Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

SỰ RA đời của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM và CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ đầu TIÊN của ĐẢNG có QUAN điểm RẰNG ĐẢNG RA đời CHỈ vì lợi ÍCH của GIAI cấp CÔNG NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.34 KB, 12 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
HÌNH THỨC THI: BÀI TẬP LỚN
Tên chủ đề: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ
CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG? CĨ QUAN
ĐIỂM RẰNG: “ĐẢNG RA ĐỜI CHỈ VÌ LỢI ÍCH CỦA GIAI
CẤP CÔNG NHÂN”. QUAN ĐIỂM CỦA ANH (CHỊ).

Tên học phần: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 2


MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................................................................... 2
NỘI DUNG......................................................................................................................................................... 4
KẾT LUẬN....................................................................................................................................................... 11

2


MỞ ĐẦU
Là một đất nước nhỏ bé hình chữ S nằm ven bờ Tây của Biển Đông,
không thể phủ nhận rằng, mẹ thiên nhiên đã ban cho nước ta một địa hình đặc
biệt cùng vơ vàn nguồn tài ngun đa dạng, phong phú khắp từ Bắc chí
Nam.Tuy nhiên, ưu điểm trên đã bị biến thành nhược điểm để rồi Việt Nam và
các nước Đông Nam Á khác đã trở thành miếng mồi ngon béo bở cho các nước
tư bản phương Tây dịm ngó với mục đích biến thành các nước thuộc địa phục
vụ cho ý đồ xâm lược rộng khắp và thống trị toàn thế giới của chúng.
Như một ngọn đèn hải đăng soi rọi đêm tối mịt mù, sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã dẫn lối chỉ đường cho


Cách mạng Việt Nam đạt được nhiều thắng lợi rực rỡ. Cùng với lực lượng nhân
dân lớn mạnh và tình yêu dân tộc, quê hương mãnh liệt đã giúp nước ta chiến
thắng kẻ thù xâm lược, trở thành một nước độc lập tự do, nhân dân được làm
chủ đất nước. Công lao to lớn của Đảng Cộng sản là không thể phủ nhận. Tuy
nhiên, trên bất kỳ con đường nào đi tới thành công cũng không thể tránh khỏi
những thất thiệt hay tin đồn gây hại, vì vậy, để bàn luận thêm về vấn đề này, em
xin chọn đề tài: “Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng? Có quan điểm rằng: “Đảng ra đời chỉ vì lợi ích của giai cấp
công nhân”. Quan điểm của anh (chị)” làm nội dung nghiên cứu cho bài tiểu
luận của mình.

3


NỘI DUNG
1. Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và Cương lĩnh chính trị của Đảng
1.1 Hồn cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.1 Bối cảnh lịch sử:
a. Bối cảnh quốc tế:
Kể từ khi các nước đi theo con đường phương Tây chuyển nhanh từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang đế quốc chủ nghĩa, chúng đã mở rộng địa bàn xâm
chiếm để biến các nước nhỏ bé châu Á, châu Phi thành thuộc địa, đồng thời bóc
lột nhân dân ngay trong nước. Mâu thuẫn càng gay gắt, các phong trào giải
phóng dân tộc càng diễn ra sơi nổi, nhất là ở các nước thuộc địa Đông Nam Á đã
tác động khơng nhỏ đến phong trào giải phóng dân tộc tại Việt Nam.
Hơn thế nữa, sự thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 và sự
ra đời của Quốc tế Cộng sản vào tháng 3/1917 đã ảnh hưởng mạnh mẽ và làm
dậy lên phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Đông Dương và Việt Nam.
Đại hội II của Quốc tế Cộng sản cùng luận cương về dân tộc và thuộc địa do
Lenin soạn thảo đã thổi một làn gió mới về tư tưởng cách mạng và hướng các

