TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
MÃ ĐỀ: 05
TIỂU LUẬN MÔN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tên đề tài: Chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Đảng từ
đại hội VIII (1996) đến nay, và vấn đề thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các
quan hệ quốc tế.
Họ và tên: Nguyễn Tiến Quang……….
Mã sinh viên: 19810430244……………
Lớp: D14TDH&DKTBCN3…………...
Hà Nội, 12/2021
MỤC LỤC
A.
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................1
B.
NỘI DUNG..............................................................................2
I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................2
1.
Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế..............2
1.1.
Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo...............................2
1.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế..................................................3
2.
Thành tựu và ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân........................4
2.1.
Thành tựu và ý nghĩa......................................................4
2.2.
Hạn chế và nguyên nhân..................................................6
II. VẬN DỤNG..........................................................................7
1. Thực trạng đẩy mạnh hội nhập hợp tác quốc tế theo đường lối của
Đảng.......................................................................................7
2.
1.1.
Phát triển kinh tế gắn liền với hội nhập quốc tế.....................7
1.2.
Hội nhập quốc tế gắn liền với độc lập tự chủ........................8
Vai trị của Nhà nước trong q trình hội nhập quốc tế hiện nay
12
C.
KẾT LUẬN...........................................................................14
D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................15
A. LỜI MỞ ĐẦU
Từ những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công
nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của
các quốc gia, dân tộc.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, đặc biệt là những nước đang
phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh
thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý
sản xuất kinh doanh.
Và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Khi chiến tranh vừa kết thúc, những hậu quả
còn tồn tại rất nhiều, điều này đã làm cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giời là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt
hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các
quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực bên ngồi, trong đó việc mở rộng
và tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Chính vì điều này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (06/1996) đã
khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các
trung tâm kinh tế, chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh
tế mở” và “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội VIII xác định rõ quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác như: ra sức
tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN; không
ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống; coi trọng quan hệ với các nước
phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị thế giới; đồn kết với các nước đang phát
triển, với phong trào không liên kết; tham gia tích cực và đóng góp cho hoạt động của các
tổ chức quốc tế, các diễn đàn quốc tế.
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất
là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế
quốc tế và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất
cả các lĩnh vực đặt ra cho chúng ta khơng ít thách thức, đặc biệt là những bất ổn về kinh
tế, về chính trị, an ninh, xã hội từ bên ngoài; các loại tội phạm xuyên biên giới như: buôn
bán ma túy, rửa tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm khơng lành
mạnh và các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của
an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Để càng làm rõ hơn những đổi mới trong đường lối hội nhập quốc tế cũng như thực
hiện nhất quán đường lối trong việc đa dạng hóa, đa phương hóa quốc tế, em đã chọn đề
tài “Chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế của Đảng từ đại hội VIII (1996) đến nay, và
vấn đề thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa,
đa phương hóa các quan hệ quốc tế” để làm bài tiểu luận môn học.
1
B. NỘI DUNG
I.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế
1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
a. Cơ hội và thách thức
Xu thế hịa bình, hợp tác phát triển và xu thế tồn cầu hóa kinh tế tạo thuận lợi cho
nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi của sự
nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề mới
cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh những cơ hội, thì Việt Nam cũng sẽ gặp phải những thách thức khi tham
gia hội nhập quốc tế. Những vấn đề tồn cầu như phân hóa giàu nghèo, dịch bệnh, tội
phạm xuyên quốc gia,…gây tác hại bất lợi đối với nước ta.Nền kinh tế Việt Nam phải
chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả 3 cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia; những
biến động trên thị trường quốc tế tác động nhanh và mạnh hơn đến thị trường trong nước,
tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính.Lợi dụng tồn cầu
hóa, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá chế độ
chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau (cơ
hội khơng tự phát huy mà tùy thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ
tạo thế và lực mới để vượt qua thách thức. Ngược lại, nếu không tận dụng hoặc bỏ lỡ cơ
hội thì thách thức sẽ tăng lên, cản trở sự phát triển).
b. Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại
Lấy việc giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi cho công cuộc đổi mới để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc.
Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực đáp ứng yêu cầu
phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trị và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
c. Tư tưởng chỉ đạo
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc
các quan điểm:
Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng
của Việt Nam.
Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ đối ngoại.
2
Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy
mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối
tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.
Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính
trị xã hội. Coi trọng quan hệ hịa bình, hợp tác trong khu vực; chủ động tham gia các tổ
chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
Kết hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Xác
định hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của tồn dân.
Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; bảo
vệ mơi trường sinh thái trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát huy tối đa nội lực đi đơi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh trong q trình hội nhập.
Trên cơ sở thực hiện các cam kết gia nhập WTO, đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể
chế, cơ chế, chính sách kinh tế phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà
nước.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết tồn dân trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
1.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập
kinh tế quốc tế
Trong các văn kiện của Đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 4 khóa X (2/2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn như sau:
Một là, đưa các quan hệ quốc tế đã thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.
Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với
các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại tồn cầu,
thiết lập một trật tự kinh tế mới cơng bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo
vệ quyền lợi doanh nghiệp Việt Nam tranh các cuộc tranh chấp thương mại với các nước
khác, hạn chế được những thiệt hại trong hội nhâp kinh tế quốc tế.
Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp. Chủ
động và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng những ưu đãi
mà WTO dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực
nhưng phải hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.
Ba là, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với
các nguyên tắc, quy định của WTO. Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa
dạng hóa các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình
thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường; xây dựng các sắc thuế công
bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể kinh doanh.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy
nhà nước. Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính khơng cịn phù hợp; đẩy
3
mạnh phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm và kiểm tra, giám sát; thực hiện công
khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý.
Năm là, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút
đầu tư nước ngoài để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; các doanh nghiệp điều
chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và thị
trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức cạnh
tranh của một số sản phẩm.
Sáu là, giải quyết tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và mơi trường trong quá trình hội
nhập. Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong q trình hội nhập; xây dựng
cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa
khơng lành mạnh, gây phương hại đến sự phát triển đất nước, văn hóa và con người Việt
Nam; kết hợp hài hịa giữa giữ gìn và phát huy các giá trị trị văn hóa truyền thống với
tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa tiên tiến trong q trình giao lưu với các nền văn
hóa bên ngoài.
Bảy là, xây dựng và vận hành mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo hiểm, y
tế; đẩy mạnh cơng tác xóa đói, giảm nghèo; có các biện pháp cấm, hạn chế nhập khẩu
những mặt hàng có hại cho môi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo vệ
môi trường.
Tám là, giữ vững và tăng cường quốc phịng, an ninh trong q trình hội nhập.
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án
chống lại âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch.
Chín là, phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà
nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Tạo cơ chế phối
hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân
dân nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song
phương và đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mwor rộng
quan hệ kinh tế đôi ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Mười là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, trọng tâm là cải cách
hành chính.
2. Thành tựu và ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân
2.1. Thành tựu và ý nghĩa
Sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước,
Việt Nam đã và đang thực hiện đường lối mở rộng mối quan hệ đối ngoại, hội nhập vào
nền kinh tế quốc tế, chủ động tham gia giải quyết các vấn đề mang tính tồn cầu,…Việt
Nam đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần nâng cao vị trí của Việt Nam trên
trường thế giới.
Thứ nhất, giải quyết hịa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các
nước liên quan.
4
Công tác biên giới, lãnh thổ đạt nhiều tiến bộ quan trọng có tính bước ngoặt. Đàm
phán thành cơng với Malaixia về giải pháp “Gác tranh chấp, cùng khai thác”; Việt Nam
và Lào, Cam-pu-chia đã ký Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa ba nước;
Việt Nam và Trung Quốc đã hồn thành cơng tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên
giới đất liền theo đúng thỏa thuận. Đây là một sự kiện mang tính lịch sử trọng đại, tạo
mối liên kết Việt – Trung hịa bình, vững bền, ổn định. Ngoài ra, chúng ta cũng theo dõi
chặt chẽ tình hình xảy ra trên biển để kịp thời đối phó, xử lí kịp thời, bảo vệ quyền lợi
của nước Việt Nam.
Mở rộng mối quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa. Chủ
động trong các mối quan hệ song phương, chú trọng vào hiệu quả đối với các nước láng
giềng và một số nước lớn như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên Bang Nga,… đưa
mối quan hệ lên mức ổn định, bền vững…Mở rộng trên cục diện “Đa phương hóa, đa
dạng hóa”.
