TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA: KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
BÀI THẢO LUẬN
CHÍNH SÁCH KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài: Phân tích những ứng xử của Việt Nam trong quá trình
tham gia vụ kiện chống phá giá và chống trợ cấp đối với tôm
nước ấm đông lạnh
Giảng viên giảng dạy: Lê Hải Hà
Nhóm: 1
Lớp: 2101FECO2051
Hà Nội, tháng 4 năm 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 2
I. KHÁI QUÁT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ, CHỐNG TRỢ CẤP.......................3
1.1. Bán phá giá và chống bán phá giá......................................................................3
1.2. Trợ cấp và chống trợ cấp.....................................................................................6
II: NHỮNG ỨNG XỬ CỦA VIỆT NAM TRONG VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ
GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP ĐỐI VỚI MẶT HÀNG TÔM NƯỚC ẤM ĐƠNG
LẠNH........................................................................................................................... 9
2.1 Việt Nam trong q trình chống bán phá đối với mặt hàng tôm nước ấm đông
lạnh............................................................................................................................... 9
2.1.1 Bối cảnh phát sinh vụ kiện.................................................................................9
2.1.2 Quy trình khởi kiện của Việt Nam....................................................................11
2.1.3. Tác động của vụ kiện.......................................................................................20
2.2 Việt Nam trong quá trình chống trợ cấp với mặt hàng tôm nước ấm đông
lạnh............................................................................................................................. 21
2.2.1 Bối cảnh phát sinh vụ kiện...............................................................................21
2.2.2 Quy trình vụ kiện...............................................................................................21
2.2.3 Tác động của vụ kiện........................................................................................28
III. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ NHỮNG ỨNG XỬ CỦA VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH THAM GIA VỤ KIỆN CHỐNG PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP
ĐỐI VỚI TÔM NƯỚC ẤM ĐÔNG LẠNH............................................................29
3.1 Về sự chuẩn bị, tham gia tố tụng, những vấn đề cần rút kinh nghiệm..............29
3.2 Vấn đề về thuê Luật sư, cơng tác vận động hành lang trong và ngồi WTO30. 30
3.3 Vấn đề quy chế kinh tế phi thị trường.................................................................31
3.4. Đóng góp của các doanh nghiệp, Hiệp hội.........................................................32
3.5. Một số vấn đề khác..............................................................................................33
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ VỤ KIỆN........................................................34
4.1 Ý nghĩa của vụ kiện..............................................................................................34
4.2 Bài học kinh nghiệm............................................................................................34
4.2.1 Về phía Doanh nghiệp......................................................................................35
4.2.2 Về phía Chính phủ............................................................................................36
KẾT LUẬN................................................................................................................ 40
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thương mại quốc tế hiện nay, các tranh chấp về chống bán phá giá, chồng trợ
cấp ngày càng trở nên phức tạp và phổ biến khi mà các biện pháp chống bán phá giá,
chồng trợ cấp đang được nhiều quốc gia, trong đó chủ yếu là các nước phát triển sử
dụng như một rào cản trong thương mại và bảo hộ cho ngành sản xuất nội địa.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO và
được hưởng quy chế dành cho một thành viên đang phát triển. Kể từ thời điểm đó Việt
Nam có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt
dành cho thành viên đang phát triển trong giải quyết tranh chấp tại WTO để bảo vệ
những lợi ích chính đáng của mình. Qua từng vụ tranh chấp, Việt Nam, ở một mức độ
nhất định, đã tham gia chủ động và tích cực vào cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO. Tuy nhiên sự tham gia đó vẫn cịn những hạn chế bởi tính phức tạp của các vụ
tranh chấp về chống bán phá giá, chống trợ cấp tại WTO cũng như cơ chế điều phối
của chính Việt Nam.
Sau 4 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã có một khởi đầu quan trọng trong việc sử
dụng Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các
doanh nghiệp Việt Nam trong thương mại quốc tế: Ngày 01/02/2010, Chính phủ Việt
Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Chính phủ Hoa Kỳ liên quan đến các biện pháp chống
bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam. Ngày
11/7/2011, Ban Hội thẩm (WTO) đã ban hành và gửi báo cáo giải quyết tranh chấp tới
các bên liên quan. Báo cáo ủng hộ hầu hết những lập luận Việt Nam đưa ra trong tham
vấn.
Dưới đây là nội dung về chống bán phá giá, chống trợ cấp và thông tin, những ứng xử
của Việt Nam trong quá trình tham gia vụ kiện.
2
I. KHÁI QUÁT VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ, CHỐNG TRỢ CẤP
1.1. Bán phá giá và chống bán phá giá
a. Bán phá giá là gì?
Bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện tượng xảy ra khi một loại hàng
hóa được XK với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị trường nội địa nước
XK. Như vậy có thể hiểu đơn giản là nếu giá XK của một mặt hàng thấp hơn giá nội
địa của nó thì sản phẩm đó bị coi là bán phá giá.
b. Tại sao bán phá giá?
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá trong thương mại quốc
tế. Nhiều trường hợp cố tình bán phá giá nhằm đạt được những lợi ích nhất định như:
Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước NK từ đó chiếm thế
độc quyền; Bán giá thấp tại thị trường nước NK để chiếm lĩnh thị phần; Bán giá thấp
để thu ngoại tệ mạnh... Đôi khi việc bán phá giá là việc bất đắc dĩ do nhà sản xuất, XK
khơng bán được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị
hỏng... nên đành bán tháo để thu hồi vốn. Trong thương mại quốc tế, thuế chống bán
phá giá có thể bị áp đặt mà khơng quan tâm đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá.
Bán phá giá sang thị trường nước ngoài thường bị coi là một hiện tượng tiêu cực do nó
làm giảm khả năng cạnh tranh về giá và thị phần của sản phẩm nội địa của nước NK.
Tuy nhiên, bán phá giá có thể có tác động tích cực đối với nền kinh tế: người
tiêu dùng được lợi vì giá rẻ; nếu hàng bị bán phá giá là nguyên liệu đầu vào của một
ngành sản xuất khác, giá nguyên liệu rẻ có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất định của
ngành đó,... Vì thế khơng phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện pháp
chống bán phá giá. Theo quy định của WTO, các biện pháp chống bán phá giá chỉ
được thực hiện trong những hoàn cảnh nhất định và phải đáp ứng các điều kiện nhất
định. Cụ thể, các biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ
ba điều kiện sau đây: Hàng NK bị bán phá giá; Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của
nước NK bị thiệt hại đáng kể; Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng NK bán phá
giá và thiệt hại nói trên.
3
c. Thuế chống bán phá giá?
Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế NK thông
thường, đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước NK. Đây là loại thuế
nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng NK bán phá
giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như một
hình thức "bảo hộ hợp pháp" đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện
tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành viên WTO đã cùng thoả thuận về các
quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra và áp đặt thuế chống bán
phá giá, tập trung trong một Hiệp định về chống bán phá giá của WTO - Hiệp định
ADA.
d. Xác định bán phá giá
Một sản phẩm bị xem là bị bán phá giá nếu có giá XK thấp hơn giá thông
thường.
