BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MƠN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TIỂU LUẬN
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
GVHD:
SVTH:
MSSV
Lớp thứ 2 - Tiết 34
Mã lớp: LLCT220514_18
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 5 năm 2022
ĐIỂM SỐ
TIÊU CHÍ
NỘI DUNG
TRÌNH BÀY
TỔNG
ĐIỂM
NHẬN XÉT
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Ký tên
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
THỨ TỰ
HỌ TÊN
NHIỆM VỤ
KẾT QUẢ
1
- Phân chia nhiệm vụ
- Soạn văn bản
Hoàn thành
2
Phần mở đầu
Hoàn thành
3
Nội dung chương 1
Hoàn thành
4
Nội dung chương 2
Hoàn thành
5
- Nội dung chương 3
- Soạn PowerPoint
Hoàn thành
6
Phần kết luận
Hoàn thành
KÝ TÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế
kỷ XX đã chứng kiến biết bao cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế
quốc Pháp. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào
chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương
Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám,
Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng
anh dũng, hào hùng nhưng kết quả cuối cùng đều không thành công và bị thực dân đàn
áp, dìm trong biển máu.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những
người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu
nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng
trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm một con đường cứu
nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu
cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
Giữa lúc đó, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh) ngày 5/6/1911 đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương | hướng
mới. Người đã đi qua nhiều nước ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã rút ra kết luận
là chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ cho giai cấp công nhân
và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Cũng từ đấy Người đã tìm đến
chủ nghĩa Mác-Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, và xác
định con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc đúng đắn: “Chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử vĩ
đại của cách mạng Việt Nam. Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những
trang sử sơi động nhất, hào hung nhất, oanh liệt nhất. Ngay tại Hội nghị thành lập
Đảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng ta đã xác định phải đặt cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc lên cao hơn, bởi lẽ đối tượng trực tiếp của cách mạng thuộc địa là chủ
5
nghĩa thực dân chứ không phải chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản. Với sự lãnh đạo tài
tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với những chiến lược đúng đắn và sáng tạo, với những
chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân
tộc ta tiếp tục giành được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc,
thể hiện những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu chính là
thắng lợi vẻ vang, hào hùng của cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời không dễ dàng và thuận lợi, để Đảng có thể ra
đời và lãnh đạo cách mạng dân tộc là một sự chuẩn bị lâu dài. Hơn ba mươi năm bơn
ba tìm đường cứu nước đầy gian khổ, nhọc nhằn qua khắp các châu lục của Bác nhằm
tìm ra con đường mới, ánh sáng mới cho cách mạng nước nhà. Người đến những nước
thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ,
đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn
của mọi đau khổ của giai cấp cơng nhân với nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như
ở các nước thuộc địa... Dưới ánh sáng Cách mạng tháng Mười, đề cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa của Lênin và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công sản
Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng
định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Đảng ra đời là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Với mục đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong sự
thành lập Đảng, đồng thời cho thấy được ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhóm chúng tơi đã chọn đề tài: “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc môn học Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
-
Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
-
Từ đó nêu lên ý nghĩa lịch sử to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam với cuộc
cách mạng dân tộc.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ
cụ thể như sau:
-
Trình bày khái quát về bối cảnh lịch sử thế giới cũng như trong xã hội Việt Nam trước
khi Đảng ra đời.
-
Trình bày về sự chuẩn bị và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng.
-
Trình bày về các vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong các sự kiện để chuẩn bị cho thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam bằng việc bám vào sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và
tổ chức.
-
Cuối cùng là rút ra được ý nghĩa lịch sử to lớn của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
với cách mạng dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
-
Trên cơ sở nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam, tiểu luận đi sâu nghiên cứu về vai
trò của Nguyễn Ái Quốc trong sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
-
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về các điều kiện cần thiết thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam giai đoạn từ năm 1911 đếm năm 1930.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc.
Phương pháp nghiên cứu
7
Trong quá trình thực hiện đề tài, sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ yếu là
phương pháp lịch sử và phương pháp lơgic. Bên cạnh đó cịn sử dụng các phương pháp
khác như phương pháp phân tích so sánh, phương pháp lịch đại, phương pháp đồng đại
và phương pháp phân kỳ.
5. Ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận cho thấy được sự bế tắc, khủng hoảng về đường lối cách mạng trước
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Tiểu luận góp phần cung cấp và làm rõ con đường làm cách mạng của Hồ Chí
Minh và vai trị to lớn trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tiểu luận cho thấy được ý nghĩa lịch sử to lớn sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu luận được chia
làm 3 chương:
Chương 1. Khái quát hoàn cảnh đất nước và hoàn cảnh ra đời của Đảng
Chương 2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Chương 3. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
8
Chương 1
KHÁI QUÁT HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA ĐẢNG
1.1. Bối cảnh thế giới trước lúc Bác ra đi tìm đường cứu nước
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã thống trị ở
Anh, Pháp, Đức và một số nước khác ở Tây Âu. Phong trào công nhân tại các nước
này phát triển từ "tự phát" đến "tự giác", mâu thuẫn cơ bản giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản trở nên gay gắt. Cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân đối với chủ
nghĩa tư bản địi hỏi phải có lý luận tiên phong dẫn đường. Để đáp ứng địi hỏi đó, chủ
nghĩa Mác ra đời với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản khẳng định sứ mệnh lịch sử tồn
thế giới của giai cấp cơng nhân là lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới,
xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Đến cuối thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản thế giới chuyển sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa. Thế giới bị chia cắt làm hai: một khu vực gồm các nước tư bản, có nền
cơng nghiệp phát triển, thường được gọi là phương Tây, còn khu vực còn lại gồm các
nước thuộc địa và phụ thuộc, nền kinh tế còn lạc hậu, thường được gọi là phương Đơng.
Thế giới hình thành mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa đế quốc, thực dân. Nó trở thành điều kiện khách quan cho phép phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa gắn bó với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là với
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước tư bản.
Sang đầu thế kỷ XX, nhiều cuộc xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các nước
đế quốc đã dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), làm cho các mâu
thuẫn vốn có của chủ nghĩa đế quốc trở nên gay gắt. Cùng với phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân ở các nước đế quốc, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc bùng lên mạnh mẽ, điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ,
I-ran, Thổ Nhĩ Kỳ, Áp-ga-nix-tan, In-đô-nê-xi-a, v.v…
Trong bối cảnh lịch sử ấy, năm 1919, Lênin cùng các nhà cách mạng chân chính
ở các nước thành lập Quốc tế Cộng sản - một tổ chức quốc tế của phong trào cách
mạng thế giới. Quốc tế Cộng sản ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất của
phong trào cách mạng vô sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên phạm vi
thế giới.
9
1.2. Hoàn cảnh đất nước ta trước lúc Bác ra đi tìm đường cứu nước
Trong bối cảnh chung của tình hình quốc tế, Việt Nam cũng bị chi phối bởi
những điều kiện lịch sử đó.
Vào giữa thế kỷ thứ XIX, đế quốc Pháp nổ súng đánh chiếm nước ta, giữa lúc
chế độ phong kiến Việt Nam đang trên đà suy tàn, mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến trở nên gay gắt. Tuy nhiên, các cuộc kháng chiến anh
dũng đó đều khơng thành cơng, đều bị dập tắt trong máu lửa. Tuy các sĩ phu giàu lịng
u nước, nhưng khơng có khả năng vạch ra được giải pháp mới phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, các phong trào
yêu nước chống Pháp đều bị thất bại.
Sang đầu thế kỷ XX, sau khi đã cơ bản hoàn thành giai đoạn vũ trang xâm lược
nước ta, đế quốc Pháp tiến hành kế hoạch “khai thác thuộc địa”, nhằm bóc lột, vơ vét sức
người, sức của ở Việt Nam. Dưới chế độ khai thác, bóc lột và thống trị của đế quốc Pháp,
xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi quan trọng:
Về kinh tế, để thu được lợi nhuận tối đa, đế quốc Pháp thi hành chính sách kinh
tế thực dân rất bảo thủ và phản động, đó là duy trì phương thức sản xuất phong kiến
kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
dưới hình thức thực dân được du nhập vào Việt Nam. Nhân dân Việt Nam bị bần cùng
hóa, nơng dân, thợ thủ cơng phá sản, ngày càng nghèo đói.
