LỜI MỞ ĐẦU
Có một câu nói đã cũ nhưng rất đúng “ cần phải có tiền để tạo ra tiền”.
Khơng một hoạt động sản xuất, tiếp thị hay quản lí nào có thể thực hiện nếu
khơng được trang trải tài chính đầy đủ. Mặc dù khơng có biện pháp tốt nhất
nào để cấp tài chính cho một doanh nghiệp trong mọi điều kiện nhưng cần
phải có sự thận trọng trong việc xác định lượng tiền bạc và tín dụng cần thiết
để điều hành doanh nghiệp đó một cách hiệu quả, xác định các cách thức theo
đó vốn được sử dụng, và từ đó có thể tạo nên ngân quỹ. Bất cứ doanh nghiệp
hay cơ chế sản xuất kinh doanh nào đều cần có sự thống nhất giữa q trình
sản xuất và lưu thông tư bản.
Hơn một thập kỷ trôi qua kể từ khi nước ta bước vào nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa - bây giờ là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
(KTTT XHCN), chúng ta đã trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, đồng thời
cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế
quốc dân. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới mà sự nghiệp cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu. Để thực hiện nhiệm vụ
này, việc huy động và sử dụng vốn một cách hiệu quả là hết sức quan trọng.
Bởi lẽ vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền
kinh tế, nhu cầu về vốn nổi lên như một hoạt động cấp bách.
Thực tế trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận về việc quản lý và sử dụng vốn, song bên cạnh đó cịn tồn tại nhiều
bất cập cần được giải quyết: Tình trạng ứ đọng vốn ở các ngân hàng, thiếu
vốn kinh doanh ở các doanh nghiệp, việc sử dụng vốn bữa bãi, lãng phí cịn
diễn ra phổ biến. Vì vậy việc nghiên cứu và vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản
và chu chuyển tư bản của C.Mác để tim ra phương thức huy động và sử dụng
vốn hợp lý là hết sức cần thiết.
1
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH
và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tôi đã lựa chọn đề tài “Lý luận
tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của vấn đề
này”. Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng huy động và sử dụng vốn có hiệu
quả, cách thức vận dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư bản và chu
chuyển tư bản vào nền kinh tế .
2
NỘI DUNG
A.
LÝ LUẬN TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN
CỦA C.MAC.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình
sản xuất và quá trình lưu thơng của tư bản, giữa q trình tạo ra giá trị thặng
dư và quá trình thực hiện giá trị thăng dư. Bởi vậy sau khi nghiên cứu quá
trình sản xuất cần tiếp tục nghien cứu q trình lưu thơng của tư bản, xác định
rõ vị trí vai trị của lưu thơng, hiểu ddaayd đủ q trình vận động của tư bản
cũng như quan hệ bóc lột được biểu hiện trong q trình vận động đó.
Lưu thơng tư bản hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình chuyển từ hình thái
tiền tệ sang hình thái hàng hóa và từ hình thái hàng hóa chuyển thành hình
thái tiền tệ. Qua trình đó gồm việc mua hàng hóa (T – H) và bán hàng hóa (H
– T) được diễn ra trên thị trường. Lưu thông của tư bản hiệu hiểu theo nghĩa
rộng là sự vận động của tư bản làm cho tư bản ngày một lớn lên, nhờ đó mà
giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn. Sự vận động của tư bản như vậy
cũng chính là sự tuần hồn và chu chuyển tư bản.
I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN.
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột sức lao động
của người là thuê.
1.
Sự chuyển hóa của tiền thành tư bản.
1.1. Công thức chung của tư bản
Mọi tư bản đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng
bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ biến thành tư bản trong nhưng
điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột sức lao động của
người khác. Tiền có hai phương thức vận động.
3
Trong lưu thơng hàng hóa giản đơn, tiền được coi là tiền thông thường
vận động theo công thức: H-T-H (hàng-tiền-hàng) nghĩa là sự chuyển hóa của
hàng hóa thành tiền, rồi tiền lại chuyển thành hàng hóa. Ở đây tiền tệ không
phải là tư bản, mà chỉ là tiền tệ thông thường với đúng nghĩa của nó, và chỉ là
phương tiện để đạt tới một mục đích bên ngồi lưu thơng. Người sản xuất
hàng hóa bán hàng hóa của mình lấy tiền tệ, rồi lại dùng tiền tệ đó để mua
hàng hóa khác phục vụ cho những nhu cầu tiêu dùng nhất định của mình. Hay
nói cách khác, mục đích của nó là giá trị sử dụng nên vịng lưu thơng chấm
dứt ở giai đoạn mua (T-H) khi những người trao đổi đã có được những giá trị
sử dụng mà họ cần. Nên sự vận động có giới hạn.
Trong lưu thơng tư bản tiền được coi là tư bản, vận động theo cơng thức
T-H-T (tiền- hàng-tiền) tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa, rồi
hàng hóa lại chuyển hóa ngược lại thành tiền. Mục đích của nó là giá trị và sự
lớn lên của giá trị là giá trị thặng dư, nên sự vận động của nó khơng có giới
hạn vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.
1.2. So sánh hai cơng thức H-T-H và T-H-T
Cơng thức lưu thơng hàng hóa giản đơn H – T - H và công thức lưu
thông tư bản T – H - T là biểu hiện của nền sản xuất hàng hóa ở hai mức độ
khác nhau. Nhưng giữa chúng lại có những điểm giống và khác nhau:
Điểm giống nhau: hai công thức lưu thông trên đều cấu tạo bởi hai yếu tố
hàng (H) và tiền (T); đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán;
đều biểu hiện kinh tế giữa người mua và người bán; và đều diễn ra trên thị
trường.
