HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM
------------------------------
TIỂU LUẬN:
HỌC PHẦN: KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VA RA QUYẾT ĐỊNH
ĐỀ BÀI:
Anh/chị hãy lựa chọn một doanh nghiệp kinh doanh trong một lĩnh vực cu
thể(du lịch, may mặc, vận tải...) đồng thời áp dung quy trình giải quyết vấn đe
để đe xuất giải pháp cu thể giúp doanh nghiệp đó hoạt động kinh doanh trong
bối cảnh đại dịch Covid-19.
Giáo viên hướng dẫn
:
Sinh viên
:
Mã sinh viên
:
Lớp
:
Năm :
Mục lục
PHẦN I: MỞ ĐẦU...........................................................................................................................................3
PHẦN II: ÁP DỤNG VÀO MỘT DOANH NGHIỆP CỤ THỂ....................................................................5
PHẦN III: ỨNG DỤNG QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...................................................................6
PHẦN IV: KẾT LUẬN..................................................................................................................................13
2
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Cuộc sống là một chuỗi những vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải quyết và ra quyết định mỗi ngày.
Nếu chúng ta giải quyết và ra quyết định tốt, chúng ta có nhiều cơ hội thành cơng. Ngược lại,
chúng ta sẽ phải loay hoay trong vịng luận quần "thử và sửa sai”, dần dần mất từ tin và dẫn đến
thất bại. Chính vì vậy, kỹ năng giải quyết vấn đề ra đời là một trong những kỹ năng rất cần thiết
trong học tập và làm việc bởi cuộc sống là một chuỗi những vấn đề đòi hỏi chúng ta phải giải
quyết mà không vấn đề nào giống vấn đề nào và cũng khơng có một cơng thức chung nào để giải
quyết mọi vấn đề. Điều quan trọng là chúng ta phải tự trang bị cho mình những hành trang cần
thiết để khi vấn đề nảy sinh thì chúng ta có thể vận dụng những kỹ năng sẵn có để giải quyết vấn
đề đó một cách hiệu quả nhất, hạn chế sự loay hoay trong vòng luẩn quẩn như vậy, từ đó giúp
thành cơng hơn trong cuộc sống.
Nhìn chung, ở nước ta, số lượng doanh nghiệp tư nhân có tăng hàng năm nhưng quy mơ bình
qn của mỗi doanh nghiệp cịn nhỏ. Cùng với đó, năng suất lao động thấp, chưa thực hiện đầy
đủ các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động đã làm giảm đi chất lượng
công việc trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, do vậy, các doanh nghiệp này càng rơi vào vị
thế bất lợi khi cạnh tranh. Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, trên 95% là doanh nghiệp
quy mô nhỏ nên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong cạnh tranh trên thị trường
trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và thị trường toàn cầu do các công
ty đa quốc gia, xuyên quốc gia chi phối. Đây là một vấn đề nan giải đòi hỏi các tổ chức, cơ quan
đau đầu tìm cách giải quyết từ lâu đến nay.
Đầu năm 2020, giới chuyên gia từng lạc quan đưa ra dự báo về những gam màu sáng trong bức
tranh triển vọng kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi khi đại dịch Covid -19 xuất hiện.
Sức tàn phá ghê gớm của dịch Covid -19 là địn giáng “chí mạng” vào nền kinh tế thế giới. Đại
dịch trở thành “sát thủ vơ hình” đẩy nền kinh tế toàn cầu vốn đang trong giai đoạn phục hồi
mong manh sa lầy vào đợt suy thoái tồi tệ nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Chưa bao giờ
mọi hoạt động kinh tế - xã hội từ công nghiệp, giao thông vận tải đến các lĩnh vực dịch vụ, vui
chơi giải trí... kéo theo lực lượng lao động ước tính hơn 3 tỷ người đồng loạt bị ảnh hưởng. Kinh
tế thế giới bỗng chốc“bốc hơi” hàng nghìn tỷ USD, kéo theo khơng ít thành quả gây dựng trong
nhiều năm qua bị tiêu tan. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp bắt đầu “ngấm” thiệt
hại nặng nề bởi dịch Covid-19. Cụ thể, trong 4 tháng đầu năm 2020, có 22.700 doanh nghiệp tạm
ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 33,6% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính khiến
3
các doanh nghiệp phải rời bỏ thị trường là những tác động của dịch Covid-19. Chỉ số sản xuất
công nghiệp giảm mạnh 10,5% so với cùng kỳ năm trước và là mức giảm duy nhất của tháng 4
trong giai đoạn 2016 - 2020. Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, chỉ số sản xuất tồn ngành cơng
nghiệp chỉ tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua.