Phát huy tốt mối quan hệ chính thức với các Ủy viên Thường trực của Liên Hợp
Quốc, củng cố vai trò của mình với cương vị là ủy viên khơng thường trực của Hội đồng
bảo an Liên Hợp Quốc. Ký hiệp định khung về hợp tác EU (1995); thiết lập mối quan hệ
đối tác chiến lược trên toàn diện Việt Nam – Trung Quốc. Mở rộng quan hệ hợp tác với
168 trên tổng số 200 nước trên thế giới.
Thứ hai, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.
Hiện nay , Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, hoàn thành quá trình cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Việt Nam đã, đang và sẽ không ngừng tham gia vào các tổ
chức kinh tế trên thế giới, từng bước đưa nền kinh tế Việt Nam lên vị trí trên trường thế
giới. Và Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng kể, lần lượt trở thành thành viên của
các tổ chức quốc tế.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) , Ngân hàng thế giới (WB) , Ngân hàng phát triển Châu
Á (ADB); Gia nhập tổ chức ASEAN(7-1995) , Khu vực Mậu dịch tự do (AFTA); Diễn
đàn hợp tác Á- Âu (ASEM); Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC); Và gần đây nhất, Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO).
Thứ ba, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường tiếp thu khoa học công
nghệ và kỹ năng quản lý.
Về mở rộng thị trường: Tạo dựng quan hệ thương mại với 180 quốc gia và vùng
lãnh thổ ; Tiến hành xuất khẩu hàng hóa vào thị trường thế giới ; Đẩy nhanh thể chế kinh
tế thị trường, hoàn thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; Từ năm 1986 – 2008 kim ngạch
xuất khẩu của nước ta tăng khá nhanh (789 triệu USD – 62.9 tỉ USD). Trong một thời
gian ngắn, nước ta đã thu hút được khối lượng lớn đầu tư nước ngoài. Đầu tư trên hầu hết
các lĩnh vực kinh tế , văn hóa , du lịch,…Đến 2008, vốn đầu tư nước ngoài đã đạt đến 65
tỉ USD.
Gần đây, tác động ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc của cách mạng khoa học - công
nghệ và kinh tế tri thức đã dẫn tới sự phát triển mang tính nhảy vọt trong xã hội, nó trở
thành một xu thế tất yếu trong thời đại. Trong đà đó, Việt Nam cũng tích cực chủ động
5
hội nhập kinh tế. Tạo mọi cơ hội để tiếp cận các thành tựu khoa học – công nghệ trên thế
giới ; Thông qua các dự án liên doanh Việt Nam đã tích lũy thêm được nhiều kinh
nghiệm quan lý sản xuất hiện đại của các nước phát triển.
Thứ tư, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào mơi
trường cạnh tranh.
Trong q trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận với các trang
thiết bị hiện đại, môi trường quản lý tốt, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng, tăng
khả năng cạnh tranh. Việt Nam từng bước đưa các doanh nghiệp vừa và nhỏ hội nhập với
nền kinh tế thế giới; Tuy cịn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam luôn tranh thủ
các cơ hội tốt nhất để các doanh nghiệp có thể phát huy hết tiềm năng, kinh doanh có
hiệu quả và nâng cao tối đa sự cạnh tranh.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị
động. Chưa xây dựng quan hệ lợi ích đan xen, tùy thuộc lẫn nhau với các nước. Một số
chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hồn chỉnh; khơng đồng bộ gây
khó khăn cho việc thực hiện các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế. Chưa hình hành
được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh té quốc tế và một lộ trình hợp lý
cho việc thực hiện các cam kết. Doanh nghiệp nước ta có quy mô nhỏ, yếu kém cả về
quản lý và công nghệ, trình độ trang thiết bị lạc hậu, kết cấu hạ tầng và các nghành dịch
vụ cơ bản đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực. Đội
ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng,
các doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh, công tác tổ
chức chỉ đạo chưa sát và chưa kịp thời.
Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1996 đến
năm 2008, mặc dù còn những hạn chế, nhưng thành tựu là cơ bản, có ý nghĩa rất quan
trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nền kinh tế Việt Nam
có bước phát triển mới, thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên thương trường và
chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong 20 năm qua đã chứng minh đường
lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng trong thời kì đổi mới là đúng đắn và
sáng tạo.
6
II.