Xác định bán phá giá
Giá thông thường (giá TT) - Giá XK = X (Nếu X > 0 thì có hiện tượng bán phá giá)
Giá xuất khẩu
Giá XK sử dụng để tính tốn việc bán phá giá được tính theo một trong các
cách sau:
1, Giá XK là giá trong hợp đồng XK;
2, Giá XK là giá bán sản phẩm liên quan cho người mua độc lập đầu tiên tại nước
nhập khẩu; hoặc một trị giá tính tốn theo những tiêu chí hợp lý do cơ quan có thẩm
quyền quyết định.
Cách 1 là cách tính chuẩn và được ưu tiên áp dụng trước (trong các điều kiện
thương mại thông thường và có hợp đồng XK). Chỉ khi khơng đáp ứng các điều kiện
áp dụng cách 1 (khi khơng có giá XK hoặc khi giá XK khơng đáng tin cậy) thì giá XK
mới được tính theo cách 2.
Giá thơng thường
4
Giá TT sử dụng để xác định bán phá giá tính theo những cách sau:
Cách 1: Giá TT = giá bán tại thị trường nội địa nước XK của sản phẩm tương tự với
sản phẩm bị điều tra (SPTT) với điều kiện: SPTT được bán tại nước XK trong điều
kiện thương mại bình thường; SPTT phải được bán tại nước XK với số lượng đáng kể
(5% số lượng sản phẩm bị điều tra xuất sang nước NK trừ trường hợp đặc biệt).
Cách 2: Giá TT = giá bán của SPTT từ nước XK sang một nước thứ ba nếu mức giá
này có thể so sánh được và có tính đại diện.
Cách 3: Giá TT theo trị giá tính tốn = Giá thành sản xuất + Các chi phí (gồm chi phí
bán hàng, quản trị, chung) + Lợi nhuận hợp lý.
Cách 1 là cách tính được ưu tiên xem xét áp dụng trước trong tất cả các trường hợp.
Chỉ khi không đáp ứng được các điều kiện để sử dụng cách 1 thì giá TT mới được tính
theo cách 2 hoặc cách 3.
Trường hợp hàng hố khơng xuất thẳng từ nước sản xuất sang nước NK mà
được xuất sang một nước thứ ba (trung gian) trước khi vào nước NK, giá TT sẽ được
xác định theo giá bán của SPTT tại thị trường nước trung gian đó. Tuy nhiên, giá TT
vẫn có thể được xác định theo cách bình thường (như khi xuất trực tiếp) nếu: Sản
phẩm chỉ đơn thuần chuyển qua cảng của nước thứ ba; hoặc nước thứ ba khơng sản
xuất sản phẩm đó hoặc khơng có mức giá đem ra so sánh.
Đối với trường hợp nước XK có nền kinh tế phi thị trường, khi tính tốn giá
TT, nước NK được phép bỏ qua các cách tính bình thường và tự mình xác định một
cách thức tính hợp lý. Thường thì cơ quan có thẩm quyền của nước NK, sau khi kết
luận rằng nước XK có nền kinh tế phi thị trường, có thể sẽ bỏ qua các số liệu về chi
phí, giá cả nội địa nước XK và chọn một nước thứ ba thay thế (dùng giá bán hoặc các
chi phí sản xuất sản phẩm tại nước này) để tính giá TT của sản phẩm đang điều tra.
Cách tính này có thể gây ra nhiều bất lợi cho các nhà sản xuất, XK do giá TT thường
bị đội lên cao bởi: Cơ quan có thẩm quyền của nước NK có quyền tự do lựa chọn một
nước thứ ba thay thế và giá cả ở nước này có thể khác xa giá cả tại nước XK do có các
điều kiện, hoàn cảnh thương mại khác nhau; Các nhà sản xuất SPTT tại nước thứ ba
được lựa chọn là đối thủ cạnh tranh của các Cty đang bị điều tra và vì thế họ có thể
5
khai báo mức giá khiến kết quả so sánh giá XK với giá TT bất lợi cho những nhà sản
xuất, XK của nước XK liên quan...
1.2. Trợ cấp và chống trợ cấp
a. Trợ cấp là gì ?
Trong WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước
hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức
sau mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
(1)
Hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần)
hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
(2)
Miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín
dụng);
(3) Mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hoá (trừ cơ sở hạ tầng chung);
(4)
Thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành
các hoạt động (1), (2), (3) nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
Các khoản hỗ trợ này được hiểu là mang lại lợi ích cho đối tượng được hưởng
hỗ trợ nếu nó được thực hiện theo cách mà một nhà đầu tư tư nhân, một ngân hàng
thương mại…bình thường sẽ khơng khi nào làm như vậy (vì đi ngược lại những tính
tốn thương mại thơng thường).
b. Các loại trợ cấp
Có 03 loại trợ cấp, với quy chế áp dụng khác nhau:
* Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ)
Bao gồm:
- Trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất
khẩu, trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà
sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín
dụng xuất khẩu…); hoặc
6
- Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu
Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp
dụng.
* Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh)
Bao gồm:
- Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp không hướng tới một (một
nhóm) doanh nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ cấp là khách
quan; khơng cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tuỳ tiện xem xét và không tạo
ra hệ quả ưu đãi riêng đối với bất kỳ đối tượng nào; hoặc
- Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):
+
Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên cứu tiến hành
(với một số điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);
+
Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu
nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp)
+
Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường
kinh doanh mới
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên
khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện).
* Trợ cấp khơng bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng)
Bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh). Các
nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho
nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước thành viên
khác thì có thể bị kiện ra WTO.
c. Thuế chống trợ cấp
7
Thuế chống trợ cấp (còn gọi là thuế đối kháng) là khoản thuế bổ sung (ngồi
thuế nhập khẩu thơng thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào nước
nhập khẩu
Đây là biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) nhằm vào các
nhà sản xuất xuất khẩu nước ngồi được trợ cấp (thơng qua thủ tục điều tra chống trợ
cấp do nước nhập khẩu tiến hành) chứ khơng nhằm vào chính phủ nước ngồi đã thực
hiện việc trợ cấp (WTO quy định các cơ chế xử lý khác mang tính đa phương cho
trường hợp này).
d. Điều kiện áp dụng thuế chống trợ cấp là gì?
Khơng phải cứ có hiện tượng hàng hố nước ngồi được trợ cấp là nước nhập
khẩu có thể áp dụng các biện pháp đối kháng đối với hàng hố đó.
Theo quy định của WTO thì việc áp dụng các biện pháp đối kháng chỉ có thể
thực hiện nếu cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu, sau khi đã tiến hành điều
tra chống trợ cấp, ra kết luận khẳng định sự tồn tại đồng thời của cả 03 điều kiện sau:
(1) Hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp (với biên độ trợ cấp không thấp hơn 1%);
(2)
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể hoặc
bị đe doạ thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản đáng kể sự hình thành của ngành sản xuất
trong nước (gọi chung là yếu tố “thiệt hại”);
(3)
Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu được trợ cấp và thiệt hại nói
trên;
e. Thuế chống trợ cấp được áp dụng như thế nào?
