ thể từ phần mở bài,
thân bài, kết bài. Để hoàn chỉnh được bài viết, sau khi viết nháp, học sinh phải
biết đọc lại bài làm và tự sửa chữa. Giáo viên có thể dùng cho từng cặp học sinh
tự đánh giá bài của nhau để tìm ra khuyết điểm của bạn. Lúc ấy, giáo viên đóng
vai trò trọng tài, giám sát chặt chẽ việc kiểm tra đánh giá của học sinh, giải đáp
các thắc mắc của học sinh cả về cách chọn ý, dùng từ diễn đạt trên cơ sở tôn
trọng những ý tưởng sáng tạo của học sinh.
- Đi đôi với công việc nhận xét bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài.
Phải giúp các em phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa
hay, chưa đạt để sửa chữa trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải
sửa lại bài làm của mình cho hay hơn, đúng hơn.Thường xuyên động viên,
khuyến khích các em.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân biệt các đối tượng trong văn miêu tả
cụ thể.
+ Đối với bài văn miêu tả đồ vật cần quan sát và miêu tả các bộ phận nổi
bật, đặc trưng của đối tượng cần miêu tả sao cho tốt lên được đặc điểm riêng
của nó, để phân biệt được với các sự vật khác cũng loại. Quan sát bằng nhiều
giác quan: Mắt nhìn, tai nghe, tay sờ và phải biết ước lượng đối tượng miêu tả.
Có thể quan sát đồ vật từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong.
+ Đối với bài văn miêu tả cây cối: Quan sát về hình dáng, các bộ phận của
cây hoặc theo từng thời kì phát triển của cây. Khi quan sát cần sử dụng các giác
quan như thị giác (quan sát dáng cây, thân cây, cành cây...), thính giác (nghe
tiếng gió thổi, lá rơi, chim hót,...), xúc giác (sờ vào thân cây thấy nhám, sần
sùi,...), nếu cây có hoa quả cần dùng khứu giác (ngửi mùi hương của hoa,
quả, ...), vị giác (nếm vị ngọt hay chua của quả).
+ Đối với bài văn tả con vật ngoài việc miêu tả hình dáng con vật, học
sinh cần phải quan sát hoạt động, thói quen của con vật định tả.
3.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến.
21
22
22
3.2.1.Khả năng áp dụng, nhân rộng:
Trên đây là những giải pháp tôi đã thực hiện để giúp học sinh lập được
dàn ý, viết được đoạn văn miêu tả nhằm nâng cao chất lượng viết văn và chất
lượng dạy học môn Tiếng Việt tại trường Tiểu học Tân Văn xã Tân Văn, huyện
Bình Gia nói riêng và học sinh tiểu học nói chung. Đề tài này đã được tơi nghiên
cứu và thực nghiệm trong thời gian năm học 2021– 2022 vì vậy đề tài có khả
năng ứng dụng, triển khai rộng rãi tại các trường có lớp tiểu học trên địa bàn
huyện, cũng như áp dụng với huyện khác, tỉnh khác cùng thực hiện.
3.2.2. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
Qua quá trình thực nghiệm đề tài nghiên cứu “Hướng dẫn lập dàn ý và
viết đoạn văn miêu tả cho học sinh lớp 4B trường Tiểu học Tân Văn”, qua một
thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp 4B, qua các kết quả kiểm tra cho
thấy, đề tài đã thu được một số kết quả nhất định.
* Đối với học sinh:
Học sinh có những chuyển biến rõ rệt trong việc học kiểu bài miêu tả của
chương trình mơn Tiếng Việt lớp 4. Tạo điều kiện cho mọi đối tượng học sinh
được trình bày sản phẩm của mình, được tranh luận để tìm ra cái mới.Trong các
giờ Tiếng Việt trong phân mơnTập làm văn kể cả giờ tìm ý, lập dàn ý, làm văn
miệng, làm văn viết và giờ trả bài. Trong tiết học các em được trải nghiệm thực
tế, được sáng tạo theo cách nghĩ, cách hiểu của mình dưới sự dẫn dắt của giáo
viên. Giúp học sinh thêm yêu quê hương, yêu cuộc sống, phát triển khả năng
giao tiếp. Tỉ lệ học sinh hồn thành tốt mơn học tăng lên rõ rệt. Nhiều học sinh
viết được bài văn hay, có cảm xúc.
* Đối với giáo viên:
Tạo cơ hội cho tất cả giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng
sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương pháp, kỹ
thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự giờ.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.
* Đối với phụ huynh:
Phụ huynh nhận thấy sự tiến bộ của con em mình về kĩ năng viết văn nên
phụ huynh thêm trách nhiệm, nhiệt tình hơn đối với các hoạt động dạy học, giáo
dục của nhà trường.
IV. KẾT LUẬN
Dạy văn miêu tả lớp 4 là một việc làm khó, nhất là nếu giáo viên đơn độc
thực hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn
bè đồng nghiệp. Đồng thời mỗi giáo viên cần thực hiện tốt các biện pháp rèn
22
23
23
luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu đề văn miêu tả, hướng dẫn học sinh tìm ý và
lập dàn ý và viết từng phần của bài văn, hướng dẫn học sinh lưu ý khi làm từng
kiểu văn miêu tả, hướng dẫn các em biết tự đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi
bài viết. Việc làm này sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo thành công cho các bài
viết sau. Vì vậy, giáo viên cần nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về
chuyên môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Như vậy sẽ phát
huy được sức mạnh của tập thể và mỗi giáo viên cũng học hỏi được từ đồng
nghiệp rất nhiều.
Trên đây là những nội dung tôi đã thực hiện và hiệu quả của sáng kiến
kinh nghiệm“Hướng dẫn lập dàn ý và viết đoạn văn miêu tả cho học sinh lớp
4B trường Tiểu học Tân Văn” do tôi đã áp dụng thực hiện trong năm học 2021 –
2022 tại đơn vị trường Tiểu học Tân Văn xã Tân Văn, huyện Bình Gia, tỉnh
Lạng Sơn rất mong được sự đóng góp của Hội đồng chấm sáng kiến kinh
nghiệm để sáng kiến ngày một hoàn thiện hơn./.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ
VỀ SÁNG KIÊN
Hà Thị Thùy
Dương Thanh Sơn
23
24
24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
ST
T
1
2
Tên tài liêu
Nhà xuất bản
Một số biện pháp dạy học văn miêu tả ở Tiểu
NXB - TPHCM
học
Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 4 tập 1, tập 2
Nhà xuất bản Giáo dục Việt
(Tài liệu dạy học theo mơ hình trường tiểu
Nam.
học mới)
3
Sách giáo viên Tiếng Việt 4
Nhà xuất bản Giáo dục
4
Phương pháp dạy học Tiếng Việt
Nhà xuất bản Giáo dục
5
Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt
Nhà xuất bản Giáo dục
6
7
8
9
Rẽn kĩ năng cảm thụ văn học cho học sinh Nhà xuất bản Giáo dục
tiểu học
Việt Nam
Nhà xuất bản ĐHQG Hà
Những bài văn miêu tả
Nội
Nhà xuất bản Đại học sư
Luyện tập làm văn 4
phạm
Một số thông tin trên mạng Internet...
24
25
25
PHỤ LỤC
Hướng dẫn sinh lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối bằng sơ đồ tư duy
Học sinh hướng dẫn các bạn trong lớp cách lập dàn ý bài văn tả cây cối
25