VẬN DỤNG
1. Thực trạng đẩy mạnh hội nhập hợp tác quốc tế theo đường lối của Đảng
1.1. Phát triển kinh tế gắn liền với hội nhập quốc tế
Tồn cầu hố, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu
thế nổi bật của kinh tế thế giới. Phù hợp với xu thế đó, từ năm 1996 đến nay, Việt Nam đã
tiến hành công cuộc đổi mới và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm “đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Việt Nam
luôn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hố các quan hệ quốc tế,
chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
nhiều lĩnh vực. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.Những kết quả đạt được trong
q trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Về quan hệ hợp tác song phương
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và
vùng lãnh thổ, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định
khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định
hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5 nước
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G8; nâng quan
hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược toàn diện, gia tăng nội
hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật
Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban Nha.
Về hợp tác đa phương và khu vực
Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như
Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc
tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp
tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đơng
Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ
1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp
tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh
tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan
trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) vào ngày 11/01/2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này. Với việc gia
nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư
7
đồng bộ, theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, góp phần quan trọng cho vỉêc xây
dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Hội nhập ngày càng sâu rộng, tham gia hầu hết các tổ chức, định chế quốc tế và
khu vực chủ yếu trên thế giới
Việt Nam là thành viên tham gia sáng lập và là một thành viên tích cực của Diễn
đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; Việt Nam được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) vào năm 1998. Việt Nam đã được đánh giá là
một trong những thành viên năng động, đã có nhiều sáng kiến hợp tác và đóng góp tích
cực cho các Diễn đàn hợp tác quốc tế quan trọng này.
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, dự kiện này được coi là một bước đột
phá về hành động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Việc tham gia
ASEAN và thực hiện các cam kết nhằm xây dựng Cộng đồng ASEAN sẽ đóng góp thiết
thực cho việc góp phần tạo mơi trường hịa bình, ổn định cải thiện mơi trường luật pháp
trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài,
cũng như làm cơ sở, tiền đề giúp Việt Nam tham gia các khuôn khổ hợp tác song phương
và đa phương khác. Các hoạt động kinh tế đối ngoại đã đóng góp tích cực vào việc tái cơ
cấu tổng thể nền kinh tế, đổi mới công nghệ, mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu hàng hóa và lao động, tăng cường thu hút đầu tư, thu hút khách du lịch…
Phù hợp với xu hướng thiết lập các khu vực thương mại tự do trên thế giới, tính
đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 56 quốc
gia và nền kinh tế trến thế giới, trong đó 6 FTA do ta chủ động tham gia ngồi khn khổ
nội khối ASEAN hoặc với nước đối tác của ASEAN.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã hoàn tất đàm phán để ký kết Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP). Đây là một Hiệp định được kỳ vọng sẽ trở thành một khuôn khổ
thương mại tồn diện, có chất lượng cao và là khn mẫu cho các Hiệp định thế kỷ XXI.
Việc tham gia vào Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ
hội do quá trình hội nhập kinh tế khu vực đem lại, đồng thời Việt Nam có thêm điều kiện,
tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai
chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương nói riêng.
1.2. Hội nhập quốc tế gắn liền với độc lập tự chủ
1.2.1. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế
Trước hết, cần xác định đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu
đậm trong quá trình chúng ta đổi mới, phát triển đất nước và mở cửa, hội nhập với thế
giới. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu được xử lý tốt sẽ tạo
tiền đề, điều kiện cho nhau, phát huy lẫn nhau, vừa thống nhất vừa thúc đẩy nhau trong
việc bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt,
hai mặt của mối quan hệ này sẽ hạn chế, cản trở lẫn nhau. Để giải quyết thật tốt mối quan
hệ này, trước hết cần thấy rõ bản chất và nội hàm của nó thể hiện rõ trên những điểm cơ
bản sau:
(1) Độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Điều đó thể hiện:
8
Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cơ lập với thế giới bên ngồi, khơng
đứng ngồi hôi nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, tự lựa
chọn con đường phát triển, tự quyết định mơ hình phát triển của quốc gia, dân tộc. Tự
chủ là năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết dân tộc trên thực tế.
Độc lập, tự chủ bao gồm độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an
ninh, đối ngoại, ... Do đó, khơng có độc lập, tự chủ thì khơng thể nói tới hội nhập quốc tế
chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trị quyết định trong mối quan hệ với
hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định lộ
trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực,... hội nhập quốc tế.
Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong lựa chọn, đề xuất các giải
pháp đồng bộ, hữu hiệu. hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực trong q
trình hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích, xử lý
thơng tin để có những giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ
của tình hình thế giới và khu vực, mới chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế.
Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội to lớn, đồng thời hạn chế
tối đa những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, đang phát triển
như Việt Nam do quá trình trình tồn cầu hóa gây ra.
Năm là, độc lập, tự chủ sẽ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy được
lợi thế so sánh của mình trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát triển. Đây
cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.
(2) Hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của
quốc gia, dân tộc. Có thể nhận rõ điều đó như sau:
Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững độc
lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc
phịng, an ninh.
Hai là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cho chúng ta những cơ hội thuận lợi để huy động
nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước.
Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện thành cơng
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Bốn là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, mơi trường hịa bình,
ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự chủ.
Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu
rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới cũng như thể chế kinh tế khu vực, như Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng phát triển châu Á (ADB),v.v...
Sáu là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế còn tạo điều kiện, cơ hội cho chúng ta
xuất khẩu lao động.
9
1.2.2. Phương thức giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
Mối quan hệ giữa giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cần được giải
quyết hài hịa, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn của đất nước. Việc xử lý mối
quan hệ này không thể đơn giản mà phải có sự thấu đáo và khoa học trên mấy phương
diện sau:
Trên phương diện kinh tế, trước hết, muốn độc lập, tự chủ, quốc gia phải có thực
lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp
lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết; nền kinh tế phát triển bền vững và có năng
lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú
với tỷ lệ các mặt hàng cơng nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị
trường quốc tế đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục
tiêu. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài, mặc dù là cần thiết và quan trọng nhưng khơng để
chiếm lĩnh vai trị chi phối nền kinh tế quốc gia cũng như không thể được phép vào
những ngành nhạy cảm có thể gây tổn hại đến an ninh, quốc phòng của đất nước. Một
nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hố có thể được hiểu là nền kinh tế có
khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương
trước những biến động đó; trong bất cứ tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì
được các hoạt động bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh,
quốc phòng của đất nước.
Trên phương diện xã hội, yêu cầu của một quốc gia độc lập, tự chủ hàm chứa năng
lực thực hành thuần thục hai cách thức quản trị xã hội: chính thức (tức là bằng pháp luật
và các quy định thành văn) và phi chính thức (bằng con đường tuyên truyền, vận động,
giáo dục...).
Sự phát triển sâu rộng của q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay
đang tạo ra hàng loạt khơng gian quyền lực chung, có tính tồn cầu vượt ra ngồi tầm
kiểm sốt của chính phủ quốc gia. Để xử lý, vượt qua các thách thức, chính phủ nhiều
nước trên thế giới đã chủ động cải cách. Tuy nội dung và mơ hình cải cách có khác nhau,
nhưng nổi lên 3 nét chung sau đây trong xu thế cải cách chính phủ hiện đại. Một là, phi
tập trung hoá quyền lực nhà nước, mạnh dạn phân cấp, trao quyền cho các cơ cấu địa
phương. Đây không phải là quá trình từ bỏ quyền lực trung ương, mà là biện pháp để
củng cố bản thân quyền lực ấy một cách hợp lý, hiệu quả hơn. Trung ương không thay
địa phương trong quản lý xã hội ở phạm vi cụ thể, mà phải giám sát việc quản lý do chính
quyền địa phương tiến hành. Nhờ q trình phi tập trung hoá này, các quyết định trở nên
gần gũi, sát hợp với thực tế hơn và động viên được đông hơn các tổ chức, cá nhân vào
công việc quản lý xã hội. Hai là, phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường trong phân
bổ các nguồn lực phát triển xã hội; kết hợp tốt chức năng điều tiết của chính phủ với thị
trường và xã hội. Ba là, phát huy rộng rãi dân chủ trong toàn xã hội, không chỉ thể hiện
sự phát triển của nền dân chủ chính trị, mà cịn phải bảo đảm mọi quyền lực là của nhân
dân, dân chủ được thực thi trong nhân dân nhằm giúp chính phủ thực hiện sự quản lý
hiện thực đối với các mặt của đời sống xã hội.