- Về việc rà soát lại mức thuế: Sau khi áp thuế một thời gian (thường là theo
từng năm) cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra lại để xem xét tăng, giảm mức thuế hoặc
chấm dứt việc áp thuế đối kháng nếu có yêu cầu;
- Về thời hạn áp thuế: Việc áp thuế chống trợ cấp không được kéo dài quá 5
năm kể từ ngày có Quyết định áp thuế hoặc kể từ ngày tiến hành rà soát lại trừ khi cơ
8
quan có thẩm quyền thấy rằng việc chấm dứt áp thuế sẽ dẫn tới việc tái trợ cấp hoặc
gây thiệt hại;
- Về hiệu lực của việc áp thuế: Quyết định áp thuế chỉ có hiệu lực đối với hàng
hố liên quan nhập khẩu sau thời điểm ban hành Quyết định; việc áp dụng hồi tố (áp
dụng cho những lô hàng nhập khẩu trước thời điểm ban hành Quyết định) chỉ được
thực hiện nếu thiệt hại gây ra cho ngành sản xuất nội địa là thiệt hại thực tế.
f. Mức trợ cấp được xác định như thế nào?
Để xác định hàng hố nhập khẩu có được trợ cấp hay khơng, cơ quan điều tra
nước nhập khẩu sẽ tiến hành tính tốn mức trợ cấp của hàng hố đó. Phương pháp tính
tốn chi tiết tuân thủ pháp luật của nước điều tra về vấn đề này, nhưng về cơ bản theo
các hướng dẫn sau:
- Nếu Nhà nước cho doanh nghiệp vay một khoản với mức lãi suất thấp hơn mức lãi
suất thương mại bình thường cho khoản vay tương tự: Mức trợ cấp được tính là phần
chênh lệch giữa 2 mức lãi suất này;
- Nếu Nhà nước bảo lãnh vay với phí bảo lãnh thấp hơn chi phí mà doanh nghiệp phải
trả cho khoản vay thương mại tương tự nếu khơng có bảo lãnh của Nhà nước: Mức trợ
cấp sẽ được tính là phần chênh lệch giữa 2 mức này;
- Nếu Nhà nước mua hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ với giá mua cao hơn mức hợp
lý hoặc giá cung cấp thấp hơn mức hợp lý (xác định theo các điều kiện thị trường của
hàng hoá/dịch vụ liên quan): mức trợ cấp là mức chênh lệnh giá.
Biên độ trợ cấp được tính theo phần trăm mức trợ cấp trên trị giá hàng hoá.
II: NHỮNG ỨNG XỬ CỦA VIỆT NAM TRONG VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ
GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP ĐỐI VỚI MẶT HÀNG TÔM NƯỚC ẤM ĐÔNG
LẠNH
2.1 Việt Nam trong quá trình chống bán phá đối với mặt hàng tơm nước ấm đông
lạnh
2.1.1 Bối cảnh phát sinh vụ kiện
9
Vụ điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của
Việt Nam do Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi xướng tháng 1/2004. Việc điều tra
được tiến hành đối với 3 doanh nghiệp bị đơn có lượng xuất khẩu lớn nhất (bao gồm:
Minh Phú, Minh Hải và Camimex – gọi là bị đơn bắt buộc). Tháng 2/2005, DOC
chính thức áp thuế chống bán phá giá với các thuế suất: (i) từ 4,3% đến 5,24% đối với
từng bị đơn bắt buộc; (ii) mức 4,57% (là mức bình quân gia quyền của thuế suất áp
dụng cho 3 bị đơn bắt buộc) đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều
tra; và (iii) mức thuế suất toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại. Theo
pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau tròn mỗi năm kể từ ngày lệnh áp thuế
chống bán phá giá của DOC được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà sốt hành chính để
xét lại mức thuế chính thức mà DOC đã áp đối với khoảng thời gian 1 năm liền trước
đó. Theo đó, tính tới thởi điểm tháng 2/2010 (thời điểm Việt Nam đệ đơn yêu cầu
tham vấn CP Hoa Kỳ), DOC đã tiến hành 3 cuộc rà sốt hành chính (POR) (bên
ngun đơn đã khơng u cầu rà sốt hành chính năm đầu tiên sau khi đã thống nhất
với phía Việt Nam). Tuy nhiên, vào thời điểm đó mới chỉ có kết quả cuối cùng của đợt
rà sốt hành chính hai và ba.
Trong đợt rà soát lần thứ hai - POR2 (04/2007), có khoảng 30 doanh nghiệp
xuất khẩu tơm của Việt Nam đã đăng ký tham gia rà soát. Tuy nhiên, DOC chỉ chọn 2
doanh nghiệp (Công ty Minh Phú và Camimex) là bị đơn bắt buộc dựa trên tiêu chí là
doanh nghiệp có lượng xuất khẩu lớn nhất. Ngày 02/09/2008, DOC đã ban hành
Quyết định cuối cùng về kết quả rà sốt POR2. Theo đó, mức thuế suất của các bị đơn
bắt buộc (Minh Phú, Camimex) đạt mức thuế suất không đáng kể (0-0,01%). Tuy
nhiên, mức thuế suất này không được áp dụng cho các bị đơn tự nguyện (gồm các
doanh nghiệp xuất khẩu tơm Việt Nam có tham gia vào đợt rà sốt lần 2 nhưng khơng
được DOC lựa chọn làm bị đơn bắt buộc) mà các bị đơn tự nguyện không được lựa
chọn bị áp thuế theo mức thuế suất từ điều tra ban đầu là 4,57%, mức thuế suất toàn
quốc cũng áp dụng theo điều tra ban đầu là 25.76%.
Trong đợt rà soát lần thứ ba – POR3 (04/2008), DOC chọn 3 doanh nghiệp
(Công ty Minh Phú, Camimex và Công ty Phương Nam) trong số 28 doanh nghiệp
đăng ký tham gia rà soát để tiến hành điều tra đầy đủ. Ngày 15/09/2009, Quyết định
10
cuối cùng về kết quả rà soát POR3 được ban hành, trong đó, 3 doanh nghiệp bị đơn
bắt buộc đều nhận được mức thuế suất tối thiểu (Minh Phú: 0,43%; Camimex: 0,08%;
Phương Nam: 0,21%), nhóm các doanh nghiệp bị đơn tự nguyện không được hưởng
mức thuế suất theo thực tế điều tra mà tiếp tục bị áp thuế chống bán phá giá theo điều
tra ban đầu là 4,57%, thuế suất toàn quốc là 25,76%.
Trước nguy cơ DOC tiếp tục dùng các phương pháp tính tốn như đã dùng
trong POR2 và POR3 dẫn tới kết quả rất bất lợi trong POR4 (đặc biệt liên quan đến cơ
hội thốt hồn tồn khỏi vụ kiện của các doanh nghiệp có kết luận 3 lần biên độ phá
giá tối thiểu), Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) và Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chủ động đưa ra phân tích và kiến nghị đề
xuất kiện Hoa Kỳ ra WTO lên Chính phủ. Tháng 2/2010, Chính phủ đã chấp thuận đề
xuất này và bắt đầu vụ kiện bằng tham vấn gửi Chính phủ Hoa Kỳ.