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vơ sản. Chủ nghĩa xã hội
được hình thành rõ nét hơn bao giờ hết. Đây là tiền đề quan trọng cho việc nước
ta thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
b. Bối cảnh trong nước:
Nhằm củng cố vị thế trên bản đồ thế giới cũng như muốn thu phục nước
ta nhanh hơn, nước Pháp đã tăng cường các chính sách thống trị nhằm làm tình
trạng đất nước thêm tồi tệ.
Về kinh tế, chúng cùng địa chủ ra sức vơ vét, bóc lột sức lao động của
nhân dân, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền đồng thời siết tô thuế rất nặng
nhằm bắt dân ta tập kết vào các trại, đồn điền cao su để dễ bề cai trị, sai khiến.
Về chính trị, Pháp tước bỏ hồn tồn quyền hạn của nhà Nguyễn, về phía cách
mạng, chúng đàn áp các cuộc phong trào của dân ta không thương tiếc. Những
người yêu nước bị chúng bắt sẽ đem ra xử tàn nhẫn để đe dọa nhân dân không
dám đứng lên chống lại chính quyền Pháp. Việt Nam bị chia thành Bắc Kỳ, Nam
Kỳ, Trung Kỳ với cơ chế cai trị riêng biệt.
Về chính trị, Pháp ln ln ba hoa về luận điệu “khai hoa văn minh”
nhưng thực chất lại là chính sách ngu dân, cố gắng bưng bít thơng tin và ngăn
4


cản sự xâm nhập của văn hóa tiến bộ vào Việt Nam. Chúng lập nhiều nhà tù hơn
trường học, bắt học chữ Pháp, khuyến khích văn hóa độc hại và duy trì các hủ
tục lạc hậu. Và vào thời điểm triều đỉnh Nguyễn hèn yếu kí vào Hiệp ước
Patonot, Việt am chính thức trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô,
Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Trước hành động xâm lược của Pháp, mặc dù triều đình Huế đã đầu hàng
vô điều kiện nhưng nhân dân ta vẫn không chịu khuất phục trước quân xâm lược
tàn nhẫn. Tất cả các phong trào yêu nước vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng với tinh thần “người trước ngã, người sau
đứng dậy” nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong hiển máu do các

phong trào này chưa tìm được đường lối đấu tranh đúng đắn, còn ảnh hưởng bởi
hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời. Cũng chính vì thế mà những phong trào này
không xác định rõ được nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết những mâu
thuẫn cơ bản nào, khơng có khả năng tập hợp được lực lượng tồn dân tộc.
Trong khi đó chủ nghĩa đế quốc ngày càng bành trướng trở thành một hệ thống
thế giới hùng mạnh. Đất nước lâm vào tình hình đen tối tưởng như khơng có
đường ra. Đó là tình trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam vào
đầu thế kỷ XX. Nó đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm một con đường cứu nước
mới.
1.1.2 Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện thành lập Đảng:
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa,
nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị, ơng
cha ta đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác
nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau. Mặc dù rất khâm phục tinh
thần cứu nước của các vị tiền bối nhưng Người nhận thấy con đường của Phan
Bội Châu chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”; con đường của
Phan Châu Trinh cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lịng thương”, con đường của
Hồng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong
kiến. Trước yêu cầu cấp thiết của đất nước cần có một Đảng đứng ra lãnh đạo
các phong trào giải phóng, chàng thanh niên trẻ Nguyễn Tất Thành với tài năng
vẹn toàn và hồi bão lớn đã lên đường ra đi tìm đường cứu nước. Người đi đến
5


các nước chủ nghĩa tư bản, các nước lớn mạnh và nhận ra sự thật nghiệt ngã “dù
màu da có khác nhau nhau, trên đời này hỉ có hai giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột”. Tại Hội nghị các nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới
thứ nhất họp tại Vecsai, Pháp, lần đầu tiên một vị đại biểu đến từ một nước thuộc
địa dám đứng lên gửi tới Hội nghị bản Yêu sách đòi lại quyền lợi cho nhân dân
các nước bị áp bức. Tuy bản yêu sách không được Hội nghị chấp thuận nhưng