Điểm khác nhau: lưu thơng hàng hóa giản đơn (H-T-H): bắt đầu bằng
hành vi bán (H-T) và kết thúc bằng hành vi mua (T-H). Điểm bắt đầu và kết
thúc đều là hàng hóa; tiền chỉ đóng vai trị trung gian, mục đích là giá trị sử
dụng. Nhưng ngược lại trong lưu thông tư bản (T-H-T): bắt đầu bằng hành vi
mua (T-H) và kết thúc bằng hành vi bán (T-H). Tiền vừa là điểm xuất phát
vừa là điểm kết thúc, cịn hàng hóa chỉ đóng vai trò trung gian,Tiền ở đây
4
khơng phải là chi ra dứt khốt mà chỉ là ứng ra thu về. Mục đích của lưu
thơng tư bản là giá trị và giá trị lớn hơn.
2.
Mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản
2.1. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Tại sao q trình lưu thơng lại thu về được T', nguồn gốc thực sự của số
tiền tăng thêm này từ đâu? Nó được tăng lên trong phạm vi lưu thơng hoặc
ngồi lưu thơng.
Trong lưu thơng:
Trường hợp trao đổi ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị, cịn
tổng số giá trị cũng như phần giá trị nằm trong tay mỗi bên tham gia trao đổi
trước sau vẫn ko thay đổi.
Trường hợp trao đổi ko ngang giá: có thể xảy ra 3 trường hợp sau. Thứ
nhất, bán hàng hóa cao hơn giá trị: nhà tư bản sẽ đc khi bán cao và sẽ mất khi
mua. Thứ hai là bán hàng hóa thấp hơn giá trị: nhà tư bản sẽ được do mua rẻ
& sẽ bị mất khi bán. Thứ ba là nhà tư bản chuyên mua rẻ, bán đắt. Nhưng xét
trong tổng giá trị tồn xã hội cũng khơng hề tăng lên, ở đây chỉ có sự phân
phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi.
Như vậy trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều
không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà TB. Trở lại ngồi lưu thơng chúng ta
xem xet hai trường hợp:
Xét các yếu tố tiền: nếu tiền làm phương tiện cất trữ, khơng tiếp xúc gì
với lưu thơng, thì tiền cũng ko tự lớn lên được.
Xét các yếu tố hàng: nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng
hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy khơng tăng lên
Tóm lại, xét trong lưu thơng hay ngồi lưu thông với các trường hợp ở
trên đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Mâu thuẫn của công
thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không được tạo ra trong lưu thông &
cũng khơng thể xuất hiện bên ngồi lưu thơng. Như C.Mác khẳng định “Vậy
5
là tư bản không thể xuất hiệ từ lưu thông và cũng khơng thể xuất hiện ngồi
lưu thơng.
2.2 Cách thức giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của TB
Các Mác là người đầu tiên phân tích & giải quyết mâu thuẫn trong công
thức của TB bằng lý luận về hàng hóa sức lao động. Sự chuyển hóa của số
tiền cần phải chuyển hóa thành tư bản khơng thể xảy ra rong bản than số tiền
đó, mà chỉ có thể xảy ra ở số hàng hóa được mua vào. C.Mác đã nhận tháy đó
khơng phải là một hàng hóa thơng thường mà là một hàng hóa đặc biệt mà giá
trị của nó là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. Thứ hàng hóa đó là sức lao
động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Sức lao động là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong than thể một con
người trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực con người
phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích. Nhà TB khi đưa tiền
vào lưu thơng đã dùng tiền mua được hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao
động, để sử dụng nó (khơng phải bán nó), sẽ tạo ra giá trị thặng dư cho nhà
TB. Hàng hóa đặc biệt này có đặc điểm về giá trị sử dụng là nguồn gốc tạo ra
giá trị thặng dư cho các nhà tư bản. Sử dụng hàng hóa sức lao động tức là q
trình người cơng nhận tiến hành lao động, là sự kết hợp sức lao động của cơng
nhân với tư liệu sản xuất; trong q trình lao động = lao động trừu tượng - sự
hao phí thể lực , trí lực mới sẽ tạo giá trị mới cho hàng hóa, lượng giá trị mới
này lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Tóm lại tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bó lột sức
lao động của cơng nhân làm th. Mâu thuẫn trong công thức chung của tư
bản là: Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông cũng không thể xuất hiện
ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông đồng thời không phải
trong lưu thông. Bằng việc chỉ ra hàng hóa sức lao động C.Mác đã giải quyết
được mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.
6
3. Lý luận tuần hoàn tư bản.
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai
đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thể hiện ba chức năng khác nhau
để rồi quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
3.1. Ba giai đoạn vận động của tư bản và sự biến hóa hình thái của tư
bản.
Để nghiên cứu q trình lưu thơng của tư bản cá biệt, C.Mác đã trừu
tượng tất cả các loại tư bản khác như : tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay,
tư bản kinh doanh ruộng đất….chỉ đề cập đến tư bản cơng nghiệp, với ý nghĩa
là nó bao qt mọi ngành sản xuất vật chất kinh doanh theo phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là ngành duy nhất tạo ra giá trị thặng dư cho nhà
tư bản.