Vì vậy, để có thể vượt qua khó khăn trong thời gian này, em xin đề xuất phương pháp cho một
doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực may mặc giúp doanh nghiệp duy trì hoạt động trong đại
dịch Covid_19. Nội dung của bài tiểu luận được thể hiện chủ yếu qua ba phần là cơ sở lý thuyết,
thực trạng ứng dụng lý thuyết đó hiện nay và cuối cùng là phương án giải quyết vấn đề.
Trước hết, ta cần hiểu rõ “vấn đề” và “kỹ năng giải quyết vấn đề” là gì? Vấn đề được hiểu là
trạng thái mà ở đó có sự mâu thuẫn hay có khoảng cách giữa thực tế và mong muốn. Vấn đề là
tình huống người ta đặt cho mình mục đích cần đạt được nhưng chưa tìm ra cách giải quyết hoặc
chưa biết cách thực hiện nào là tối ưu. Ví dụ như bạn mơ ước trở thành một đầu bếp nổi tiếng
nhưng chưa biết cách nào để thực hiện được điều đó. Đây chính là vấn đề của bạn. Hoặc đơn
giản hơn đó có thể là cố gắng tìm ra một con đường ngắn nhất để đi làm mà không bị kẹt xe mỗi
ngày cũng là một vấn đề tất cả chúng ta đều mơ ước. Có nhiều khái niệm khác nhau nhưng có
thể hiểu vấn để là “sự lệch khỏi mong muốn” hay “khoảng cách giữa tình trạng hiện tại và tình
trạng mong đợi”, nói cách khác, đó là “Bất kỳ khó khăn nào cần phải vượt qua khi tiến tới mục
tiêu”.
Các vấn đề trong cuộc sống luôn xảy ra bất chợt và không thể lường trước được kết quả. Dịch
bệnh, thiên tai, tác động khách quan, kết quả khác so với mong muốn kỳ vọng… luôn là yếu tố
tạo nên các vấn đề mỗi ngày.
Tồn tại vấn đề thì bắt buột phải ra quyết định và ra quyết định nhằm giải quyết vấn đề. Vì vậy,
chúng ta sẽ đồng thời xem xét việc giải quyết vấn đề và việc ra quyết định trong cùng một lúc. Ta
có định nghĩa: “Giải quyết vấn đề là một quá trình xác định, phân tích nguyên nhân, lựa chọn
giải pháp tối ưu, triển khai và đánh giá giải pháp nhằm loại bỏ mâu thuẫn giữa thực tế và mong
muốn“. Chất lượng và kết quả của quyết định quản trị có khả năng ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực đến nhân viên và cả một hệ thống có tổ chức. Điều quan trọng là nhà lãnh đạo phải biết tối
đa hóa khả năng ra quyết định của mình để thúc đẩy doanh nghiệp, tổ chức phát triển.
4
PHẦN II: ÁP DỤNG VÀO MỘT DOANH NGHIỆP CỤ THỂ
Xu hướng hội nhập quốc tế thị trường không ngừng thay đổi, tạo ra rất nhiều áp lực cho nhà
quản trị đối phó với tình hình thay đổi liên tục của thị trường. Trong xu thế hội nhập, muốn thắng
thế, đòi hỏi đặt ra đối với các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong những năm
qua, doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều bước đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, tuy nhiên,
trước sức ép hội nhập, vẫn cịn nhiều vấn đề đặt cần giải quyết…
Ngành cơng nghiệp dệt và may tồn tại ở nước ta ngót một thế kỷ nhưng các hoạt động thủ công
truyền thống như thêu và dệt lụa thì đã có lịch sử lâu đời. Ngày nay, nước ta vẫn còn giữ một số
làng nghề cổ như làng lụa Vạn Phúc, Triều Khúc hay làng Mẹo (Thái Bình). Lịch sử phát triển
của ngành công nghiệp dệt may được xem là bắt đầu khi nước ta thành lập Nhà máy Dệt Nam
Định năm 1897. Ngành cơng nghiệp này đã nhanh chóng lớn mạnh sau Thế chiến thứ 2 với quy
mô rộng mở và nhiều hình thức khác nhau. Trải qua một giai đoạn dài khó khăn và phát triển
nhanh chóng, ngành dệt may được coi là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn trong
nền kinh tế quốc dân nước ta. Nó đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó
cung cấp một mặt hàng khơng thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của nhân dân.