10
Trên phương diện chính trị, quốc phịng, an ninh và đối ngoại, độc lập, tự chủ là
u cầu có tính nguyên tắc trong quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Độc lập tự chủ
về chính trị có nghĩa là tự mình xác định mục tiêu, con đường phát triển đất nước; tự
mình hoạch định đường lối, chủ trương, chiến lược phát triển; tự mình xác lập và duy trì
thể chế chính trị, khơng chấp nhận bất cứ sự can thiệp nào từ bên ngoài, kiên quyết giữ
vững chủ quyền, lãnh thổ đất nước và trật tự, an toàn xã hội. Độc lập tự chủ về chính trị
được thể hiện cả trong đối nội và đối ngoại, cả kinh tế, văn hố, xã hội và quốc phịng, an
ninh...
Độc lập, tự chủ về đối ngoại là một vấn đề rất quan trọng. Độc lập, tự chủ trong
quan hệ quốc tế và đối ngoại thể hiện trước hết ở tư duy, nhận thức độc lập, sáng tạo, xuất
phát từ lợi ích tối cao của đất nước - dân tộc, không giáo điều, rập khn, máy móc trong
hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách đối ngoại, trong xác định đối tác, đối
tượng và tập hợp lực lượng quốc tế. Chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực đối ngoại vận động
theo tiến trình mở cửa, hội nhập quốc tế.
1.2.3. Một số kiến nghị về giải quyết mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế trong tình hình mới
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và giữ vững độc lập tự chủ của nước ta đang
được tích cực thực hiện trong bối cảnh tồn cầu hóa, xu thế hịa bình, hợp tác vẫn tiếp tục
phát triển nhưng tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến hết sức phức tạp, khó
lường, tính chất bất định, bất ổn gia tăng.
Để bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế, cần thực
hiện tốt một số định hướng giải pháp quan trọng sau:
Thứ nhất, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất trong
quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan đến quan hệ
đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo đảm
lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối ngoại, kinh tế,
văn hóa – xã hội, quốc phịng – an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là yếu tố
quyết định thành cơng của q trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được tạo nên từ sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, của khối đoàn kết toàn dân
tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền quốc phịng tồn dân, thế trận
quốc phịng tồn dân gắn với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh nhân dân vững
chắc.
Thứ ba, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan
hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử lý quan hệ hệ đối ngoại. Nước ta là
một bộ phận không thể tách rời thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới. Xa
rời sự vận động chung, sẽ tự cơ lập mình với thế giới bên ngoài và ảnh hưởng đến sự phát
triển của đất nước. Lịch sử cho thấy “nhất biên đảo” hoặc chỉ quan hệ với một vài đối tác
là nguồn gốc gây ra mất độc lập, tự chủ vì sẽ dễ bị bó hẹp trong sự lựa chọn và nếu
không đủ bản lĩnh và nội lực sẽ dễ trở thành cơng cụ của quốc gia khác. Đa phương hóa,
11
đa dạng hóa là cách dễ đan cài lợi ích với các đối tác, qua đó tăng cường tư thế đất nước,
giữ vững độc lập, tự chủ quốc gia.
Thứ tư, nâng cao năng lực dự báo tình hình quốc tế, khu vực phục vụ đắc lực yêu
cầu bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế. Cần đổi
mới tư duy, nghiên cứu có chiều sâu, nhạy bén bám sát tình hình để có những dự báo xác
đáng. Tập trung nghiên cứu những biến động mới của tình hình thế giới, khu vực, những
điều chỉnh chiến lược và chính sách của các nước lớn, những mối quan hệ giữa các nước
lớn. Nghiên cứu nắm bắt tình hình ở các nước láng giềng, tình hình an ninh khu vực, tình
hình Biển Đơng. Ngun cứu đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác, đối tượng
trong từng tình huống cụ thể để có những ứng phó phù hợp, hiệu quả.
Thứ năm, tăng cường lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trị của các tổ cức chính trị xã hội; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững độc lập,
tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế.
Như vậy, vấn đề giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là một trong
những vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước. Độc lập, tự chủ là nguyên tắc nhất quán, bất di, bất dịch. Quán triệt
đường lối đối ngoại của Đảng, quan niệm về độc lập, tự chủ và xử lý mối quan hệ giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để tạo sự thống
nhất cao trong nhận thức và hành động.