Tư bản công nghiệp vận động theo công thức:
SLĐ
T-H
…......sản xuất..........H'-T'
TLSX
Qua công thức ta thấy tư bản công nghiệp trước hêt vận động qua ba giai
đoạn. Sau đây ta sẽ lần lượt phân tích ba giai đoạn đó.
a)
Giai đoạn thứ nhất:
SLĐ
Mua hàng hóa T – H
TLSX
Nếu chỉ dừng lại ở hình thức bên ngồi thì đây chỉ là hành vi mua bán
thơng thường, tiền tệ được sử dụng làm phương tiện mua như mọi số tiền
khác trong lưu thông. Tiền tuy làm phương tiện mua nhưng phải mua được
hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất nhằm mục đích sản xuất giá trị
thặng dư. Hành vi T - H không chỉ đơn thuần biểu thị việc chuyển hố một
món tiền thành hàng hố, mà nó đã bước vào 9 giai đoạn vận động tuần hoàn
7
của tư bản.Hơn nữa, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động không những
phải phù hợp với loại sản phẩm cần chế tạo, mà phải tỉ lệ thích hợp với nhau
về số lượng. Tỉ lệ đó nhằm bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành
bình thường và nhất là để sử dụng được triệt để toàn bộ thời gian lao động của
công nhân. Nếu thiếu tư liệu sản xuất thì cơng nhân khơng khơng đủ việc làm.
Ngược lại, thiếu cơng nhân thì tư liệu sản xuất cũng không được tận dụng để
tạo ra sản phẩm. Do đó, lịng thèm khát lao động thặng dư của nhà tư bản
cũng khơng được thoả mãn.
Rõ ràng, trong q trình này hành vi T - Slđ (việc mua sức lao động) là
yếu tố đặc trưng khiến tiền xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là tư bản. Hành
vi T - Tlsx chỉ cần thiết để sức lao động đã mua có thể hoạt động được song T
- Slđ được coi là nét đặc trưng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
khơng phải do tính chất tiền tệ của mối quan hệ đó. Tiền đã xuất hiện rất sớm
để mua cái được gọi là sự phục vụ, nhưng tiền lúc ấy vẫn không biến thành tư
bản tiền tệ. Nét đặc trưng khơng phải ở chỗ người ta có thể mua sức lao động
bằng tiền, mà sức lao động biến thành hàng hoá. Đây là một việc mua bán,
một quan hệ hàng hoá tiền tệ, những người mua là nhà tư bản - kẻ chiếm hữu
tư liệu sản xuất và người bán là người lao động làm thuê bị tách rời hoàn toàn
với tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Vậy không phải bản chất của tiền tệ
đã đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa; trái lại, chính sự tồn tại của quan hệ tư
bản chủ nghĩa mới làm cho chức năng của tiền tệ là cơng cụ của lưu thơng
hàng hố nói chung biến thành chức năng của tư bản.
Hồn thành q trình này, giá trị tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và
mang hình thái các yếu tố của sản xuất TBCN: tư liệu sản xuất và sức lao
động, tức là hình thái tư bản sản xuất. Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ 1' là
tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
b) Giai đoạn thứ hai: Sản xuất ( ….SX…. )
Tiếp theo giai đoạn thứ nhât tư bản ứng ra mua hàng hoá sức lao động tư
liệu sản xuất nhằm mục đích thu về một tư bản có gía trị lớn hơn. Mục đích
8
đó khơng thể thực hiện được bằng cách bán ngay các hàng hố đã mua mà
chỉ có thể đạt được bằng cách sử dụng các hàng hoá ấy sản xuất ra một hàng
hố mới. Do đó, tiếp theo giai đoạn thứ 1' (mua sức lao động và tư liệu sản
xuất) tất yếu dẫn đến giai đoạn thứ hai - giai đoạn sử dụng các hàng hoá đã
mua, tức sản xuất. Q trình này có thể biển diễn như sau:
SLĐ
H
…....SX....H'
TLSX
Q trình sản xuất ở đây diễn ra cũng giống như quá trình sản xuất của
mọi hình thái xã hội khác, là sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu
sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù này khơng chỉ là kết quả, mà cịn là
u cầu của sự vận động tư bản, qúa trình sản xuất vì vậy trở thành một chức
năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong khi thực
hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất tiêu dùng các thành phần của nó để
biến thành một khối lượng sản phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả là một hàng
hoá mới được tạo ra khác cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các
hàng hoá cấu thành tư bản sản xuất. Hàng hoá mới này là hàng hoá mang giá
trị thặng dư, đã trở thành H', có giá trị bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí
ra nó cộng với gía trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra.
Nhờ vậy kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư
bản hàng hố.
c) Giai đoạn thứ ba: Bán hàng hóa H ' - T'
Sản xuất hàng hoá, tư bản chưa thể ngừng vận động nhà tư bản đang tồn
tại dưới hình thức hàng hoá, cần phải đem bán để thu tiền về.