Về chính trị, đế quốc Pháp thực hành chính sách chính trị chuyên chế. Chúng
dùng lối cai trị trực tiếp bằng bộ máy cơng chức chun nghiệp người Pháp, thâu tóm
mọi quyền hành. Đối với nhân dân ba nước Đơng Dương thì sau khi đẩy họ chống lại
nhau, chúng “lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại”, lập nên xứ “Đơng
Dương thuộc Pháp”. Chúng cịn bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ, đàn áp dã man mọi
hoạt động yêu nước của nhân dân ta.
Về văn hóa, xã hội, đế quốc Pháp thi hành chính sách ngu dân, truyền bá văn hóa
nơ dịch, phản động, khuyến khích đồi phong, bại tục, gây tâm lý tự ti, vong bản.
Chúng tước hết mọi quyền sống của con người, lập nhà tù nhiều hơn trường học.
Chúng tìm mọi cách để ngăn chặn ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa tiến bộ trên thế
giới vào Việt Nam.
10
Cũng vào thời điểm đó, các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản trên thế giới dồn dập
dội vào nước ta: tư tưởng của Cách mạng Nga năm 1905 dưới tác động của nước Nhật
duy tân, chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng dân tộc, dân quyền của
Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tư tưởng của Cách mạng tư sản Pháp, v.v.. Dưới
ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng trên, phong trào yêu nước Việt Nam chuyển sang
khuynh hướng mới mà ta thường gọi là cuộc vận động dân tộc dân chủ tư sản, tiêu
biểu là các phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của
Lương Văn Can, cải cách dân chủ của Phan Châu Trinh, phong trào chống thuế ở
Trung Kỳ, v.v.. Sau một thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp
nhau tan rã trước sự đàn áp man rợ của đế quốc Pháp.
Những thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trên đây dẫn đến những thay
đổi về tính chất và mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam, về đối tượng và lực lượng
của cách mạng Việt Nam. Cơ cấu giai cấp xã hội cũng thay đổi: giai cấp cơng nhân và
giai cấp tư sản hình thành cùng với sự phân hóa của các giai cấp cũ, rồi kéo theo sự
thay đổi về ý thức xã hội và đời sống.
Vượt qua sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc đó, vượt lên
những hạn chế của các sĩ phu yêu nước đương thời, bằng thiên tài trí tuệ và bằng hoạt
động thực tiễn của mình, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đáp ứng kịp thời địi hỏi
bức thiết đó, đã tìm ra giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.
Người tổng cơng trình sư, vừa thiết kế vừa thi cơng cơng trình này, trước hết là
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Trong lúc đất nước đang cơn khủng hoảng, thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ sôi
động, tháng 6 - 1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba từ bến cảng Nhà Rồng
trên tàu Latútsơ Tơrêvin rời Tổ quốc thân yêu vượt trùng dương đi tìm chân lý cách
mạng.
1.3. Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1903, Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên
bố thành lập, đó là: Đơng Dương Cộng sản Đảng (17-6-1929), An Nam Cộng sản
Đảng (mùa Thu năm 1929), Đông Dương Cộng sản Liên đồn (l-l-1930). Điều đó
phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự
tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn
11
đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản
duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách
mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp
ứng yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại
bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn
Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt,
Điều lệ vắn tắt của Đảng.
12
Chương 2
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Những chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời
Đảng Cộng Sản Việt Nam
2.1.1. Chuẩn bị về tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc là người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm
làm chuyển biến nhận thức của quần chúng nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân.
Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được
Nguyễn Ái Quốc cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng
được truyền thụ đến quần chúng. Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực
dân Pháp đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam; nêu lên mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.
2.1.2. Chuẩn bị về chính trị
Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu nước đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam, thể hiện rõ trong những bài giảng của Người cho những cán bộ
cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm
1927, được in thành sách “Đường Cách mệnh”.
Và trong đó nội dung có những vấn đề đó là:
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là cơng nơng, vì vậy phải tổ
chức quần chúng lại.
+ Cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo.
+ Phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế
giới…Người chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành
cơng thì phải lấy dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền.
+ Phải bền gan, phải hy sinh.
+ Phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
13
Người nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như tính chất giải
phóng dân tộc của cách mạng, những động lực chủ yếu của nó, lấy cơng nhân và nơng
dân là “gốc cách mệnh”, “học trị, nhà buôn, điền chủ nhỏ” là bầu bạn cách mệnh của
cơng nơng.