Tuy nhiên, sự bùng phát mạnh mẽ của đại dịch Covid_19 chưa có dấu hiệu kết thúc khiến các
doanh nghiệp may mặc lâm vào tình cảnh khó khăn. Báo cáo mới của ILO đánh giá tác động của
cuộc khủng hoảng gây nên bởi đại dịch COVID-19 đối với các chuỗi cung ứng, các nhà máy và
người lao động tại 10 nước sản xuất hàng dệt may lớn nhất trong khu vực, trong đó bao gồm Việt
Nam.
Do đó việc trang bị kỹ năng giải quyết vấn đề là điều cần thiết đối với các nhà quản trị của các
doanh nghiệp may mặc, để các nhà quản trị có thể giải quyết khơn khéo và có hiệu quả những
vấn đề phát sinh. Tức là, cần có phương pháp giải quyết vấn đề một cách hệ thống, sử dụng
những công cụ, kỹ thuật phương pháp giải quyết vấn đề đã từng được ứng dụng thành công tại
các doanh nghiệp Việt Nam và trên toàn thế giới.
5
PHẦN III: ỨNG DỤNG QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Bất cứ một vấn đề nào cũng đều gồm một quy trình 5 bước giải quyết, tùy theo mức độ vấn đề,
nhà quản trị có thể giảm bớt số bước giải quyết:
Bước 1: Nhận định vấn đề
Trước khi các doanh nghiệp cố tìm hướng giải quyết vấn đề, các nhà quản trị nên xem xét kỹ đó
có thật sự là vấn đề đúng nghĩa hay không, bằng cách tự hỏi: chuyện gì sẽ xảy ra nếu…?; hoặc:
giả sử như việc này khơng thực hiện được thì…? Nhà lãnh đạo khơng nên lãng phí thời gian và
sức lực vào giải quyết nếu nó có khả năng tự biến mất hoặc khơng quan trọng. Để nhận ra vấn
đề, ta cần phải có một bản kế hoạch và ln bám sát theo nó. Có một hội đồng cố vấn giúp nhà
lãnh đạo nhận ra vấn đề bởi khơng phải lúc nào ta cũng nhìn thấy khó khăn từ góc nhìn của
mình.
Vấn đề ở đây đó chính là thách thức của ngành dệt may trong đại dịch Covid_19 đang khiến nền
kinh tế trở nên trì trệ. Tuy nhiên, cần phải xem xét rộng ra hơn nữa, bởi lẽ những khó khăn trong
ngành may mặc khơng phải mới xuất hiện mà là đã có mầm mống từ một khoảng thời gian rất
dài trước khi cả đại dịch Covid_19 xuất hiện.
Nhiều năm qua, dệt may là ngành “ tiên phong" trong chiến lược xuất khẩu hàng hoá Việt Nam
ra thị trường thế giới thu về cho đất nước một lượng ngoại tệ khá lớn. Ngành dệt may Việt Nam
đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tương đối cao, bình quân 20%/ năm trong giai đoạn 20002005. Thành quả này là nhờ Việt Nam có một nguồn lao động dồi dào, khéo tay, chi phí lao động
thấp, các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dụng và giữ được chữ tín trong kinh doanh với nhiều
với nhiều nhà nhập khẩu lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, nếu phân tích sâu hơn thì ngành dệt may Việt Nam vẫn cịn rất nhiều yếu tố bất lợi và
ít lợi thế cho sự phát triển bền vững, đặc biệt là các ngành cơng nghiệp phụ trợ chưa phát triển
tương xứng. Điều đó góp phần lý giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia
cơng xuất khẩu là chính (chiếm 70 – 80 % kim ngạch), hình thức thương mại bán sản phẩm
chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn. Từ khi hạn ngạch giữa các thành viên WTO xóa bỏ (1/1/2005) thì
tốc độ ngành dệt may Trung Quốc khơng những đe dọa ngành công nghiệp dệt may các nước
nhập khẩu lớn mà cịn gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến xuất khẩu dệt may khác, trong đó có Việt
Nam.
6
Xu thế trận cầu hai thương mại cùng sự phát triển mạnh như của khoa học công nghiệp lại ngành
đặt may Việt Nam trước những áp lực và thách thức to lớn. Dù Việt Nam trở thành thành viên tổ
chức thương mại thế giới (WTO), trong những năm tới ngành dệt may vẫn chưa phát triển nhanh
và cạnh tranh được nhiều nước xuất khẩu. Dệt may Việt Nam vẫn chưa thể cất cánh như một số
chuyên gia phân tích thị trường đã nhận định, nếu các doanh nghiệp chưa thực sự đổi mới mạnh
mẽ hơn trong cung cách tổ chức sản xuất kinh doanh của mình.