Nguyễn Ái Quốc đã làm dư luận quốc tế hiểu rõ hơn bản chất bọn thực dân.
Sự kiện Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa của Lê Nin năm 1920 đã khiến hành trình ra đi tìm được cứu nước
bước sang một trang mới. Từ Luận cương, Người đã chuẩn bị kỹ lưỡng các điều
kiện cho việc thành lập Đảng tại Việt Nam như Đảng của Lenin. Vào năm 1925,
Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Trung
Quốc nhằm tập hợp những người đồng chí hướng cách mạng. Từ tổ chức này,
Người đã tổ chức nhiều lớp huấn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm lực lượng
cốt cán để tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lenin về đồng bào cả nước. Các bài
giảng tại các lớp học được tập hợp thành cuốn Đường Kách Mệnh làm cuốn
sách đầu tay cho đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam sau này. Người
sáng lập thêm báo Thanh niên để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin, từ đó, ngành
xuất bản sách và báo chí trở thành cơng cụ đấu tranh cách mạng. Người quan
niệm: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”.
Ở trong nước, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã nhen nhóm phát
triển từng bước từ đầu năm 1926 và một năm sau, các kỳ bộ được thành lập dù
chưa phải một đảng chính thức. Hội đã trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lenin vào Việt Nam, dẫn dắt các cuộc phong trào cách mạng vô sản cũng như
chuẩn bị các bước tiến tới thành lập chính đáng của giai cấp cơng nhân. Đây
được coi là tiền đề cho Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
1.1.3 Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Phong trào cách mạng tại Việt Nam giai đoạn 1928-1929 ngày càng lớn
mạnh khiến Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không đủ sức lãnh đạo. Điều
này đã đi đến quyết định thành lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên tại Việt Nam vào
6


tháng 3-1929. Đến 17-06-1929, các đại biểu cộng sản Bắc Kỳ đã thành lập Đông
Dương Cộng sản Đảng, quyết định Đảng kỳ là cờ đỏ búa liềm và thành lập báo

Búa liềm. Tiếp nối sức ảnh hưởng của Đảng bộ tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam
Kỳ cũng đã tổ chức Đảng Cộng sản riêng. Tuy nhiên, sự rời rạc riêng rẽ đã khiến
cả ba tổ chức ở ba vùng bị phân tán lực lượng và thiếu thống nhất khắp cả nước.
Trước thực tiễn nóng bỏng cần có một Đảng thống nhất đứng ra lãnh đạo,
vào ngày 3/2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hồng Kông để tiến hành hội nghị
hợp nhất các tổ chức thành một đảng duy nhất và chính thức ở Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam chính thức được ra đời. Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đưa
ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất. Ngồi ra, Hội nghị cịn chủ trương
bàn luận giải quyết các vấn đề liên quan. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định nhiệm vụ thành lập chính đảng cách mạng tại nước ta thông qua lời
mở đầu trong tác phẩm Lời kêu gọi như một lời tri ân ngày thành lập Đảng.
1.2 Nội dung Cương lĩnh chính trị
Cương lĩnh chính trị tại Hội nghị thành lập đảng gồm hai văn kiện lớn do
chính Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách
lược vắn tắt của Đảng về những vấn đề trong chiến lược cách mạng Việt Nam.
Đây được coi là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh xác định rõ mâu thuẫn của xã hội Việt Nam đương thời- xã
hội thuộc địa nửa phong kiến với mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc Việt Nam (ở
đây là công nhân, nông dân) với đế quốc (ở đây là thực dân Pháp) và đưa ra
đường lối chiến lược phù hợp là “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Từ đây, nhiệm vụ trước tiên
cách mạng Việt Nam cần giải quyết là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến”. Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành
độc lập cho dân tộc, trong đó chống đế quốc phải được giải quyết trước, bởi lẽ,
có giải phóng được dân tộc ta mới có thể giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
Về phương diện xã hội và kinh tế, Cương lĩnh đều xác định rõ mục tiêu
nhằm giải phóng cho con người, hướng đến xã hội tự do và công bằng bằng
những cách giải quyết phù hợp với thực tiễn Việt Nam đương thời như: chia
7