Người cịn nêu quan điểm cực kỳ quan trọng: Đảng Cộng sản là nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng.
Người xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới: “An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu
thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ” và “ai làm cách mệnh trong thế
giới đều là đồng chí của dân An Nam cả”.
Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị rất lớn trên phương diện lý luận và thực
tiễn. Nó đóng vai trò chủ đạo trong việc truyền bá tư tưởng cách mạng của Người vào
Việt Nam, là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về
đường lối của cách mạng Việt Nam, vạch ra phương hướng cho cách mạng nước ta đi
vào quỹ đạo của cách mạng vơ sản thế giới, góp phần chuẩn bị về chính trị, tư tưởng
cho việc thành lập Đảng; là thành cơng nổi bật của Người trong chuẩn bị về chính trị
và tư tưởng
2.1.3. Chuẩn bị về tổ chức
Cùng với việc truyền bá lý luận chính trị để chuẩn bị cho sự ra đời của một chính
Đảng, Người đã dày cơng chuẩn bị về mặt tổ chức đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ
các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tiến tới thành
lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một tổ chức tiền thân có tính chất quá độ, vừa tầm,
thích hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Nó giúp cho những người Việt
Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng
của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị về
mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Chính những thanh niên u nước và sục sơi hoài bão cách mạng trong Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên đã thực hiện phong trào “vơ sản hố” để đi sâu vào phong
trào đấu tranh của quần chúng, truyền bá lý luận Mác - Lênin và đường lối cách mạng
đúng đắn vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giác ngộ họ và tổ chức
14
cho họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Đồng thời, thơng qua “vơ sản hố” lớp
lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp
công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân
lao động, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ,
tiến tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín mùi
và hợp qui luật cho sự ra đời của Đảng.
Như vậy, có thể thấy rằng Người đã chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ
chức, là một sáng tạo lớn và vững chắc cho việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào
mùa xuân năm 1930. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, mà lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc giữ vai trò là người kiến tạo và sáng lập. Điều đó càng làm sáng tỏ thêm vai
trò to lớn của tầm cao tư tưởng và phương pháp hoạt động thực tiễn của Người trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
2.2. Hội nghị thống nhất thành lập Đảng
Lý do:
Được nghe báo cáo về tình hình khơng thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở
trong nước và Hội Việt Nam cách mạng thanh niên bị tan rã, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm
tới Trung Quốc vào ngày 23-12-1929. Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng họp tại Hồng Công ngày 6-1-1930 để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung:
Hội nghị kéo dài đến tuần đầu tháng 2-1930. Ngày 8-2-1930, các đại biểu về
nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960 quyết nghị "từ nay
trở đi lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng".
Để chỉ đạo Hội nghị tiến hành đạt mục tiêu thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc xác định rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải tự
phê bình và phê bình về những thành kiến giữa các tổ chức cộng sản, dẫn đến tình
trạng xung đột, cơng kích lẫn nhau, phải xóa bỏ những khuyết điểm đó và thành thật
hợp tác để thống nhất các tổ chức cộng sản. Tiếp đó, Hội nghị bàn về việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và thảo luận thơng qua Chính cương, Điều lệ, kế hoạch thực
15
hiện việc thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, cử Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời. Những ý kiến chỉ đạo đó của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị tán
thành và thực hiện.
Hai tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng
đã phê bình lẫn nhau, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ ra những sai lầm, khuyết
điểm của họ. Những khuyết điểm chủ yếu của An Nam Cộng sản Đảng là: điều kiện
cơng nhận đảng viên chính thức quá khắt khe, điều kiện gia nhập Công hội, Nông hội,
Học sinh hội cũng quá khắt khe.
Đông Dương Cộng sản Đảng thì phạm các sai lầm, khuyết điểm: điều kiện cơng
nhận đảng viên chính thức và điều kiện kết nạp vào Công hội quá khắt khe; về mặt tổ
chức, đảng có tính chất bè phái, xa quần chúng, làm tan rã hai tổ chức Thanh niên và
Tân Việt.
Kết quả phê bình và tự phê bình đó dẫn tới sự thống nhất thành lập một Đảng
Cộng sản.