Quá trình này có thể biểu hiện bằng cơng thức H' - T'. Khơng khác gì
hàng hố thơng thường, hàng hố tư bản đưa ra lưu thông cũng chỉ thực hiện
chức năng vốn có của hàng hố là bán để lấy tiền. Nhưng nó là tư bản hàng
hố người ngay sau khi q trình sản xuất, nó đã là hàng hố, có giá trị bằng
9
giá trị tư bản ứng trước và giá trị thặng dư. Nhờ vậy, tiến hành trao đổi theo
đúng quy luật giá trị của nó thu về được T', nghĩa là thu về được số tiền trội
hơn so với số tiền ứng ra ban đầu. Chức năng của H' không chỉ là chức năng
của mọi sản phẩm hàng hoá, mà quan trọng hơn còn là chức năng thực hiện
giá trị thặng dư được tạo ra trong qúa trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này,
tư bản hàng hoá đã biến thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của tư bản
được thực hiện. Tư bản trở lại hình thái ban đầu, với số lượng lớn hơn trước
Như vậy tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả ba giai đoạn, ta
có cơng thức:
SLĐ
T-H
…......sản xuất..........H'-T'
TLSX
Trong cơng thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một
chuỗi biến hố hình thái có quan hệ với nhau, qui định lẫn nhau; có bao nhiêu
biến hố hình thái là có bấy nhiêu thời kỳ hay giai đoạn của quá trình vận
động từ tư bản. Trong giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thơng
và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất. Sự vận động của tư bản trải qua
đoạn, lần lượt mang ba hình thái rồi quay trở về hình thái ban đầu với giá trị
khơng chỉ được bảo tồn mà cịn tăng lên, gọi là sự tuần hoàn của tư bản.Tuần
hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường chừng nào các giai đoạn
khác nhau của nó khơng ngừng chuyển tiếp. Mặt khác, bản thân sự tuần hoàn
của tư bản lại làm cho tư bản phải nằm lại ở mỗi một giai đoạn tuần hoàn
trong một thời gian nhất định. Do đó, sự vận động tuần hồn của tư bản là sự
vận động đứt quảng khơng ngừng. Chính trong sự vận động mâu thuẫn đó mà
tư bản tự bảo tồn, chuyển hố giá trị và khơng ngừng lớn lên.
Điều kiện để cho tuần hồn TB được bình thường: Sự vận động của TB
chỉ diễn ra bình thường khi các giai đoạn của nó được diễn ra liên tục, kế tiếp
nhau. Mỗi sự gián đoạn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng khiến cho sự tuần hoàn
10
này bị đình trị. Mặt khác, TB phải tồn tại dưới cả ba hình thái là TB tiền tệ,
TB sản xuất, TB hàng hố.
3.2 Sự thống nhất của 3 hình thái tuần hồn của tư bản cơng nghiệp.
Q trình vận động của tư bản chủ nghĩa trải qua 3 giai đoạn, tư bản lần
lượt khốc lấy 3 hình thái: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.
Mỗi một hình thái đều có thể xem là điểm xuất phát, đồng thời là điểm hồi
quy của nó. Tư bản cơng nghiệp là loại hình tư bản vận động đồng thời cùng
một lúc dưới cả 3 dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của
tư bản sản xuất, tuần hoàn của tư bản hàng hóa. Sau đây, ta đi sâu xem xét cụ
thể từng dạng tuần hồn đó.
a)
Tuần hồn của tư bản tiền tệ.
Tuần hồn của tư bản tiền tệ vận động theo cơng thức:
SLĐ
T–H
…SX… H’ – T’
TLSX
Theo tuần hoàn này điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’ ( với T’ >
T). Do đó tuần hồn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ
và mục đích của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền lớn hơn.
Trong tuần hoàn này T là phương tiện ứng ra trong lưu thông và T’ là mục
đích đạt được trong lưu thơng nên hình như lưu thơng đẻ ra giá trị lớn hơn,
cịn giai đoạn sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được, chỉ là một
“tai vạ” cần thiết để làm ra tiền, để tăng thêm giá trị. Chính vì vậy mà hình
thái tuần hồn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất của
tuần hồn tư bản cơng nghiệp, đồng thời cũng là hình thức phiến diện nhất,
che dấu bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
b)
Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất vận động theo công thức :
SX…H’ – T’ – H … SX
11
Tuần hồn tư bản sản xuất nói lên sự vận động của tư bản được lặp đi lặp
lại, theo chu kỳ của tư bản sản xuất. Ở đây tư bản hàng hóa được sinh ra từ
q trình sản xuất. cịn tư bản tiền tệ chỉ là phương tiện mua, chuẩn bị các
điều kiện cho sản xuất, tức chỉ làm điều kiện cho tư bản hàng hóa chuyển
thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn tư bản sản xuất đã vạch rõ nguồn gốc của tư
bản đều tư sane xuất mà ra. Dù trong quá trình tái sản xuất giản đơn, hay
trong q trình tái sản xuất mở rộng. Nhưng tuần hồn của tư bản sản xuất lại
không biểu thị được việc sản xuất ra giá trị thặng dư, vì nó khơng hề chỉ ra
mục đích của q trình làm gia tăng thêm giá trị. Ở đây mục đích chỉ là sản
xuất thật nhiều, thật rẻ và nó cũng khơng nói rõ sẽ có hiện tượng sản xuất thừa
tương đối.
c) Tuần hồn của tư bản hàng hóa
Tuần hồn của tư bản hàng hóa vận động theo cơng thức:
H’ – T’ – H…SX… H’
Khác với mọi hình thái tuần hồn trên tuần hồn của tư bản hàng hóa có
điểm xuất phát bao giờ cũng là H’ – Một giá trị tư bản ứng trước đã chứa
đựng giá trị thặng dư. Bởi vậy, tuần hồn của tư bản hàng hóa có những đặc
điểm sau:
Một là: nó biểu thị hình thái hàng hóa được sản xuất từ trong quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa.Nên nó bao hàm cả tiêu dung trong sản xuất và tiêu
dung cá nhân.
Hai là: điểm kết thúc của quá trình vận động là H’ vẫn dưới hình thái là
hàng hóa. Nó chưa được chuyenr hóa lại thành tiền đã tăng thêm giá trị T’.