Đã khó khăn nay cịn khó khăn hơn, cách thức kinh doanh và sản xuất cần có một sự điều chỉnh
phù hợp để các doanh nghiệp kinh doanh về lĩnh vực này không bị tụt lùi về doanh số.
Bước 2: Xác định nguyên nhân của vấn đề
Khi chưa hiểu rõ nguồn gốc của vấn đề sẽ dễ dẫn đến cách giải quyết sai lệch, hoặc vấn đề cứ lặp
đi lặp lại một vịng tuần hồn. Nếu khơng “bắt khơng đúng bệnh” thì chỉ điều trị được triệu
chứng, chứ không điều trị được bệnh, đôi khi “tiền mất, tật mang”. Dành một khoảng thời gian
nhất định để lấy những thông tin cần thiết liên quan vấn đề cần giải quyết. Có một bí mật rằng,
khơng phải bất cứ vấn đề nào cũng có thể giải quyết ổn thỏa. Dịch Covid_19 xảy ra không thể
một sớm một chiều biến mất, đơi khi có thể ta phải sống chung với chúng cả đời. Biết khai thác
và sử dụng những tiềm ẩn cơ hội trong những vấn đề ta gặp mới là một nhà quản trị tài giỏi.
Một trong những thách thức rất lớn đầu tiên của doanh nghiệp may mặc Việt Nam là chất lượng
nhân lực thấp. Năng lực sản xuất thời gian gần đây tuy đã được nâng cao nhưng mức sản xuất
thực phẩm vẫn thấp hơn năng lực sản xuất thiết kế. Hơn nữa, đa số các chủ doanh và giám đốc
DN tư nhân chưa được đào tạo bài bản, trang bị kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh tế - xã hội,
văn hóa, luật pháp, kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng kinh doanh trong điều kiện hội
nhập quốc tế khiến cho việc đào tạo các kỹ năng và thiết kế mẫu chưa theo kịp với nhu cầu thị
trường và đòi hỏi phát triển của ngành.
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh nhưng hiệu quả xuất khẩu còn thấp. Theo số liệu báo
cáo, có tới 70% kim ngạch xuất khẩu thực hiện theo phương thức gia cơng, trong đó ngành may
mặc vẫn chưa chủ động được nguồn nguyên liệu mà chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Các hoạt
động trong sản xuất chủ yếu là gia cơng cho nước ngồi hoặc chỉ sản xuất những sản phẩm đơn
giản. Đại dịch Covid_19 bùng nổ, các giao dịch quốc tế gần như đóng băng, việc vận chuyển các
nguyên liệu từ nước này sang nước khác đòi hỏi các thủ tục nghiêm ngặt phòng tránh dịch.
Nguồn cung trở nên khan hiếm khiến các doanh nghiệp dường như lâm vào tình cảnh bế tắc,
“tiến khơng được lùi không xong”.
7
Thứ ba, thị trường xuất khẩu còn nhỏ, chưa tương xứng với tiền năng sẵn có, cịn bị phụ thuộc
vào hạn ngạch, chưa thâm nhập được vào mạng lưới phân phối các thị trường lớn và phải xuất
khẩu qua trung gian. Dưới tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung có thể biến
Việt Nam thành “trạm trung chuyển” của hàng Trung Quốc đi các nước. Để đáp trả lại Trung
Quốc, Mỹ đã áp thuế lên 250 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và khơng loại trừ có
khả năng Mỹ có động thái hạn chế các sản phẩm sản xuất ở nước khác có nguồn gốc nguyên phụ
liệu từ Trung Quốc. Khi đó sẽ rất bất lợi với ngành dệt may vốn nhập rất nhiều nguyên liệu từ
nước này.Việc các doanh nghiệp Trung Quốc đưa hàng bán thành phẩm sang Việt Nam gia công
hoặc hợp tác với doanh nghiệp Việt rồi gắn nhãn mác của Việt Nam để xuất khẩu. Khi lượng
hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ tăng mạnh, các doanh nghiệp Việt cịn chịu rủi ro vì Mỹ sẽ
truy xuất nguồn gốc nguyên liệu và áp thuế bổ sung nếu sản phẩm có nguồn gốc nguyên liệu từ
Trung Quốc. Và hàng may mặc Việt Nam sẽ là đối tượng được đưa vào tầm ngắm sốt xét nhiều
nhất vì Việt Nam là nước láng giềng của Trung Quốc.
