Câu 1: Anh/chị hiểu như thế nào về câu nói của Các Mác:" Cái cối
xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng
hơi nước đưa lại cho xã hội có nhà tư bản đại công nghiệp" (3 điểm)
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã nêu một tư tưởng
quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã
hội. C. Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, lồi người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội nhà tư bản công nghiệp”1.
Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì cơng cụ lao động có ý
nghĩa quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ
lao động, theo Ph. Ăngghen là “khí quan của bộ óc con người”, là “sức mạnh
của tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức
mạnh trí tuệ của con người. Cịn Mác gọi là hệ thống xương cốt và cơ bắp của
nền sản xuất Công cụ lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động. Trong q trình sản xuất, cơng cụ lao động
luôn luôn được cải tiến, tinh xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả
cao hơn. Nó là yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất.
Cùng với sự biến đổi vá phát triển của cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản
xuất, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ, phong
phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân cơng lao động phát
triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây ra
những biến đổi sâu sắc trong tồn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là
nguyên nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát triển của cơng cụ
lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở xác
định trình dộ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau
C. Mác và Ph. Angghen, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1995, Tập
4, Tr.187.
1
giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế
hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương lai. Vì vậy
những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao
động, khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh
nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa
đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng khơng thể phát huy được
tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Câu 2: Anh/chị hãy trình bày ý kiến của mình về việc vận dụng quan
điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người vào việc phát huy nguồn lực
con người tại chính nơi cơng tác của anh/chị hiện nay. (7 điểm)
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng
đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền tảng
quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển đó là nguồn lực con người.
Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là
yếu tố đóng vai trị quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự
phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà
chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội lồi người.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn
mạnh đến nguồn lực con nguời, coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng
nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Nhận thức về vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay nói chung và
trong đội ngũ giáo viên nói riêng.
Về cơ bản đội ngũ giáo viên có ý thức chính trị tốt, phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp trong sáng; phần lớn đều tận tuỵ với nghề, có tinh thần trách nhiệm
cao, chủ động, sáng tạo và quyết tâm tự bồi dưỡng nâng cao năng lực để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đại đa số giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về trình độ
đào tạo. Về nghiệp vụ sư phạm, phần lớn giáo viên đều đã qua đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm; trình độ tin học và ngoại ngữ của đội ngũ giáo viên
đã được nâng lên, đặc biệt ở đối tượng là giảng viên. Cơng tác đánh giá phân
loại giáo viên đã có nhiều đổi mới, bước đầu phát huy tính tích cực, tạo động lực
và khuyến khích đội ngũ giáo viên phấn đấu vươn lên.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, vẫn cịn có một số giáo viên thiếu tu
dưỡng, rèn luyện, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của
ngành giáo dục, giảm lịng tin của nhân dân và học sinh. Năng lực và trình độ
chun mơn nghiệp vụ sư phạm, trình độ tin học, ngoại ngữ của một bộ phận giáo
viên còn hạn chế; chưa thực sự đổi mới phương pháp giảng dạy, vẫn cịn có những
giáo viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đây là ngun nhân dẫn tới tình trạng
giáo viên gặp khó khăn trong việc tiếp cận với phương pháp giảng dạy tiên tiến….
Do vậy, vấn đề phát huy nguồn lực đội ngũ giáo viên hiện nay là rất quan trọng, để
phát huy nguồn lực đội ngũ giáo viên cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, cần phải quy hoạch, sắp xếp lại một cách đồng bộ, hợp lý mạng
lưới các trường đào tạo ngành sư phạm, các khoa sư phạm và các cơ sở đào tạo
bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục và đào tạo. Có cơ chế,
chính sách ưu tiên đặc thù đối với các cơ sở đào tạo giáo viên sư phạm để thu
hút sinh viên có năng lực học tập giỏi vào đào tạo các ngành nghề sư phạm.
Hai là, tiếp tục rà soát, thống kê, dự báo nhu cầu về đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục gắn với từng cấp học, bậc học, thậm chí là từng mơn
học, theo từng vùng, miền, từng địa phương để có những số liệu chính xác về
nhu cầu đội ngũ, qua đó có chủ trương, chính sách đào tạo, bồi dưỡng phát triển
đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục đảm bảo sự cân đối, hợp lý.
Ba là, tiếp tục đổi mới, hồn thiện chương trình đào tạo sư phạm theo
hướng hiện đại đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục, đào tạo và
địi hỏi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Bốn là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, tài chính ở các trường sư phạm,
các khoa sư phạm, cũng như các trường phổ thông đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục; xây dựng cơ chế, chính sách tiền lương, tuyển chọn, sàng lọc, xắp xếp, bố
trí sử dụng, khen thưởng, ưu đãi, tôn vinh đối với nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục cơ sở giáo dục một cách hợp lý; tổ chức thường xuyên và có chất lượng
việc đào tạo lại, bồi dưỡng năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, năng
lực quản lý cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ở các cơ sở giáo
dục; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo…
Thực hiện tốt những nội dung cơ bản trên sẽ góp phần phát huy nguồn lực
con người trong ngành giáo dục hiện nay, góp phần xây dựng đội ngũ giáo viên
có trình độ, năng lực, nhiệt huyết, u nghề đáp ứng sự nghiệp giáo dục và đào
tạo của nước ta trong gai đoạn hiện nay.