Bởi vậy nó sẽ là một hình thái chưa hồn thành, nó cịn phải tiếp tục vận
động,nên nó bao gồm q trình tái sản xuất.
Ba là: tuần hồn tư bản của hàng hóa làm nổi bật sự lien tục của lưu
thơng. Điểm bắt đầu tuần hồn H’, điểm kết thúc tuần hồn cũng là H’ nên nó
ln biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán vì H’,
12
điểm bắt đầu tuần hồn đỏi hỏi lưu thơng, thì điểm điểm kết thúc cũng địi hỏi
một q trình lưu thơng mới.
Bốn là: hình thái tuần hồn tư bản hàng hóa cịn trực tiếp biểu hiện mối
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau. Bởi ai nấy cũng đều
sản xuất hàng hóa rồi ném chúng vào lưu thơng để thu tiền về sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn và quá trình sản xuất tiếp theo sẽ bị hạn chế lại.
Tóm lại nếu xét riêng từng hình thái tuần hồn thì mỗi hình thái chỉ phản
ánh hiện thực nền sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện. Do đó khi
làm nổi bật bản chất này thì lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động
của tư bản cơng nghiệp. Vì vậy ta phải xem xét đồng thời cả ba hình tái tuần
hồn mới hiểu hết được đầy đủ sự vận động của tư bản, mới hiểu được bản
chất của mối quan hệ tư bản chủ nghĩa được biểu hiện trong sự vận động đó.
Trong thực tế, chỉ có sự thống nhất cả ba hình thái tuần hồn thì q
trình vận động mới có thể tiến hành một cách lien tục khơng ngừng. Tuần
hồn của tư bản chỉ được tiến hành bình thường khi cả ba giai đoạn chuyển
tiếp một cách trôi chảy. Nếu một gia đoạn nào đó bị ngừng trệ thi tồn bộ q
trình tuần hoàn sẽ bị phá hoại.
II. LÝ LUẬN CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN.
Sự vận động của tư bản là một quá trình định kỳ đổi mới, lặp đi lặp lại
nhiều lần chứ khơng phải là một q trình cơ lập thì được gọi là chu chuyển
tư bản.
Khi nghiên cứu sự tuần hoàn của tư bản là nghiên cứu về chất, còn khi
nghiên cứu chu chuyển của tư bản là nghiên cứu về lượng.
Nếu như khi phân tích tuần hồn của tư bản, ta phân tích các hình thái
chuyển đổi của tư bản qua 3 giai đoạn vận động của nó thì khi phân tích chu
chuyển của tư bản ta sẽ phải lần lượt phân tích tốc độ vận động của tư bản
nhanh hay chậm hay nói cách khác phân tích thời gian chu chuyển và số vòng
chu chuyển và nghiên cứu ảnh hưởng của tốc độ đó đối với việc sản xuất và
giá trị thặng dư.
13
Chu chuyển tư bản chính là sự lặp đi lặp lại của tư bản có tính định kỳ.
1. Thời gian chu chuyển của tư bản
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản được
ứng ra dưới một hình thái nào đó cho đén khi thu về cũng dưới hình thái ấy,
nhưng có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển tư bản chính là
khoảng thời gian mà tư bản trải qua các giai đoạn lưu thơng và sản xuất trong
q trình tuần hoàn.
Thời gian chu chuyển = thời gian sản xuất + thời gian lưu thông.
1.1 Thời gian sản xuất.
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản
xuất. Thời gian sản xuất bao gồm:
- Thời gian lao động, tức là thời gian người lao động sử dụng tư liệu tác
động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian duy nhất
tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
- Thời gian gián đoạn lao động, tức là thời gian đối tượng lao động bán
ra thành phẩm, chịu sự tác động của thiên nhiên mà không cần tác động của
con người vào. Ví dụ: ngâm thóc giấm thành mạ gieo, gạch để phơi khô, gạo
để ủ men…
- Thời gian dự trữ sản xuất, tức thời gian tư bản sản xuất đã sẵn sàng làm
điều kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa đưa vào sản xuất. Bộ phận tư
bản này là tư bản “ở góa”, nó là điều kiện cho q trình sản xuất khơng
ngừng.
Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất khơng tạo ra
giá trị thặng dư. Do đó rút ngắn các thời gian này là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng đối với quá trình sản xuất ra hàng hóa.
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn do tác động của nhiều nhân
tố, chủ yếu là bốn nhân tố sau:
Một là: tính chất của nghành sản xuất.
Hai là: vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.
14
Ba là: Trình độ phát triển của khoa học ký thuật cao hay thấp.
Bốn là: Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu.
1.2.Thời gian lưu thông
Thời gian lưu thông là thời gian mà tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Thời gian lưu thông dài hay ngắn sẽ làm cho quá trình sản xuất được lặp đi
lặp lai nhanh hay chậm, khối lượng tư bản làm chức năng tư bản sản xuất
được nhiều lần hay ít, do đó hiệu quả tư bản tức là việc sản xuất ra giá trị
thặng dư cao hay thấp.
Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua và thời gian bán, trong đó
thời gian bán là quan trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thơng phụ
thuộc vào ba nhân tố sau:
Một là: tình hình thị trường.
Hai là: giao thông và phương tiện giao thông.
Ba là: khoảng cách thị trường.
2. Số vòng chu chuyển của tư bản
Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt các nhân tố nên thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông của các tư bản khơng thể giống nhau. Do đó thời gian chu
chuyển của tư bản trong các nghành khác nhau cũng như trong cùng một
nghành rất khác nhau.