Thứ tư, thị trường nội địa với sức mua ngày càng tăng đang bị bỏ ngỏ, chưa được quan tâm đúng
mức. Thực tế thu nhập của người dân Việt không cao nên, chỉ một số bộ phận theo xu hướng
chuyển sang tiêu dùng hàng may mặc cao cấp nhập khẩu từ nước ngồi. Họ khơng chỉ chuộng cả
những bộ cánh sang trọng mà còn cả quần áo mặc thường ngày. Còn những người tiêu dùng còn
lại với mức thu nhập vừa và thấp chỉ chú trọng đến yếu tố “ăn chắc, mặc bền”, trong tiêu dùng
hàng may mặc hiện nay thì hàng may sẵn là hình thức chủ yếu vì nhanh gọn đơn giản và tiện lợi,
giá rẻ lại phong phú. Đồ may sẵn thường xuyên phải giảm giá do chất lượng thấp, tiêu thụ chậm,
tồn đọng nhiều. Một vấn đề nữa là các doanh nghiệp Việt đang phải đối đầu với hàng Trung
Quốc vì hàng Trung đang chiếm lĩnh thị trường sản phẩm may mặc đơn giản, đáp ứng nhu cầu
cho các tầng lớp dân cư chuộng đồ “vừa rẻ, vừa đẹp, vừa phong phú”. Cơn sốt “hàng nội địa
Trung” vẫn chưa hề có dấu hiệu giảm nhiệt từ ngày sàn thương mại điện tử Shopee ra đời.
Bước 3: Chọn giải pháp
Vậy câu hỏi đặt ra lúc này, là phải làm sao để giải quyết được những tồn đọng trong doanh
nghiệp may mặc vốn là bài tốn khó khiến các nhà quản trị đau đầu. Giải quyết được những
thách thức gây ra trong dịch Covid_19 có thể giải quyết được những vấn đề lớn khác. Đây là lúc
các công ty may tạo được thương hiệu Việt trong lòng người dân cả nước theo phương châm
“Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”.
Khi đứng trước một vấn đề, thật khó để đưa ra một giải pháp tối ưu nhất. Vì vậy đưa ra càng
nhiều các giải pháp ra trước hội đồng cố vấn càng tốt, từ đó nhà quản trị sẽ nhận phản hồi từ
8
những người xung quanh có những quan điểm, suy nghĩ khác để có tầm nhìn rộng hơn và từ đó,
chọn ra một giải pháp. Bên cạnh đó, yếu tố sáng tạo sẽ giúp ta tìm được giải pháp đơi khi hơn cả
mong đợi. Và chắc chắn, giải pháp tối ưu ấy sẽ xuất hiện nếu như đáp ứng được ba yếu tố: có tác
dụng khắc phục giải quyết vấn đề dài lâu, có tính khả thi, và có tính hiệu quả.
Một giải pháp phù hợp hay khơng cần nhìn nhận đúng vào thực tế để xem xét. Đại dịch
Covid_19 xuất hiện khiến hàng hóa của các doanh nghiệp may mặc trong các chuỗi cung ứng dệt
may đều phải phụ thuộc vào nhu cầu dùng hàng dệt may của người tiêu dùng nội địa. Theo em,
đây chính là cơ hội tốt đang mở ra với các doanh nghiệp may mặc. Hàng đưa đi xuất khẩu giảm,
đòi hỏi các nhà quản trị phải tập trung vào nguồn tiêu thụ của người dùng trong nước. Nhìn nhận
và đánh giá được tầm quan trọng của thị trường nội địa sẽ là bước đi tiên phong mạnh mẽ để
chiếm lấy thị trường trong nước. Kích thích dân Việt sử dụng hàng Việt Nam chính là niềm tự
hào của chúng ta, đã đóng góp một phần nhỏ bé giúp đất nước phát triển. Vì khi sử dụng càng
nhiều các sản phẩm là hàng Việt Nam, tức là các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phát triển, tạo ra
cơng ăn việc làm cho chính người dân nước mình, kéo theo việc người lao động có thu nhập sẽ
ổn định về kinh tế gia đình....