ruộng cho dân nghèo, bỏ sưu thuế, thi hành luật ngày làm tám giờ,..... đồng thời,
giải pháp trên cịn xóa bỏ tận gốc chính sách thống trị hà khắc của thực dân đối
với nhân dân ta từ trước đến nay.
Đảng xác định lực lượng cách mạng là đồn kết cơng – nông, giai cấp
công nhân lãnh đạo, tập hợp các giai cấp khác cùng đánh đuổi đế quốc. Với mỗi
giai cấp đều có cách tập hợp riêng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết giữa các
tầng lớp và tổ chức lớn nhỏ khác nhau, xây dựng lực lượng vững chắc cho cách
mạng Việt Nam. Về phương pháp tiến hành cách mạng, Đảng xác định con
đường bạo lực cách mạng quần chúng và không thỏa hiệp với quân giặc dưới bất
kỳ hình thức nào. Về tinh thần đồn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc nhưng phải tranh thủ sự đoàn kết của giai cấp vô
sản thế giới, đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp. Cách mạng Việt Nam đã và đang là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Chủ nghĩa quốc tế và bản chất quốc
tế của giai cấp công nhân là hai điều Đảng Cộng sản Việt Nam ln hướng tới.
Về vai trị lãnh đạo của Đảng, “Đảng là đội tiền phong của đạo quân vô sản gồm
một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần
chúng”. Tức là, nước Việt Nam sẽ độc lập tự do và giai cấp nhân dân sẽ làm chủ
đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đánh giá đúng đắn đặc điểm và mâu thuẫn dân tộc Việt Nam bấy giờ, xác
định đường lối chiến lược các mạng cùng phương pháp, lực lượng,... đã giúp
Cương lĩnh chính trịt thể hiện được bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của chủ
tịch Hồ Chí Minh. Những luận điểm nêu trong bản Cương lĩnh ngắn gọn, súc
tích và đầy đủ nội dung đã trở thành kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam suốt
một thời gian dài sống trong tăm tối. Cách mạng Việt Nam thực sự đã bước sang
một trang mới đầy hào hùng và khí thế kể từ ngày có Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
2.


Bàn luận về quan điểm “Đảng ra đời chỉ vì lợi ích của giai cấp cơng

nhân”
Có thể thấy rằng, ý kiến trên hồn tồn sai lệch khi nhận xét về Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, Đảng ta khơng thể
tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc, có những sai lầm mang lại nhiều hệ lụy
8


nhưng khơng vì thế, Đảng lơ la hay che dấu đi những khuyến điểm mà luôn
đứng ra tự kiểm điểm mỗi khi nhân dân có ý kiến và ln khắc phục kịp thời.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 2-1951), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”.
Trong những năm 60 khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của
dân tộc, không thiên tư, thiên vị”. Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải tập hợp được
trong hàng ngũ của mình nhân dân cả nước miễn là những người đó “tin theo
chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh
và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu
trong một bộ phận Đảng”. Vì vậy, Đảng ta ra đời, tồn tại, phát triển khơng chỉ vì
lợi ích của giai cấp cơng nhân mà cịn vì lợi ích của nhân dân lao động, của tồn
dân tộc. Tại mỗi kỳ Quốc hội, Đảng ln đưa ra các buổi trưng cầu ý dân để
nhân dân cả nước khơng kể ngành nghề, tuổi tác, giới tính đều có thể tham gia
xây dựng chính quyền địa phương và giải quyết các vấn đề xã hội.
Đảng Cộng sản mang tính chất của giai cấp cơng nhân là bởi Đảng thành
lập dựa theo tư tưởng và lý luận của Lenin áp dụng và tình hình thực tiễn nước
ta bấy giờ. Đây là điều kiện để nước ta giải phóng dân tộc trước tiên, phải giải
phóng dân tộc mới có thể giải phóng giai cấp. Giai cấp cơng nhân là giai cấp

lãnh đạo cách mạng tức là giai cấp tiên phong của toàn dân tộc sẵn sàng bước ra
chiến trường khi đất nước có chiến tranh. Theo Người, Đảng cần phải làm tốt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, và cách mạng Việt Nam “phải có đường lối cách
mạng đúng, có Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có
thể là đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”. Vì vậy, ý kiến trên hoàn toàn sai lệch với
nhiệm vụ cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ý kiến mang tư tưởng cá
nhân, ích kỷ và cần được loại bỏ ngay lập tức.
3. Liên hệ thực tiễn
9


Từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cùng
đứng lên đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc. Biết bao xương máu, mồ
hôi, sinh mạng của bao người đã nằm xuống để giữ được vẹn nguyên hình hài
đất nước. Cách mạng Tháng 8 năm 1945 lập nên nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và cũng là chiến thắng mở đường cho các cuộc kháng chiến thắng lợi
sau này của nhân dân ta. Đất nước độc lập, thống nhất, cả nước tiếp tục con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa khôi phục kinh tế vừa bảo vệ Tổ quốc.
Đi ra từ bom đạn khói lửa, đất nước gặp rất nhiều khó khăn chông gai như mắc
sai lầm khuyết điểm chủ quan trong việc thực hiện đường lối cách mạng xã hội
chủ nghĩa để có thể đạt được những kết quả như bây giờ mang đến cho nhân dân
Việt Nam cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đủ đầy.
Trước những khó khăn trong và ngồi nước, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết số 10/NQ-TW ngày 05/4/1988 (khoán 10) về đối mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nơng dân và xác định vai trị
kinh tế hộ nông dân. Cuối năm 1988, thực hiện bù giá vào lương, xoá bỏ chế độ
phân phối bao cấp, tem phiếu. Ngày 29/3/1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ương khố VI đề ra 12 chủ trương chính sách lớn, cụ thể hoá những
quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, giải quyết nhiều vấn đề

bức bách về kinh tế, xã hội thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển hay Nghị
quyết TW 3 khóa XI đã tập trung vào vấn đề tái cơ cấu lại nền kinh tế, đặc biệt
là bộ phận kinh tế nhà nước,.... Tất cả những sửa đổi, bổ sung trong các văn bản
họp, các Hội nghị chủ trương đều nhằm mục đích giải quyết tình hình đất nước
lúc bấy giờ và tiếp tục quá trình đấu tranh đi theo con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội mà nước ta đã đặt ra.

10


KẾT LUẬN
Đã hơn 90 năm kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, có thể
thấy rằng, con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn vẫn được
Đảng kiên định đi theo và phát triển từng ngày: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, kiên trì mục tiêu “Độc lập- Tự do- Hạnh phúc”. Đây cũng chính là
khát vọng của nhân dân ta từ xưa đến nay. 90 mùa xuân đất nước ta có Đảng là
90 năm đầy khó khăn, chơng gai mà dân tộc ta đã trải qua để giành được nhiều
thắng lợi vẻ vang. Tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và lòng yêu nước đã giúp
dân tộc Việt Nam thốt khỏi gơng cùm đơ hộ và tinh thần ấy sẽ tiếp tục truyền
lửa cho thế hệ mai sau, để rồi nó sẽ “lại sơi nổi, kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước”.
Bước vào thời kỳ 4.0 hội nhập quốc tế đã mở ra nhiều cơ hội cũng như
thử thách, điều này càng đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương,
đường lối phù hợp với đặc điểm nước ta còn nhiều hạn chế yếu kém nhằm
khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất, đóng góp xây dựng đất nước sánh vai
cùng bạn bè năm châu đồng thời vẫn đảm bảo an ninh khu vực, nền độc lập
nước nhà. Vì vậy, phát huy việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo Cương lĩnh của
Đảng trong từng giai đoạn cách mạng để Cương lĩnh tiếp tục trở thành kim chỉ
nam dẫn lối cách mạng Việt Nam từng bước đạt được nhiều thành tựu tốt đẹp

trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta./.

11



×