2. Vai trò của Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
Hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta ngày càng hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử,
đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Đó là kết quả của q trình Nhà nước triển khai, thực hiện
nhất quán đường lối, chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa của
Đảng, với tinh thần chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta đã
xây dựng đượcnhiều chủ trương, giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN, kích thích các doanh nghiệp quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân
lực, ứng dụng và sáng tạo công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mới, thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu đầu tư, sản xuất, tạo ra một nền kinh tế có khả năng sáng tạo cao với
nhiều sản phẩm mới, bảo đảm hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vậy vai trò của
của Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay là:
Thứ nhất, Nhà nước đã xây dựng, bổ sung những đạo luật đáp ứng đòi hỏi của hội
nhập kinh tế quốc tế,như: Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư... từng
bước xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước với đầu tư nước ngồi, xóa bỏ sự
bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt giữa khu vực kinh tế nhà nước với
khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngồi. Điều này nhằm thu hút
vốn và tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoai.
Thứ hai, Nhà nước đã hoạch định và triển khai các chính sách đúng đắn nhằm
nâng cao hiệu quả của hội nhập quốc tế. Cho tới nay, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến
lược với 13 quốc gia và quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước trên thế giới. Đặc biệt, năm
12
2013, Việt Nam đã hoàn thành việc xác lập các khn khổ quan hệ đối tác chiến lược, đối
tác tồn diện với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc.
Cùng với các mối quan hệ truyền thống, đặc biệt với các nước bạn láng giềng Lào,
Campuchia, các nước trong Cộng đồng ASEAN, các khn khổ quan hệ này một mặt góp
phần tích cực triển khai hiệu quả quan hệ hợp tác của Việt Nam với các nước trên thế
giới; mặt khác tạo tiền đề quan trọng để thu hút các nguồn lực cho sự phát triển của nền
kinh tế quốc gia. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm
2017 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 35,88 tỷ USD, tăng 44,4 %
so với cùng kỳ năm 2016 và tăng cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Điều này cho thấy
niềm tin và sự tín nhiệm của các nhà đầu tư quốc tế đối với sự cải thiện của môi trường
đầu tư tại Việt Nam.
Thứ ba, Nhà nước đã ban hành và thực hiện các chính sách đối nội và đối ngoại
phù hợp, mà cụ thể là: Xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập trên cơ sở nhận thức và
dự báo chính xác các cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế; Điều chỉnh, tạo
ra những điều kiện thuận lợi về thể chế, chính sách, pháp luật trong quá trình hội nhập;
Quản lý, điều tiết nền kinh tế, phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực; Đàm
phán, ký kết và thực hiện các hiệp định, hợp đồng kinh tế - thương mại quốc tế và khu
vực; Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ mơi trường sinh thái; Đấu tranh bảo vệ
chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế...
Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm qua cho thấy, vai trò
của Nhà nước ngày càng được thể hiện rõ và phát huy hiệu quả tích cực; tuy nhiên, cũng
vẫn cịnkhơng ít những hạn chế và đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi Nhà nước cần quan
tâm, tháo gỡ. Đặc biệt, trong một thế giới luôn vận động và biến đổi nhanh chóng, khó
lườngnhư hiện nay, thì việc nhận thức đầy đủ, sâu sắc những yếu tố tác động đến vai trò
của Nhànướctrong việc tận dụng cơ hội, vượt qua thách thứctrong quá trình hội nhập
quốc tế là hết sức cần thiết
13
C. KẾT LUẬN
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hồn tồn chủ động quyết định đường lối,
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn chủ động quyết định đường lối, chính
sách hội nhập kinh tế quốc tế, không để rơi vào thế bị động; phân tích lựa chọn phương
thức hội nhập đúng, dự báo được những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập
quốc tế, khơng để rơi vào thế bị động.
Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là khẩn trương chuẩn bị điều chỉnh, đổi mới bên
trong, từ phương thức lãnh đạo, quản lý đến hoạt động thực tiến; từ trung ương đến địa
phương, doanh nghiệp; khẩn trương xây dựng lộ trình, kế hoạch, hồn chỉnh hệ thống
pháp luật; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế; tích cực, nhưng
phải thận trọng, vững chắc.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm của Đảng,
Nhà nước, tồn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn xã hội.
Như vậy, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đan phương
hóa quan hệ quốc tế được xác lập trong mười năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986 – 1996)
đến nay đã dần được bổ sung, phát triển theo phương châm chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát
triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam
2. “Việt Nam và những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế”, Báo Đồn TNCS Hồ Chí Minh Thành phố Hải Phịng
3. GS.TS Vũ Văn Hiền - Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, “Nhận thức và
giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Tổ
chức Nhà nước
15