Để tận dụng được cơ hội này, việc đầu tiên các doanh nghiệp cần phải làm đầu tư đổi mới tư duy
và công nghệ phục vụ sản xuất kinh doanh. Việc đào tạo đội ngũ đứng đầu có chun mơn, năng
lực sáng tạo và dám đổi mới mới có thể đào tạo đội ngũ cơng nhân viên làm việc tăng năng suất
và lao động tốt hơn. Đội ngũ nhân viên này sẽ được lấy nguồn từ các sinh viên trẻ từ những
trường chuyên đào tạo về cơng nghiệp dệt may, những có kinh nghiệm lâu năm và làm đúng
chuyên ngành, những người sáng tạo có khả năng thiết kế những mẫu mã mới, hợp thời trang…
Muốn vậy, các doanh nghiệp cần thỏa thuận được mức lương xứng đáng và môi trường làm việc
chuyên nghiệp. Và tất nhiên, khi đã tìm được những nhân tài cùng mức lương tốt, khơng có lý do
gì doanh nghiệp đấy khơng phát triển được. Bên cạnh đó, việc có một đội ngũ điều tra, khảo sát
thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu sản phẩm là điều cần có trong các doanh nghiệp may mặc. Khơng
đi đâu xa, đó có thể là thị hiếu ngay từ những nhân viên trẻ tuổi trong các nhà máy, xí nghiệp,
hay đơn giản là thị hiếu của con cái những nhà quản trị.
Khi đã có nguồn nhân lực dồi dào, việc cần làm tiếp theo chính là thay đổi lại trang thiết bị sử
dụng theo hướng tiếp cận với công nghệ cao nhằm tăng năng suất lao động. Máy móc của các
doanh nghiệp vốn đều là những thiết bị cũ kỹ, lạc hậu. Việc phải bảo trì các hư hỏng có thể kéo
theo ảnh hưởng tới cả một dây chuyền sản xuất. Sử dụng máy móc hiện đại giúp doanh nghiệp
đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng trong nước, tạo ra giá trị thăng dư, từ đó sẽ giúp các
9
doanh nghiệp có thêm vốn sử dụng cho các mục đích thương mại khác của doanh nghiệp. Ta có
thể kể đến một trong những công ty thành viên của Vinatex, Công ty May Việt Tiến, đã đầu tư
hơn 10 triệu USD trong 5 năm để nâng cấp các dây chuyền sản xuất nhập khẩu từ Nhật Bản và
Singapore cho công ty. Hoạt động từ xa đang trở thành xu hướng làm việc mới trong thời kỳ dịch
bệnh hoành hành
Các sàn thương mại điện tử đang phát triển ngay một mạnh mẽ, để tiếp cận được người tiêu dùng
dễ dàng nhất, khơng có cách nào nhanh hơn ngồi việc xây dựng và quảng bá thương hiệu doanh
nghiệp và thương hiệu sản phẩm thông qua việc quảng cáo, marketing trên các trang mạng điện
tử. Một website hấp dẫn, một gian hàng online đầy đủ thơng tin cho người dùng cần tìm hiểu sẽ
mang sản phẩm doanh nghiệp đến với người dùng một cách nhanh nhất và tiết kiệm chi phí nhất.
Đương nhiên, một chiến dịch quảng cáo mạnh cũng có thể ngốn hàng trăm triệu đồng nhưng nó
sẽ là đáng nếu như chiến dịch đánh vào tâm lý người dùng và đưa ra những sản phẩm phù hợp.
Khi một sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường, doanh nghiệp này có thể tài trợ trang phục cho
các dự án truyền thông, sử dụng KOLs quảng bá,… Chính giải pháp đầu tư này sẽ là một biện
pháp kích cầu, coi thị trường trong nước là bàn đạp để tiến ra thị trường nước ngồi.
Một mình các doanh nghiệp may mặc thay đổi khơng đủ, cần phải có các ngành sản xuất phụ trợ
cho các doanh nghiệp phát triển, tiến đến giảm dần việc nhập khẩu nguyên phụ liệu. Cơ hội tăng
xuất khẩu sang Châu Âu sẽ tạo chất xúc tác với các nhà sản xuất nguyên phụ liệu mạnh dạn bỏ
vốn đầu tư nhà máy chuẩn bị và cung ứng nguyên phụ liệu “made in Việt Nam” nhiều hơn. Vậy
nên, chú trọng vào ngun vật liệu thân thiện với mơi trường, ít gây tác động vào hệ sinh thái sẽ
nhận được nhiều cái nhìn thiện cảm hơn từ những nước “khó tính”. Hơn thế nữa, muốn tự lực
hoàn toàn trong việc tạo ra nguyên vật liệu, cần tích cực đầu tư vào các vùng trồng bơng, có
thêm các máy kéo sợi chất lượng cao để nâng dần tỉ lệ nội địa hóa, hạ giá thành sản phẩm. Một
khi các doanh nghiệp Việt Nam khơng cịn “làm th” cho các nhà sản xuất nước ngoài, bắt đầu
sử dụng nguyên vật liệu được sản xuất trong nước và trang thiết bị hiện đại thì cả xí nghiệp sẽ
hoạt động hiệu quả hơn và có thể trở thành ngành công nghiệp đứng đầu quốc gia. Các tổ chức,
chính phủ thuộc nhà nước cũng cần xem xét và giảm bớt thuế GTGT đối với các sản phẩm phục
vụ hàng tiêu dùng nội địa, muốn khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nhà máy dệt sợi cần có
các chính sách đối xử cơng bằng giữa sợi nhập khẩu và sợi sản xuất trong nước. Điều chỉnh cơ
cấu sản xuất sản phẩm thích hợp với nhu cầu trong nước cũng là điều đáng quan tâm.