Thời gian chu chuyển của tư bản dài, ngắn khác nhau như vậy, nên muốn
tinhd toán so sánh với nhau người ta tính tốc độ chu chuyển của các tư bản
trong một thời gian nhất định(một năm) xem tư bản đã quay được mấy vịng.
Ta có cơng thức tính số vịng chu chuyển của tư bản như sau:
CH
n=
ch
Trong đó n: số vong chu chuyển của tư bản.
CH: thời gian một năm
Ch: thời gian chu chyển một vong của tư bản
15
Thí dụ: một tư bản chu chuyển mootn vịng mất 6 tháng thi số vòng chu
chuyển sẽ là n = 12 tháng/6 tháng.Vậy số vòng chu chuyển của tư bản sẽ là 2
vòng.
3. Tư bản cố định và tư bản lưu động
Thời gian chu chuyển tư bản bao gồm thời gian chu chuyển của các bộ
phận tư bản ứng ra để sản xuất. Nhưng do phương thức chu chuyển của các
bộ phận tư bản khơng giống nhau, nên vịng chu chuyển của bọn chúng cũng
rất khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển của các bộ phận tư bản,
người ta phân chia bộ phận tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động.
3.1 Tư bản cố định
Tư bản cố định là tư bản tham gia toàn bộ vào q trình sản xuất, nhưng
giá trị của nó chỉ chuyển từng phàn sang sản phẩm.
Tư bản cố định trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu
sản xuất (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) trong q trình sản xuất nó chuyển
dần giá trị vào sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy trong tư liệu lao động
không ngừng giảm cho đén khi tư liệu lao động không dùng được nữa. Tư liệu
lao động càng bền, càng chậm hao mịn bao nhiêu thì thì giá trị của nó càng
được biểu hiện dưới hình thức sử dụng lâu bấy nhiêu.
Xếp vào bộ phận tư bản cố định cịn có bộ phận tư bản chất dung để cải
tạo đất có tác dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất… giá trị của nó cũng
được chuyển dần vào sản phẩm.
3.2.Tư bản lưu động
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào q trình sản xuất
thì chuyển tồn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến tiêu
dung trong quá trình sản xuất như nguyên liệu, phụ liệu, nhiên liệu… và bộ
phận tư bản khả biến (v) cũng có phương thức chuyển dịch giá trị như trên,
nên cũng được xếp vào tư bản lưu động. Việc phân chia tư bản sản xuất thành
các bộ phận tư bản cố định và tư bản lưu động chỉ có tính chất tương đối. Vì
16
có những tư liệu sản xuất khi là tư bản cố định khi là tư bản lưu động tùy theo
chức năng của nó trong q trình sản xuất.
Thí dụ, trâu bò dùng trong việc kéo cày là tư bản cố định nhưng trâu bị
dung để giết thịt thì lại là tư bản lưu động.
3.3.Hao mịn hữu hình vào hao mịn vơ hình.
Trong qúa trình sản xuất tư bản cố định bị hao mòn dần về mặt giá trị sử
dụng. Đi đơi với q trình hao mịn về vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần
do chuyển từng phần sang sản phẩm. Q trình hao mịn về mặt giá trị đó gọi
là hao mịn hữu hình (hao mịn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của
thiên nhiên sinh ra như máy móc bị han rỉ).
Ngồi hao mịn hữu hình, tư bản cố định cịn bị hao mịn vơ hình, tức là
hao mịn thuần túy về mặt giá trị, hao mịn vơ hình do các ngun nhân sau
gây ra:
Một là: Do năng suất lao động tăng lên làm giảm giá trị của các máy
móc cũ tuy giá trị sử dụng của chúng vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới gao mòn
một phần.
Hai là: Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật giúp con người sản xuất được
những máy móc tối tân hơn, cơng suất cao hơn các máy cũ. Vì vậy, làm cho
máy cũ tuy giá trị sử dụng vẫn cịn ngun vẹn, nhưng giá trị của nó lại bị
giảm đi nhiều.
Hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình của tư bản cố định đều được tính
chuyển giá trị vào sản phẩm hình thành nên quỹ khấu hao dung để đổi mới tư
bản cố định. Để phát huy hiệu quả của tư bản, quỹ này có thể được đưa ra
mua sắm thêm máy móc để mở rộng sản xuất theo chiều rộng hoặc cải tiến
máy móc nhằm tăng thêm hiệu suất (phát triển theo chiều sâu).
Tư bản cố định phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mịn bất
thường, nâng cao hiệu quả sử dụng của nó. Ngoài việc bảo quản tư bản cố
định phải được bảo dưỡng, tu bổ, sửa chữa có định kỳ. Những phí dung cho
việc bảo quản, sửa chữa cố định đó được tính vào giá cả sản phẩm sản xuất
17
ra. Trong quá trình sản xuất, để hạ được giá thành sản phẩm cần hết sức tránh
những hao mịn vơ ích trên đây.
4. Tác dụng và phương pháp làm tăng tốc độ chu chuyển
của tư bản
Trong quá trình sản xuất, tổng tư bản ứng trước cần được tăng tốc độ chu
chuyển. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ
chu chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Theo công thức
sau:
Giá trị chu
Tốc độ chu
Giá trị chu chuyển
chuyển của tư bản cố định + của tư bản lưu động
chuyển của tổng =
tư bản ứng trước
Tổng số tư bản úng trước (trong năm)
Thí dụ: tổng số tư bản ứng trước là 100.000 USD. Trong đó: tư bản
cố định là 80.000 USD được sử dụng trong vòng 10 năm. Tư bản lưu động là
20.000 USD cứ hai tháng chu chuyển một lần. Vậy tốc độ chu chuyển của
tổng tư bản ứng trước bằng:
(80.000 USD :10) + (20.000 x 6)
128.000
=
100.000
= 1,28 lần.