❖ Biện pháp mà Mỹ áp dụng trong tính tốn biên độ phá giá:
- Sử dụng phương pháp “Quy về 0 – Zeroing” trong tính toán biên độ phá giá:
Phương pháp “Quy về 0” trong điều tra rà soát thuế chống bán phá giá là một thông lệ
được Hoa Kỳ sử dụng trong hầu hết các vụ điều tra chống bán phá giá của nước này.
Nội dung của phương pháp này là khi tính tốn biên độ phá giá chung, Bộ Thương
mại Hoa Kỳ (DOC) chỉ tính các biên độ phá giá có giá trị dương (lớn hơn 0), biên độ
phá giá có giá trị âm sẽ được tự động chuyển về thành 0. Với phương pháp này, biên
độ phá giá chung được tính tốn sẽ cao hơn, từ đó mức thuế chống bán phá giá cũng
bị đội lên rất nhiều.
2.1.2 Quy trình khởi kiện của Việt Nam
Bước 01: Nộp đơn khởi kiện
-
Nguyên đơn: Việt Nam
-
Bị đơn: Hoa Kỳ
-
Ngày yêu cầu tham vấn: 01/02/2010
Ngày 1/2/2010, Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Hoa Kỳ liên quan đến một
số biện pháp chống bán phá giá đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt
11
Nam. Ngồi những rà sốt hành chính và rà sốt đối với các nhà nhập khẩu mới, tham
vấn còn đề cập đến một số điều luật, quy định, thực tiễn và thủ tục hành chính của
Hoa Kỳ bao gồm cả phương pháp “quy về 0”.
Việt Nam cho rằng các biện pháp này không phù hợp với nghĩa vụ của Hoa Kỳ
theo: - Điều I, II, VI:1 và VI:2 của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT 1994).
- Các điều 1, 2.1, 2.4, 2.4.2, 6, 9, 11, 17.6(i) và Phụ lục II của Hiệp định về chống bán
phá giá.
- Điều XVI: 4 của Hiệp định WTO
- Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
Tham vấn giữa hai bên nhằm giải quyết ổn thỏa, nhanh chóng vụ việc đã khơng
thành cơng. Ngày 7/4/2010 Việt Nam chính thức đề nghị WTO thành lập Ban Hội
thẩm giải quyết tranh chấp này theo Cơ chế giải quyết trong khuôn khổ WTO
Bước 2: Khởi xướng điều tra
Ngày 07/04/2010, Việt Nam yêu cầu Cơ quan Giải quyết Tranh chấp trong
WTO (DSB) thành lập Ban Hội thẩm.
Tại cuộc họp ngày 18/05/2010, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp trong WTO
(DSB) đã quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Nội dung tranh chấp của vụ việc này
của Việt Namthu hút sự quan tâm của nhiều bên.
Có tới 7 nước đăng ký tham gia với tư cách bên thứ ba vào vụ kiện này (bao
gồm: Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc và
Ấn Độ). Đa số các nước này trong quá trình xem xét của Ban Hội thẩm đều có ý kiến
ủng hộ quan điểm của Việt Nam (trừ trong một số hãn hữu vấn đề mà họ khơng có
cùng mối quan tâm như Việt Nam – ví dụ về phương pháp sử dụng đối với nước có
nền kinh tế phi thị trường).
12
Điều này một mặt cho thấy Việt Nam đã lựa chọn trúng và đúng các vấn đề.
Mặt khác sự ủng hộ rất tích cực cũng góp phần mang đến quyết định có lợi cho Việt
Nam của Ban Hội thẩm.
Bước 3: Điều tra sơ bộ
Trong tranh chấp này, Việt Nam khởi kiện một số khía cạnh trong Quyết định
cuối cùng của Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong vụ kiện chống bán phá giá đối với sản
phẩm tôm nước ấm đông lạnh của Việt Nam. Cụ thể, Việt Nam khởi kiện việc DOC
“tiếp tục sử dụng”, trong một số thủ tục, cũng như việc áp dụng trong rà soát lần hai
và lần ba. Các thủ tục bị khiếu kiện bởi Việt Nam bao gồm:
- Việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ sử dụng Zeroing (“quy về 0”) trong việc tính
tốn biên độ phá giá trong bối cảnh của các cuộc rà soát.
- Việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ giới hạn số lượng các nhà xuất khẩu hay sản
xuất được lựa chọn trong các cuộc điều tra riêng biệt hay rà soát.
- Việc sử dụng quy tắc thuế suất toàn quốc xác định trên cơ sở các số liệu có
sẵn, trái với thực tế đối với các nhà xuất khẩu hoặc sản xuất Việt Nam khơng chứng
minh được việc họ độc lập với chính phủ Việt Nam trong hoạt động thương mại và
bán hàng.
Thêm vào đó, Việt Nam khiếu kiện các thuế suất chung do Bộ thương mại Hoa Kỳ
sử dụng trong trong rà soát lần hai và lần ba.
Các yêu cầu của Hoa Kỳ trong phán quyết giữa kỳ:
Hoa Kỳ phản đối tạm thời các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm. Đặc
biệt, Hoa Kỳ cho rằng, biện pháp miêu tả bởi Việt nam là “tiếp tục sử dụng các thủ
tục khiếu kiện” trong các thủ tục liên tục của vụ chống bán phá giá tơm đã:
- Nằm ngồi phạm vi các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm vì không
được nêu rõ trong yêu cầu tham vấn Ban Hội thẩm của Việt Nam.
-Không phải là đối tượng của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO vì nó có
mục đích bao gồm các biện pháp trong tương lai. Ban Hội thẩm đồng ý với yêu cầu
13
của Hoa Kỳ về một phán quyết tạm thời liên quan tới khía cạnh này. Ban Hội thẩm kết
luận rằng yêu cầu tham vấn Ban Hội thẩm của Việt Nam không chỉ rõ tiêu chuẩn “tiếp
tục sử dụng các thủ tục khiếu kiện” như là tiêu chuẩn cần xem xét trong tranh chấp
này, theo Điều 6.2 của DSU.
Bước 4: Kết luận sơ bộ
Theo Điều 19.1 của DSU , Hoa Kỳ đã hành động không phù hợp với các điều
khoản của Hiệp định CBPG và GATT , Ban Hội thẩm khuyến nghị Hoa Kỳ áp dụng
các biện pháp phù hợp với các nghĩa vụ trong các Hiệp định đó . Ngày 02/09/2011,
báo cáo của Ban Hội thẩm được thông qua.
Tại cuộc họp của Cơ quan Giải quyết tranh chấp trong WTO ngày 27/09/2011,
Hoa Kỳ ra thông báo về kế hoạch thực thi khuyến nghị, phán quyết của DSB để tuân
thủ các nghĩa vụ của minh trong WTO. Hoa Kỳ cho rằng cần một khoảng thời gian
hợp lý để thực hiện thay đổi. Ngày 31/10/2011, Việt Nam và Hoa Kỳ đã thông báo lên
DSB về việc hai bên nhất trí khoảng thời gian hợp lý để Hoa Kỳ thực hiện các khuyến
nghị và phán quyết là 10 tháng. Theo đó, khoảng thời gian này sẽ hết hiệu lực vào
02/07/2012.