Hội nghị thảo luận và tán thành ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
thông qua kế hoạch thành lập một Đảng Cộng sản lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam;
thống nhất cách cử Ban Chấp hành Tung ương lâm thời: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, có năm ủy
viên do Đơng Dương Cộng sản Đảng cử, Nam Kỳ có hai ủy viên do Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng cử. Như vậy, Ban Chấp hành Trung ương
lâm thời có tổng số bảy ủy viên.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.
Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức Công hội, Nông hội, Hội phản
đế. Theo đó, Cơng hội và Nơng hội sẽ thu hút những công nhân và nông dân không thể
kết nạp vào Đảng. Các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản vào Hội Phản đế. Hội nghị xác
định rõ thái độ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên là cử cán bộ vào Nam Kỳ để lãnh đạo và đưa tổ chức này vào Hội Phản đế, đối
với Tân Việt thì khơng giải tán và cũng đưa vào Hội Phản đế, kết nạp những người ưu
tú trong tổ chức đó vào Đảng. Đảng chủ trương tranh thủ Quốc dân Đảng, thu nạp
đảng viên của Đảng này vào Hội Phản đế. Để thực hiện chủ trương đoàn kết các tố
chức cách mạng trong Mặt trận phản đế, "Đảng chỉ định một đồng chí chịu trách
16
nhiệm họp đại biểu tất cả các đảng phái như Tân Việt, Thanh niên, Quốc dân Đảng,
Đảng Nguyễn An Ninh, v.v. để thành lập Mặt trận phản đế và về sau cá nhân hoặc tổ
chức đều có thể gia nhập".
Đảng sẽ thành lập Hội Cứu tế do những đảng viên được Đảng cử ra phụ trách và
tuyên truyền phát triển hội viên. Hội Cứu tế làm nhiệm vụ đấu tranh chính trị bảo vệ
những chiến sĩ cách mạng, giúp đỡ họ và gia đình họ về vật chất khi họ bị chính quyền
thực dân bắt bớ, kết án và tù đày…
Về báo chí của Đảng, Hội nghị thành lập Đảng quyết định bỏ những tờ báo của
Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng xuất bản trước đây. Xuất bản
một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là mốc lịch sử đánh dấu sự trưởng
thành của phong trào cách mạng Việt Nam, là bước ngoặt của lịch sử cách mạng Việt
Nam. Đó là thành quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Mác- Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước.
2.3. Soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì
nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia
thành nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc).
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi
vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập
đại biểu của hai nhóm (Đơng Dương và An Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại
Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc).
Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06-01-1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày
03-02-1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và
Sách lược vắn tắt của Đảng [2] đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn
17
đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện
trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam: Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có cơng nhân,
nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải quyết, đi đến xác định đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu
ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa
nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc
lập”. Cương lĩnh đã xác định: Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản
để giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành
độc lập cho dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.
Cương lĩnh cịn xác định rõ các vấn đề về phương diện xã hội, kinh tế; xác định
rõ lực lượng cách mạng: phải đồn kết cơng nhân, nơng dân - đây là lực lượng cơ bản,
trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản
dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống kiến, thực
hiện dân tộc lập, người cày ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết
tha của đại đa số nhân dân ra là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực
lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, cịn các đảng phái của các giai cấp
khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của
giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo
theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và
thấm nhuần tinh thần dân tộc; xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần
18
chúng , trong bất cứ hồn cảnh nào cũng khơng được thoả hiệp; xác định tinh thần
đoàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rõ trong khi thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
đồng thời tranh thủ sự đồn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản
thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Tóm lại, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc
điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong những năm 20 của thế
kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc
biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách của
cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách
mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã
đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các
tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín
chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và
chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị
hợp nhất dù vắn tắt, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
19
Chương 3
Ý NGHĨA LỊCH SỬ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã
mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất
phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc và sự đồn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của
giai cấp, của dân tộc.
Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đưa cách mạng Việt Nam sang một
bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của
cách mạng vơ sản thế giới. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của
phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đồn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì
lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng
chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm
gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Theo đó, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định sự lựa chọn con
đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam - con đường cách mạng vơ sản. Con đường
duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Sự lựa
chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời đại mới
được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, khơng cịn con
đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần
nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm
1930 với sự ra đời của Đảng ta”.