Bảo đảm sản xuất phải đi đơi với an tồn sức khỏe trong mùa dịch. Cho dù tình hình khơng bị
đóng băng như năm 2020 nhưng cá biệt ở từng đơn vị nếu không quản trị tốt để xảy ra dịch bệnh
10
trong nhà máy buộc phải đóng cửa hoặc khơng may nhà máy nằm trong vùng dịch phải đóng cửa
khơng sản xuất được sẽ bị thiệt hại rất nhiều. Vì vậy, cơng tác phịng tránh dịch được xem là yếu
tố song song với yếu tố đào tạo đội ngũ công nhân viên trong từng doanh nghiệp. Trước tình hình
dịch bệnh diễn biến phức tạp tại các khu công nghiệp trên cả nước, Hiệp hội Dệt may Việt Nam
(VITAS) đã gửi công văn kiến nghị tới Chính phủ, Bộ Y tế về việc hỗ trợ doanh nghiệp dệt may
mua, tiêm vắc-xin Covid-19 .Trong trường hợp xấu nhất, cần có biện pháp giải quyết ổn thỏa
như trợ giúp một khoản cho công nhân trang trải cuộc sống hay thực hiện cách ly ngay tại nhà
máy để đảm bảo tiến độ sản xuất. Thế nên, để tránh trường hợp dịch bệnh bùng phát và thất thu,
việc cần làm ở mỗi doanh nghiệp lúc này là đề cao mỗi cơng nhân viên phải có ý thức bảo vệ sức
khỏe và tính mạng.
Một điều đáng mừng là, theo thống kê, với gần 9 tỷ USD thu về trong quý I/2021, tăng 6% so
cùng kỳ, đã cho thấy xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đang dần vượt qua cơn bĩ cực và
trên đà khởi sắc. Nhiều doanh nghiệp (DN) cũng đã rủng rỉnh đơn hàng đến tháng 8-9/2021.
Bước 4: Thưc thi giải pháp
Một giải pháp khơng thể là trách nhiệm của một mình cấp trên, một mình nhà quản trị hay là
trách nhiệm của người lao động. Đó là trách nhiệm của tồn tập thể, cả một xã hội cùng chung
tay góp sức giúp cho doanh nghiệp phát triển. Nhà quản trị phải đưa ra được nhiệm vụ cho từng
bộ phận, ta có thể kể đến như bộ phận kỹ thuật chuyên giám sát hoạt động máy móc, bộ phận
marketing chuyên theo dõi trang mạng bán hàng, bộ phận thanh tra điều tra thị hiếu người dùng,
bộ phận nhân sự đảm bảo chất lượng công nhân viên doanh nghiệp. Tức là, phải giao từng nhiệm
vụ cụ thể cho từng nhân viên để đảm bảo bộ máy làm việc của doanh nghiệp vận hành chính xác
và hiệu quả nhất nhằm nhanh chóng khắc phục vấn đề. Và nhà quản trị phải chịu trách nhiệm
chính, giám sát được tồn bộ q trình hoạt động của mỗi bộ phận bởi đây là người đưa ra quyết
định hướng nhân viên của mình đi theo hướng đi mình vạch sẵn, vì vậy, nhà quản trị cần có cái
nhìn đúng đắn, bao quát để không đưa ra quyết định sai lầm dẫn đến làm xáo trộn cả một bộ máy
hoạt động.
Để làm được điều này không thể một sớm một chiều sẽ hồn thành, nó có thể kéo dài suốt thời
gian dịch bệnh hồnh hành và cũng có thể là phương hướng phát triển cho doanh nghiệp nếu các
bước kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và đạt được mục tiêu đúng kế hoạch đã đưa ra.