Bước 5: Tiếp tục điều tra
Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới quy về 0.
Ban Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam rằng việc Bộ Thương mại Hoa
Kỳ sử dụngquy về 0” khi tính biên độ phá giá cho các nhà xuất khẩu được lựa chọn
trong cuộc kiểm tra riêng lẻ khitiến hành rà soát lần hai và lần ba là không phù hợp
với Điều 2.4 của Hiệp định chống bán phá giá (CBPG). Ban Hội thẩm thực thi điều
khoản nền kinh tế tư pháp liên quan tới các khiếu kiện vi phạm bổ sung theo Điều 9.3,
2.1 và 2.4.2 của Hiệp định CBPG.
Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam rằng phương pháp “quy về 0” của
Hoa Kỳ, liên quan tới việc sử dụng “quy về 0” trong rà sốt hành chính, là khơng phù
hợp với Điều 9.3 của Hiệp định CBPG và Điều VI: 2 của GATT 1994. Ban Hội thẩm
ban đầu kết luận rằng Việt Nam đã chứng minh được sự tồn tại của “phương pháp quy
14
về 0” như một điều luật hay quy tắc chung và cả áp dụng trong tương lai. Ban Hội
thẩm sau đó, dựa vào phán quyết trước đó của Cơ quan Phúc thẩm, đã kết luận “quy
về 0” trong rà soát hành chính, “vì thế”,khơng phù hợp với hai điều khoản nêu trên.
Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới quyết định giới hạn số lượng các
nhà xuất khẩu được chọn điều tra của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
Việt Nam cho rằng Bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã áp dụng câu thứ hai của Điều
6.10 của Hiệp định CBPG , cho phép trong vài trường hợp nhất định , các cơ quan
điều tra được xác định biên độ phá giá riêng cho chỉ một số nhà xuất khẩu được chọn
điều tra , nhằm mục đích tước bỏ quyền lợi chính đáng của các nhà xuất khẩu bị điều
tra Việt Nam theo câu đầu tiên của Điều 6.10 ( đưa ra các quy tắc chung mà biên độ
phá giá riêng được xác định cho từng nhà xuất khẩu bị điều tra ) cũng như theo Điều
9.3 , 11.1 và 11.3 của Hiệpđịnh CBPG. Ban Hội thẩm bác bỏ những khiếu kiện này.
Nguyên nhân là do Việt Nam đã không khẳng định việc giới hạn điều tra của Bộ
Thương mại Hoa Kỳ trong ra soát lần 2 và lần 3 là không phù hợp với câu thứ hai của
Điều 6.10, và cho rằng khơng có điều khoản nào do Việt Nam trích dẫn áp đặt bất kỳ
giới hạn nào trong việc các cơ quan có thẩm quyền tự hạn chế cuộc điều tra của họ,
trừ những điều được quy định trong điều khoản đó.
Thêm vào đó, Việt Nam đã đưa ra hai khiếu kiện khác nhau theo Điều 6.10.2
của Hiệp định CBPG:
a. Việt Nam cho rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã vi phạm câu đầu tiên của Điều
6.10.2 của Hiệp định CBPG, cho phép các cơ quan có thẩm quyền khi giới hạn cuộc
kiểm tra sẽ xác định biên độ phá giá riêng cho các nhà xuất khẩu không được lựa chọn
kiểm tra mà có phản hồi tự nguyện. Ban Hội thẩm bác bỏ khiếu kiện này của Việt
Nam, vì Việt Nam đã không thể đưa ra được bất kỳ ví dụ nào trong đó các nhà xuất
khẩu được lựa chọn Việt Nam đưa ra một phản hồi tự nguyện.
b. Việt Nam còn khẳng định rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã hành động khơng phù
hợp với chính quy định của cơ quan này theo câu thứ hai của Điều 6.10.2, cho phép
“phản hồi tự nguyện sẽ không bị ngăn cản”. Ban Hội thẩm bác bỏ khiếu kiện này, kết
luận rằng Việt Nam đã không chứng minh được hành động của Bộ Thương mại Hoa
15
Kỳ trong các cuộc rà sốt hành chính đã “cản trở” hợp pháp việc đưa ra các phản hồi
tự nguyện từ các nhà xuất khẩu bị điều tra của Việt Nam.
Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới thuế suất “chung” áp dụng cho các
nhà xuất khẩu không được lựa chọn
Điều 9.4 không chỉ rõ rằng thuế suất “chung” lớn nhất có thể áp dụng với các
nhà xuất khẩu không được lựa chọn trong trường hợp mà biên độ của các nhà xuất
khẩu được lựa chọn bằng 0, sẽ là biên độ phá giá tối thiểu hay dựa trên cơ sở thực tế.
Trong các phán quyết trước đó, Cơ quan Phúc thẩm đã coi điều này như khiếm khuyết
của Điều 9.4. Trong tình huống khiếm khuyết” của cả hai cuộc rà sốt hành chính liên
quan, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã áp dụng thuế suất “chung” ban đầu, xác định trong
cuộc điều tra gốc, phù hợp với trọng số trung bình của biên độ phá giá riêng lẻ trong
cuộc điều tra và được tính tốn bằng phương pháp quy về 0. Việt Nam cho rằng việc
Bộ Thương mại Hoa Kỳ sử dụng thuế suất “chung” trong các cuộc rà sốt hành chính
là khơng phù hợp với Điều 9.4 của Hiệp định CBPG. Đặc biệt, Việt Nam khẳng định
việc áp dụng thuế suất chung được tính tốn dựa trên cơ sở biên độ phá giá tính với
quy về 0 là không phù hợp với điều khoản này. Ban Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của
Việt Nam về vấn đề này. Ban Hội thẩm không giải quyết lập luận thứ hai, nhằm bổ
sung cho khiếu kiện liên quan tới Điều 9.4 của Việt Nam, ấy là việc áp dụng thuế suất
chung không được coi là kết quả từ các cuộc điều tra độc lập với từng nhà xuất khẩu
được lựa chọn thơng qua một q trình liên tục và đưa ra mức thuế chống bán phá giá
bất lợi cho các công ty không được lựa chọn trong cuộc điều tra riêng cũng là khơng
phù hợp với điều khoản đó . Ban Hội thẩm cũng thực thi điều khoản nền kinh tế tư
pháp liên quan tới các khiếu kiện vi phạm bổ sung theo Điều 9.3, 2.4.2 và 2.4 của
Hiệp định CBPG. Các khiếu kiện của Việt Nam liên quan tới biên độ phá giá phân
bổtheo quy tắc thuế suất toàn quốc.
Ban Hội thẩm ủng hộ khiếu kiện của Việt Nam rằng Bộ Thương mại Hoa Kỳ
đã hành động không phù hợp với Điều 9.4 của Hiệp định CBPG khi mà áp dụng sai
theo quy tắc thuếsuất toàn quốc mức thuế suất chung cho các nhà xuất khẩu không
được lựa chọn điều tra . Ban Hội thẩm giải thích rằng Điều 9.4 không quy định rằng
cơ quan thẩm quyền của nước nhập khẩu có quyền đưa ra điều kiệnáp dụng thuế suất
16
chungtùy thuộc vào việc hồn thành các quy định, ví dụ độc lập từ phía chính phủ.