100.000
Có thể rút ra nguyên lý: tốc độ chu chuyển của tư bản ứng trước tỷ lệ
thuận với tổng giá trị của tư bản cố định và tư bản lưu động, tỷ lệ nghịch với
giá trị của tổng tư bản ứng trước. Vì vậy tăng tốc độ của tư bản sẽ làm tăng
được hiệu quả sản xuất,có thể tránh được thiệt hại do hao mịn vơ hình và tăng
được quỹ khấu hao vào việc mở rộng và cải tiến sản xuất.
Đặc biệt đối với tư bản lưu động, tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý
nghĩa rất lớn. Như đối với bộ phận bất biến lưu động (nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu…) nếu chu chuyển nhanh sẽ tiết kiệm được tư bản ứng trước. Hoặc
đối với tư bản khả biến lưu động việc tăng tốc độ chu chuyển tư bản càng hết
sức quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định làm tăng thêm giá trị thặng dư.
18
Thí dụ: có hai tư bản A và B, có lượng tư bản khả biến ứng ra bằng nhau
là 20.000 USD có tỷ suất giá trị thặng dư như nhau m’ = 100%. Nhưng tư bản
A mỗi năm chu chuyển được một vòng, tư bản B mỗi năm chu chuyển được
hai vòng. Kết quả:
Số lượng giá trị thặng dư tư bản A thu được:
20.000 USD x 100% = 20.000 USD
Số lượng thặng dư tư bản B thu được
(20.000 USD x 2) x 100% = 40.000 USD
Vậy số lượng giá trị thặng dư hai tư bản thu được là khác nhau và tỷ suất
giá trị thặng dư hằng năm của hai tư bản cũng khác nhau. Cụ thể:
Tỷ suất giá trị thặng dư của tư bản A bằng:
m’(A) = 20.000/20.000 x 100% = 100%
Tỷ suất giá trị thạng dư hằng năm của tư bản B bằng:
m’(B) = 40.000/20.000 x 100% = 200%
Rút ra nhận xét: hai tư bản khả biến ứng trước như nhau, nhưng có tốc
độ chu chuyển khác nhau, vì vậy tư bản khả biến sử dụng cũng khác nhau và
mặc dù tỷ suất giá trị thặng dư thực tế bằng nhau nhưng tỷ suất giá trị thặng
dư hàng năm khác nhau.
Thời gian chu chuyển của tư bản của tư bản gồm có thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông, nên muốn tăng tốc đọ chu chuyển của tư bản càn hết sức
rút ngắn được các thời gian đó.
Phương pháp để rút ngắn thời gian sản xuất thực hiện bằng cách áp dụng
kỹ thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân công hiệp
tác, cải tiến tổ chức quản lý lao động, tăng cường lao động… Có như vậy mới
rút ngắn được thời gian lao động, rút ngắn quá trình tác động của tự nhiên vào
đối tượng lao động, rút ngắn được thời gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lưu thơng có thể rút ngắn bằng cách cải tiến chất lượng hàng
hóa,cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương thức bán hàng. Đặc biệt
19
phải phát triển mạnh nghành giao thông vận tải, tăng cường việc thơng tin
quảng cáo dưới nhiều hình thức khác nhau…
Tóm lại lý luận tuần hồn tư bản và chu chuyển tư bản vạch rõ sự vận
động cá biệt về cả mặt chất và lượng vận động của tư bản. Đồng thời lý luận
tuần hoàn và chu chuyển tư bản vạch rõ những phương thức chuyển dịch giá
trị các bộ phận tư bản cấu thành nên tư bản sản xuất. Trên cơ sở đó lý luận
tuần hồn tư bản đã rút ra những nguyên lý luận, những phương pháp tổ chức
quản lý thích hợp nhằm rút ngắn thời gian sản xuất ra sản phẩm, tăng vịng
quay của tư bản… Đó cũng là những bài học vận dụng quý báu trong sản xuất
kinh doanh đối với chúng ta hiện nay.
B. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY.
Qua nghiên cứu tuần hoàn và chu chuyển của tư bản ta thấy được vai trò
quan trọng của học thuyêt này. Thấy được trình độ bóc lột tinh vi của tư
bản.Sự cần thiết của việc sử dụng vốn hợp lí, có hiệu quả, việc tổ chức sản
xuất và lưu thơng hợp lí sẽ làm tăng vòng quay, tiết kiệm thời gian sản xuất và
lưu thơng, giúp tiết kiệm vốn ứng trước.
Bên cạnh đó nó cịn có một ý nghĩa khơng thể thiếu trong việc áp dụng
học thuyết này trong hoạt động của doanh nghiệp. Thế giới đang đứng trước
nhiều biến động phưc tạp,trong cơng cuộc xây dựng đất nước, chúng ta cịn
gặp nhiều khó khăn thử thách. Đảng và chính phủ ý thức rõ được tầm quan
trọng của việc vận dụng lý luận kinh tế chính trị Mac – Leenin vào q trình
xây dựng kinh tế nhà nước. Ứng dụng thực tế của học thuyết tuần hoàn tư bản
và chu chuyển tư bản vào vấn đề huy động và sử dụng vốn là hết sức cần thiết
và cấp bách cần làm trước tiên.
20
I. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HỌC
THUYẾT TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN CỦA C.MÁC
VÀO QUÁ TRÌNH HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY.