Bước 5: Đánh giá hiệu quả của giải pháp.
11
Đây là bước cuối cùng trong quá trình giải quyết vấn đề để chắc chắn vấn đề đã được giải quyết
cũng như xây dựng kinh nghiệm cho những vấn đề tương tự có thể xảy ra trong tương lai.
Các giải pháp giải quyết vấn đề rất đa dạng, giải pháp nào cũng đều có điểm mạnh và điểm yếu
riêng. Ví dụ một kế hoạch có phương án cho người dân vay vốn sẽ không hợp với một doanh
nghiệp may mặc hay một kế hoạch có phương án tìm thị hiếu may mặc của người tiêu dùng sẽ
không phù hợp với doanh nghiệp sản xuất phân bón. Một giải pháp được cho là hiệu quả với
doanh nghiệp này nhưng sẽ là thất bại của một doanh nghiệp khác. Vì vậy, giám sát tiến độ kế
hoạch một cách nghiêm túc, đánh giá hiệu quả của giải pháp là cách tốt nhất để xem xét con
đường nhà quản trị hướng cho doanh nghiệp là đúng hay sai bằng cách trả lời hai câu hỏi: “Cái gì
tốt rồi?” và “Cái gì sẽ tốt hơn?”. Hãy tận dụng khơng gian mạng nhiều nhất có thể để giúp doanh
nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Một nhà quản trị giỏi giải quyết vấn đề là người luôn được coi trọng và đánh giá cao trong bất cứ
lĩnh vực nào. Và đôi khi, thành công được định nghĩa là "có khả năng giải quyết vấn đề". Do đó,
hãy cố gắng tích lũy và thành thục kỹ năng giải quyết vấn đề để trở thành người người dẫn dắt
doanh nghiệp thành công.
12
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, trong cuộc sống chúng ta, luôn phải đối mặt với vô số vấn đề xảy ra bất chợt
trong cuộc sống dù nhỏ hay lớn thì nó đều ảnh hưởng đến cơng việc và tinh thần của mỗi người.
Chính vì vậy, việc rèn luyện cho mình một kỹ năng giải quyết vấn đề tốt sẽ giúp các doanh
nghiệp dễ dàng đưa ra những quyết định đúng đắn khắc phục những tình trạng khó khăn hiện tại
mà doanh nghiệp đang gặp phải một nhanh chóng. Đây cũng là một trong những kỹ năng quan
trọng để giúp các nhà quản trị rèn luyện tư duy của một người thành công. Những người biết
cách giải quyết vấn đề tốt sẽ đưa ra những quyết định đúng đắn tạo ra những cơ hội làm việc
thành công hơn so với những người khác. Ngồi ra, người có kỹ năng giải quyết vấn đề sẽ nhận
được sự tín nhiệm và đánh giá cao của những người xung quanh và cấp trên.
Đại dịch COVID-19, trên hết, là cuộc khủng hoảng toàn cầu nghiêm trọng. Đồng thời, tác động
của đại dịch đối với nền kinh tế toàn cầu đang tăng lên theo cấp số nhân, ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh cả trong ngắn và dài hạn. Doanh nghiệp cần phải ứng phó một cách kịp thời với
cuộc khủng hoảng này. Mỗi cấp trong bộ máy doanh nghiệp đều có vai trị trong việc ứng phó
với đại dịch và đảm bảo áp dụng các thơng lệ tốt nhất.
Mặc dù dịch bệnh hồnh hành, thế nhưng, trong quý I/2021, xuất khẩu dệt may đạt gần 9 tỷ
USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2020 dù vẫn chịu tác động cực lớn của đại dịch... Kim ngạch
xuất khẩu xơ, sợi dệt các loại trong quý I tăng 31%; kim ngạch xuất khẩu vải mành, vải kỹ thuật
khác tăng 8,8%. Điều này cho thấy sự điều chỉnh cơ cấu quản lý, áp dụng các biện pháp triệt để
trong sản xuất và an toàn đã có thành cơng khởi đầu. Trong q trình cơng nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nước, với những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng phù hợp với tình hình kinh rế nước ta,
mong rằng, các doanh nghiệp may mặc sớm vượt qua đại dịch và trở thành các doanh nghiệp
triển vọng trong việc phát triển sản xuất và xuất khẩu đem lại nguồn lực lớn cho nền kinh tế
trước mắt cũng như lâu dài./.
13