Ban Hội thẩm cũng cho rằng sự xuất hiện của tình huống khiếm khuyết không cho
phép các cơ quan điều tra không áp dụng thuế suấtchung cho các cơng ty xuất khẩu,
trừ khi có quy định về việc sử dụng thuế suất đó.
Thêm vào đó, Ban Hội thẩm cho rằng việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ áp dụng
thuế suất từ dữ liệu sẵn có trên tồn quốc trong rà sốt hành chính lần hai và mức thuế
suất thực chất dựa trên dữ liệu sẵn có trong rà sốt hành chính lần thứ ba, là không
phù hợp với Điều 6.8 của Hiệp định CBPG.
Các vấn đề khác liên quan tới các điều khoản tham chiếu của Ban Hội thẩm
Việt Nam khiếu kiện việc vi phạm Điều 17.6 (i) của Hiệp định CBPG liên quan
tới thuế suất chung và thuế suất phân bổ theo quy tắc thuế suất toàn quốc. Trong mỗi
trường hợp, Ban Hội thảm cho rằng khiếu kiện của Việt Nam đã vượt ra ngồi phạm
vi điều khoản tham chiếu bởi vì Việt Nam đã không đưa các khiếu kiện liên quan tới
điều khoản này trong yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm của mình.
Thêm vào đó, Ban Hội thẩm tìm ra một vài khiếu kiện của Việt Nam, trong đó
Việt Nam cho là “khiếu kiện kết quả” đã nằm ngoài phạm vi các điều khoản tham
chiếu bởi vì chúng liên quan tới một biện pháp không thuộc phạm vi các điều khoản
tham chiếu của Ban Hội thẩm.
Bước 6: Kết luận cuối cùng
Trải qua các giai đoạn tố tụng theo quy định của Hiệp định về giải quyết tranh
chấp trong WTO (DSU), ngày 11/7, Ban hội thẩm đã công bố phán quyết, theo đó, Mỹ
đã thực hiện trái với quy định của WTO (thua kiện) ở 2/3 vấn đề chính mà Việt Nam
đưa ra trước Ban hội thẩm (Panel). Hai vấn đề này liên quan đến việc Mỹ áp dụng
phương pháp quy về 0 trong khi tính biên độ phá giá trong các đợt rà sốt hành chính
lần thứ 2 và 3 và việc Mỹ áp đặt thuế suất toàn quốc. Tuy nhiên, về việc Mỹ hạn chế
số lượng các công ty được điều tra riêng lẻ thì Panel kết luận Bộ Thương mại Mỹ
không trái với quy định của WTO. Về nội dung “Continued use of challenged
practices” Ban hội thẩm đã không xem xét nội dung này với lý do không nằm trong
17
phạm vi thẩm quyền của Panel. Phán quyết nói trên đã được chính thức thơng qua tại
cuộc họp của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB) vào ngày 2/9/2011.
Quyết định này của Ban Hội thẩm cũng phù hợp với các tiền lệ trong nhiều vụ
tranh chấp trước đây trong khuôn khổ WTO về vấn đề này. Trên thực tế, sau nhiều
phán quyết cáo buộc vi phạm, nhất là về phương pháp “quy về 0”, Hoa Kỳ đã phải dỡ
bỏ trong điều tra ban đầu cho tất cả các vụ việc. Tuy nhiên, nước này chưa chấp nhận
dỡ bỏ hồn tồn phương pháp này trong điều tra rà sốt hành chính (chỉ dỡ bỏ đối với
các vụ việc cụ thể đã bị kiện ra WTO và bị tuyên vi phạm). Đây chính là một trong
những lý do chính khiến Việt Nam phải tiến hành vụ việc này nhằm bảo vệ lợi ích cụ
thể của các doanh nghiệp tơm Việt Nam trong rà sốt hành chính. Do đó, việc Việt
Nam “thắng” ở vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Việt Nam.
Nội dung này với lý do không nằm trong phạm vi thẩm quyền của Panel. Phán
quyết nói trên đã được chính thức thơng qua tại cuộc họp của Cơ quan giải quyết tranh
chấp của WTO (DSB) vào ngày 2/9/2011.
Quyết định này của Ban Hội thẩm cũng phù hợp với các tiền lệ trong nhiều vụ
tranh chấp trước đây trong khuôn khổ WTO về vấn đề này. Trên thực tế, sau nhiều
phán quyết cáo buộc vi phạm, nhất là về phương pháp “quy về 0”, Hoa Kỳ đã phải dỡ
bỏ trong điều tra ban đầu cho tất cả các vụ việc. Tuy nhiên, nước này chưa chấp nhận
dỡ bỏ hoàn toàn phương pháp này trong điều tra rà sốt hành chính (chỉ dỡ bỏ đối với
các vụ việc cụ thể đã bị kiện ra WTO và bị tuyên vi phạm). Đây chính là một trong
những lý do chính khiến Việt Nam phải tiến hành vụ việc này nhằm bảo vệ lợi ích cụ
thể của các doanh nghiệp tơm Việt Nam trong rà sốt hành chính. Do đó, việc Việt
Nam “thắng” ở vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với Việt Nam.
Bước 7: Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá.
Theo Thủ tục giải quyết tranh chấp trong WTO, Việt Nam và Hoa Kỳ có
khoảng thời gian là 60 ngày để đưa ra kháng cáo báo cáo này của Ban Hội thẩm lên
Cơ quan Phúc thẩm. Nếu khơng có kháng cáo trong thời hạn trên, Báo cáo của Ban
hội thẩm sẽ được DSB thông qua và có giá trị bắt buộc. Khi đó, Bên thua kiện có 30
ngày để thơng báo với DSB về việc thi hành khuyến nghị của mình.
18
Từ các phán quyết về từng vấn đề nêu trên, Ban Hội thẩm kết luận Hoa Kỳ có
các hành vi vi phạm các điều khoản của Hiệp định Chống bán phá giá và Hiệp định
GATT 1994 và điều này đã gây tổn hại tới quyền lợi của Việt Nam theo các Hiệp định
này. Vì vậy, Ban Hội thẩm yêu cầu Hoa Kỳ điều chỉnh các biện pháp về thuế suất liên
quan cho phù hợp với các Hiệp định theo quy định của WTO (theo Điều 19.1 DSU).
Hoa Kỳ sẽ không áp dụng các biện pháp bất lợi liên quan đối với sản phẩm tôm nước
ấm đông lạnh của Việt Nam; từ đó mở đường cho vấn đề kiện chống bán phá giá ở
Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt Nam vì vậy có thể sẽ bớt khắc nghiệt hơn; mức độ thiệt
hại từ các vụ kiện được hy vọng sẽ giảm đáng kể.
Bước 8: Rà sốt
Có thể nói phán quyết nói trên của Panel là một thắng lợi lớn đối với Việt Nam
xét trên phương diện pháp lý. Hiện nay việc thực thi phán quyết của Panel trong vụ
kiện này đang được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của WTO thơng qua việc Hoa Kỳ
phải giải trình tại các phiên họp tồn thể của DSB (thơng thường định kỳ hàng tháng).