20
Thứ tư, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào cơng nhân và phong trào u
nước Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng: “Việc
thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách
mạng”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có
một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam,
đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế
của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng
Việt Nam. Đường lối đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện
lịch sử mới.
Đồng thời, việc Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được
sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Hơn thế nữa, cách mạng Việt Nam cũng góp
phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc
lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Do đó, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn cách mạng Việt Nam trở
thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới. Vì vậy, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời chính là sự chuẩn bị tất yếu, quyết định cho những bước phát triển
nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng
đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
21
KẾT LUẬN
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, tình hình thế giới đang có những chuyển biến vơ
cùng quan trọng, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa
Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Thời kì q độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội đã mở.
Việt Nam chịu ách thống trị của thực dân Pháp với những áp bức bốc lột nặng nề
cả về chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội. Mâu thuẫn trong xã hội đang gay gắt hơn
bao giờ hết. Cùng lúc đó biết bao nhiêu phong trào đấu tranh của nhiều lực lượng và
theo nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau liên tục nổ ra nhưng đều bị thực dân
Pháp đàn áp, dìm trong biển máu. Cách mạng Việt Nam lầm vào tình trạng khủng
hoảng cả về đường lối và giai cấp lãnh đạo.
Sớm nắm bắt được xu thế của thời đại và nhu cầu của cách mạng Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lênin con đường cách mạng giải
phóng dân tộc, mang lại sự tự do cho nhân dân, đó là đường lối cách mạng theo con
đường cách mạng vơ sản. Nắm bắt tình hình thế giới đang có lợi, Nguyễn Ái Quốc đã
từng bước chuẩn bị mọi điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời như một điều tất yếu, mang một
ý nghĩa hết sức to lớn, Đảng như một ngọn hải đăng soi sáng cho con tàu sự nghiệp
cách mạng Việt Nam có thể đi đến đích cuối cùng là giải phóng dân tộc.
Với những đường lối cách mạng đúng đắn, những chiến lược sáng suốt, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã cùng nhân dân xây dựng nên một lực lượng cách mạng to lớn
và rộng khắp cùng nhau đấu tranh chống thực dân và bọn tay sai phản động vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc.
Q trình thực tế lịch sử đã chúng minh rằng: Lựa chọn con đường cách mạng vô
sản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một sự
lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt của Cách mạng Việt Nam, mà người tiên
phong là Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh-vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam,
người thầy vĩ đại của Đảng. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của một chiến sĩ
Cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, là biểu tượng của khí phách anh hùng, ý chí độc lập
tự cường, kiên trì lý tưởng, sáng tạo và quyết thắng.
22
Một lần nữa cũng đã cũng cố vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc tổ
chức, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam là vô cùng to lớn. Song, vấn đề có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng là Người đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng kiên
cường, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng cũng như xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cả một kho
báu về lý tưởng, lý luận, phương pháp, kinh nghiệm và mẫu mực cách mạng.
Giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đang ngày càng tỏa sáng, dẫn
đường cho dân tộc Việt Nam và cho cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong thế kỷ
XX, và mãi mãi là ngọn cờ đưa dân tộc Việt Nam tiến lên trong thế kỷ mới.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban biên tập Sở tư pháp tỉnh Bắc Giang, Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt
Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Cổng thông tin điện tử Sở tư pháp
tỉnh
Bắc
Giang,
/>
wtMnvtGfRUNi/content/y-nghia-lich-su-su-ra-oi-ang-cong-san-viet-nam-va-cuong-lin
h-chinh-tri-au-tien-cua-ang/21712, 10/5/2022.
2. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Bác Hồ thời niên thiếu, Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1989, tr.51.
3. Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo (2019), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính Trị Quốc Gia Sự Thật.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998, tập 2.
5. Trung Tá, ThS. Lê Thanh Huế, Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Khoa Lịch sử Đảng- Học viện Chính trị, 2015.
6. Cẩm Linh, “Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - Bước ngoặt của cách mạng Việt Nam”,
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, />l, 10/5/2022.
7. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.9, tr.313-314.
8. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.2, tr.116, 99.
9. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, t.1, tr.477.
10. Lui Stơrông, Ba lần nói chuyện với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo Nhân Dân, ngày
19/05/1965
11. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, tr.13.
12. Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, NXB Chính trị
quốc gia, 2008.
24