Cho đến ngày 03/3/2015, DOC đã công bố kết quả sơ bộ đợt rà sốt hành chính lần
thứ 9 đối với sản phẩm tơm của Việt Nam, theo đó thuế chống bán phá giá cho khoảng
thời gian từ 02/1/2013 đến 31/01/2014, với mức thuế trung bình xuống dưới 1%, giảm
hơn 5 điểm phần trăm so với đợt rà soát hành chính lần thứ 8.
Bước 9: Rà sốt hồng hơn (5 năm kể từ ngày có quyết định áp thuế chống bán phá
giá)
Trong bối cảnh Hoa Kỳ chưa tuân thủ đầy đủ phán quyết của WTO trong vụ
DS404 (gọi tắt là vụ tơm 1), đồng thời cịn tiếp tục kết luận doanh nghiệp Việt Nam
có hành vi bán phá giá trong các đợt POR sau đó, vào tháng 2/2012 Chính phủ Việt
Nam quyết định tiếp tục gửi Hoa Kỳ Yêu cầu tham vấn vụ Việt Nam kiện Hoa Kỳ về
một số biện pháp áp thuế chống bán phá giá (anti-dumping) đối với mặt hàng tôm
nước ấm đông lạnh xuất khẩu từ Việt Nam (WT/DS429). Trải qua q trình tham vấn
khơng đạt đồng thuận, vào tháng 2/2013, Việt Nam quyết định đề nghị DSB cho thành
lập Panel để xét xử vụ kiện. Vào ngày 16/7/2014, Ban hội thẩm (Panel) đã ra phán
quyết. Đây là vụ kiện thứ hai tiếp theo Vụ DS404 về các vấn đề tương tự nhưng các
nội dung phán quyết đã đi xa hơn một bước đáng kể, và liên quan tới hai đợt rà soát
19
hành chính lần thứ 4 và thứ 5 cũng như vấn đề rà sốt hồng hơn khi tới thời hạn 5
năm, yêu cầu tham vấn của Việt Nam đề cập tới một số văn bản pháp luật, qui định,
thực tiễn và thủ tục hành chính của Hoa Kỳ, bao gồm cả vấn đề Zeroing. Việt Nam
cho rằng những biện pháp mà Hoa Kỳ đã áp dụng là không phù hợp với các nghĩa vụ
của Hoa Kỳ trong khuôn khổ WTO.
Tuy nhiên đến ngày 18/07/2016, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ra thông báo tới Cơ
quan Giải quyết tranh chấp trong WTO về việc hai quốc gia đã đạt được giải pháp
thống nhất về vấn đề này, chấm dứt các tranh chấp về vấn đề chống bán phá giá cho
sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh cuả Việt Nam.
2.1.3. Tác động của vụ kiện
-DS 404 là vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam khởi xướng (với tư cách người đi
kiện – nguyên đơn) trong khuôn khổ WTO.
-Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vụ kiện được xem là thành công lớn ở cả
hai khía cạnh:
+ Lựa chọn trúng và đúng vấn đề (những vấn đề có khả năng thắng cao, đồng thời là
những biện pháp, phương pháp, thông lệ mà Hoa Kỳ áp dụng cho tất cả các cuộc điều
tra đã hoặc sẽ xảy ra trong tương lai)
+ Chuẩn bị các lập luận xác đáng, thuyết phục để đạt được kết quả tốt nhất có thể (trên
thực tế Việt Nam thắng ở 3 trên 4 vấn đề khiếu kiện).
-Với thành công này, vụ việc có ý nghĩa quan trọng trong việc:
+ Đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ không áp dụng các biện pháp bất lợi liên quan đối với
hàng hóa Việt Nam; vấn đề kiện chống bán phá giá ở Hoa Kỳ đối với hàng hóa Việt
Nam vì vậy có thể sẽ bớt khắc nghiệt hơn; mức độ thiệt hại từ các vụ kiện được hy
vọng sẽ giảm đáng kể. Cũng thông qua vụ việc này, Việt Nam đã gửi thông điệp ra thế
giới rằng Việt Nam sẽ đấu tranh tích cực để bảo vệ các quyền lợi của nhà xuất khẩu
trong các vụ kiện chống bán phá giá tại bất kỳ nước nào;
+ Là một kinh nghiệm thực tế nhiều khích lệ cho Việt Nam trong việc tự tin, chủ động
sử dụng công cụ giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO để bảo vệ các quyền và
20
lợi ích hợp pháp của Việt Nam trong thương mại quốc tế theo các quy định của WTO
mà không làm ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa các bên tranh chấp.
2.2 Việt Nam trong quá trình chống trợ cấp với mặt hàng tôm nước ấm đông
lạnh
2.2.1 Bối cảnh phát sinh vụ kiện
Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Liên minh các nhà chế biến tôm của Hoa Kỳ
(nguyên đơn) đã đệ đơn kiện lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) yêu cầu điều tra áp
thuế chống trợ cấp (CVD) và đệ đơn lên Ủy ban Thương mại quốc Hoa Kỳ (ITC) yêu
cầu điều tra về thiệt hại liên quan đến mặt hàng “tôm nước ấm đông lạnh” nhập khẩu
từ một số quốc gia trong đó có Việt Nam.
Đây là vụ việc cáo buộc trợ cấp thứ tư của các doanh nghiệp Hoa Kỳ nhằm vào
các sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam kể từ năm 2009 (sau túi nhựa P.E; ống thép hàn
các-bon và mắc áo thép). Tuy nhiên, đối với Việt Nam, đây là vụ việc cáo buộc trợ cấp
đầu tiên đối với sản phẩm nông nghiệp.
Trong vụ việc chống trợ cấp, bên cạnh các bị đơn là doanh nghiệp thì Chính
phủ nước bị điều tra cũng là một bên của vụ việc vì vậy cũng phải tham gia trả lời
bảng câu hỏi điều tra do cơ quan điều tra gửi và tham gia trong giai đoạn thẩm tra tại
chỗ.
Sản phẩm tôm nhập khẩu từ Việt Nam hiện cũng đang bị Hoa Kỳ áp thuế
chống bán phá giá kể từ năm 2004 (dự kiến cuối tháng 1/2013 sẽ bước vào giai đoạn
rà sốt hành chính thứ 9 – POR9).
Theo số liệu từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP),
trong 11 tháng đầu năm 2012, Hoa Kỳ là thị trường lớn thứ hai nhập khẩu tôm của
Việt Nam, sau Nhật Bản. Kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong
giai đoạn này đạt trên 425,4 triệu đô la Mỹ, giảm 15,6% so với cùng kỳ năm trước, và
chiếm 20,6% tổng kim ngạch xuất khẩu tơm của Việt Nam.
2.2.2 Quy trình vụ kiện
Bước 1: Ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu nộp đơn kiện
21
Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Liên minh các nhà chế biến tôm của Hoa Kỳ đã
nộp hồ sơ lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ
(ITC) đề nghị áp dụng biện pháp chống trợ cấp đối với sản phẩm tôm nước ấm đông
lạnh nhập khẩu từ 7 quốc gia bao gồm: Trung Quốc, Thái Lan, Ecuador, Malaysia, Ấn
Độ, Indonesia và Việt Nam.
Theo quy định pháp luật điều tra chống trợ cấp của Hoa Kỳ, DOC sẽ có 20
ngày (kể từ ngày nhận đơn kiện) để xem xét, đưa ra quyết định có khởi xướng điều tra
vụ việc hay khơng. DOC chịu trách nhiệm tiến hành điều tra và xác định biên độ trợ
cấp, ITC sẽ xác định liệu có tồn tại thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy cơ xảy ra thiệt
hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất trong nước hay không.
Ngày 02 tháng 01 năm 2013, ITC đã ban hành bản câu hỏi dành cho các nhà
xuất khẩu của Việt Nam. Thời hạnđể các doanh nghiệp xuất khẩu hoàn thành bản trả
lời và gửi trực tiếp cho ITC là trước ngày 11 tháng 01 năm 2013.
Bước 2: Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi xướng điều tra
Ngày 17/01/2013, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã chính thức khởi xướng
điều tra chống trợ cấp đối với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh nhập khẩu từ Việt
Nam, Trung Quốc, Equado, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Thái Lan.
Bước 3: điều tra sơ bộ về việc trợ cấp và về thiệt hại
Ngày 19/1, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho
biết, Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ vừa có buổi tham vấn với đại diện Cục Quản lý
nhập khẩu thuộc Tổng Cục Thương mại Quốc tế (ITC) thuộc Bộ Thương mại Hoa Kỳ
(DOC) về nội dung liên quan tới vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với
mặt hàng tôm nước ấm đơng lạnh của Việt Nam. Tại buổi tham vấn, phía Việt Nam
đã thể hiện rõ quan điểm khơng hài lịng và chính thức phản đối vụ kiện.
Việc khởi xướng vụ kiện chống phá giá và trợ cấp (AD/CVD) nhằm vào mặt
hàng tơm nước ấm đơng lạnh của Việt Nam có thể sẽ tác động xấu tới mối quan hệ
kinh tế-thương mại đang phát triển mạnh mẽ giữa hai nước.
22
Chính phủ Việt Nam sẽ xem xét một cách kỹ lưỡng các lập luận trong đơn yêu
cầu điều tra, đồng thời xem xét các lựa chọn pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người nơng dân nuôi tôm và các doanh nghiệp Việt Nam đang tham
gia vào việc sản xuất, chế biến tôm xuất khẩu.
Nếu như ITC quyết định khởi xướng vụ kiện và áp một mức thuế AD/CVD nào
đó cho mặt hàng tơm nước ấm đông lạnh của Việt Nam sẽ là một quyết định không
công bằng, là biện pháp đánh thuế hai lần và gây ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của
hơn 600.000 nông dân, người làm chế biến tôm Việt Nam đang làm việc trong lĩnh
vực này.
Về phía Mỹ, đại diện Cục quản lý nhập khẩu khẳng định Hoa Kỳ sẽ xem xét
một cách cẩn trọng, nghiêm túc quan điểm của phía Việt Nam và của các nước khác
có liên quan tới vụ kiện và khẳng định DOC giải quyết vụ kiện này một cách độc lập,
khơng dính tới việc trả đũa hay trừng phạt của bất kỳ vụ kiện nào.
Theo những thông tin mới được cập nhật, Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
(US-ITC) sẽ đưa ra quyết định sơ bộ về việc ngành nuôi trồng, chế biến tôm của Mỹ
có bị thiệt hại hay khơng vào ngày 11/ 2 tới.
Trong số bảy nước cùng bị khởi kiện lần này (gồm Trung Quốc, Ấn độ,
Ecuador, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Việt Nam), ITC đã tiến hành tham vấn
riêng với từng quốc gia có liên quan trong vụ kiện và đã hoàn thành việc tham vấn
này.
Ngày 01 tháng 02 năm 2013, Ủy ban Thương mai quốc tế Hoa Kỳ (USITC)
thông báo về việc tổ chức cuộc họp biểu quyết đưa ra quyết định sơ bộ về thiệt hại đối
với ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trong vụ việc chống trợ cấp với sản phẩm “Tôm
nước ấm đông lạnh” (Frozen warmwater shrimp) nhập khẩu từ Việt Nam. Cùng với
Việt Nam, Trung Quốc, Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Thái Lan cũng là bị
đơn trong vụ kiện này.
Cuộc họp biểu quyết sẽ được ITC tổ chức vào ngày 7 tháng 2 năm 2013.
23
Pháp luật chống trợ cấp của Hoa Kỳ quy định DOC và Ủy ban Thương mại
quốc Hoa Kỳ (ITC) là hai cơ quan điều tra vụ việc với vai trò khác nhau. DOC sẽ điều
tra xác định biên độ trợ cấp còn ITC sẽ điều tra xác định thiệt hại đối với ngành sản
xuất nội địa Hoa Kỳ. Nếu một trong hai cơ quan ra quyết định phủ nhận tồn tại trợ cấp
hoặc thiệt hại, cuộc điều tra sẽ được hủy bỏ.
Ngày 1 tháng 2 năm 2013, Cục Quản lý Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITA) đã
thông báo về việc các bên có liên quan có thể gửi yêu cầu rà sốt hành chính lệnh áp
thuế chống bán phá giá lần thứ 8 (POR8) đối với sản phẩm “Tôm nước ấm đông lạnh
xuất khẩu” (Frozen warmwater shrimp) của Việt Nam.
Các yêu cầu rà soát phải được gửi chậm nhất vào ngày 28 tháng 2 năm 2013.
Sản phẩm tôm nhập khẩu từ Việt Nam đã bị Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá
kể từ năm 2004, và đã trải qua 7 lần rà sốt hành chính. Dự kiến kết quả sơ bộ của lần
rà sốt hành chính lần thứ 7 (POR7) sẽ được công bố vào tháng 3 năm 2013.
Ngày 07 tháng 02 năm 2013, Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (USITC) đã
đưa ra quyết định khẳng định có dấu hiệu về việc ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ chịu
thiệt hại đáng kể do hàng hóa nhập khẩu bị cáo buộc có trợ cấp trong vụ kiện chống
trợ cấp (CVD) đối với sản phẩm “Tôm nước ấm đông lạnh” (Frozen warmwater
shrimp) nhập khẩu từ Việt Nam, Trung Quốc, Ecuador, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và
Thái Lan. Kết quả của việc biểu quyết này được áp dụng chung cho tất cả các bị đơn.
Điều này đồng nghĩa với việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) sẽ tiếp tục tiến
hành điều tra xác định sự tồn tại và mức độ của các trợ cấp bị cáo buộc. Dự kiến DOC
sẽ đưa ra kết luận sơ bộ vào ngày 25 tháng 03 năm 2013.
Ngày 27 tháng 02 năm 2013, Cục Quản lý Thương mại quốc tế (ITA) thuộc Bộ
Thương mại Hoa Kỳ (DOC) thơng báo hỗn thời hạn ban hành Quyết định sơ bộ về
mức thuế đối kháng (CVD) trong vụ việc điều tra chống trợ cấp đối với sản đối với
sản phẩm “Tôm nước ấm đông lạnh” (Frozen warm-water shrimp) của Việt Nam đến
ngày 28 tháng 05 năm 2013.
24