1. Ứng dụng thực tế của học thuyết
Trong thực tế, tư bản công nghiệp cũng vận động theo công thức:
TLSX
H-T
…SX…H – T’
SLĐ
Và khi xem xét ứng dụng thực tế của công thức này cần xem xét qua ba
giai đoạn:
Giai đoạn 1
TLSX
T–H
SLĐ
Giai đoạn này các doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua tư liệu sản xuất và sức
lao động, tuy nhiên việc mua này không thể diễn ra một cách tùy tiện. Đối với
các doanh nghiệp, mục tiêu của họ là tối đa hóa lợi nhuận, do vậy điều quan
trọng nhất là tối thiểu hóa chi phí sản xuất. Việc lựa chọn phương thức tối ưu
trong khi mua tư liệu sản xuất và sức lao động là hết sức cần thiết.
Giai đoạn 2
TLSX
H
…SX…
SLĐ
Trong giai đoạn thứ 2, các doanh nghiệp chú trọng vào khâu sản xuất.
Nếu quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả thì sẽ được thể hiện ở hiệu quả sản
xuất, ở chất lượng sản phẩm. Hơn thế nữa, quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả còn giúp các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian chu chuyển tư bản,
khiến cho vốn quay vòng nhanh, tiết kiệm được tư bản ứng trước và cho phép
21
tăng quy mơ sản xuất. Hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình vì thế mà cũng
sẽ được giảm bớt do các yếu tố khách quan khác tác động.
Giai đoạn 3
H’…T’
Doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông và tiêu thụ sản phẩm. Để có thể
rút ngắn thời gian tiêu thụ sản phẩm cần phải có biện pháp xúc tiến thích hợp
như các chiến lược Maketing độc đáo, sẽ làm tăng doanh thu, giảm chi phí
lưu thơng và đạt được hiệu quả của một tư bản cao nhất.
Đối với tư bản tài chính, trên thực tế chủ yếu biểu hiện ở các hoạt động
của các tư bản thương mại, hoạt động theo công thức chung của tư bản, từ T
thành T’. Các ngân hàng thương mại nhận tiền gửi từ khách hàng với một lãi
suất nhất định. Sau đó lượng tiền này cùng với vốn cố định của ngân hàng sẽ
được cho vay với mức lãi suất cao hơn. Sử dụng vốn tiền gửi và vốn ban đầu
có hiệu quả, quay vòng vốn nhanh sẽ đem lại lợi nhuaanjcao hơn, số vòng chu
chuyển tư bản tăng lên, giá trị thặng dư từ đó được tạo ra với lượng lớn hơn
nữa.
2. Vai trò của việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Có thể nói huy động và sử dụng vốn có hiệu quả đóng vai trị chủ chốt
trong công cuộc xây dựng, phát triển king tế của bất kỳ quốc gia nào. Thế giới
đã chứng kiến bao bài học xương máu về hoạt động quản lý và sử dụng vốn,
trong đó gồm cả những thành cơng và thất bại. Ở các nước có nền kinh tế thị
trường thành công trong khu vực Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng
Kong… thì chiến lược kinh tế của họ trong q trình hiện đại hóa là tăng
trưởng và tích tụ vốn tài chính cho các bước phát triển tiếp theo. Nền kinh tế
hướng mạnh vào xuất khẩu, các nguồn lực hạn hẹp vì thế mà khơng bị dàn
trải, xé nhỏ. Bởi vậy nâng cao được chất lượng công nghiệp mà sản phẩm
xuất khẩu chính là thành quả của chính sách này.
Trong nền kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, do ưu tiên vào
phát triển cơng nghiệp nặng, một nghành đòi hỏi huy động một lượng rất lớn
22
vốn đầu tư,thêm vào đó thời gian chu chuyển rất dài và cơ sở hạ tầng thấp
kém đã dẫn tới hiệu quả tư bản không cao, hiệu quả kinh tế thu được rất chậm
và bấp bênh. Đất nước rơi vào thời kỳ khó khăn, phức tạp. Mọi nguồn lực đều
bị sử dụng vơ tội vạ, các nguồn vốn tài chính cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng
chất, lạm phát gia tăng. Bộ máy cơng nghiệp đồ sộ khơng cịn nhiên liệu hoạt
động bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế nặng nề. Đúng ra với nguồn vốn
ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu kém cấn được tập trung đầu tư vào các nghành
có thời gian chu chuyển ngắn, tốc đọ chu chuyển nhanh. Do sai lầm trong việc
quản lý sử dụng vốn mà các nhà hoạch định chính sách đã đẩy kinh tế nước ta
vào hoàn cảnh tụt lùi với thế giới cả chục năm về kinh tế.
Tóm lại, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là rất quan trọng, đặc
biệt là trong việc xác định mục tiêu và họach định các chiến lược phát triển
kinh tế. Từ đó để có chiến lược huy đọng và sử dụng vốn có hiệu quả, thich
hợp nhất. Nước ta hiện nay dang trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan,khách quan.
Vì vậy việc vận dụng lý luận tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản của
C.Mác cũng như lý luận kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác Leenin và nắm
vững vai trò của việc huy động và sử dụng vốn hiệu quả là việc làm đầu tiên
và quan trọng nhất.
III. VẬN DỤNG LÝ LUẬN TUẦN HỒN VÀ CHU CHUYỂN TƯ
BẢN VÀO Q TRÌNH HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1.
Quá trình huy động và sử dụng vốn của
các doanh nghiệp
Như chúng ta biết, doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc
dân, là nơi kết hợp một cách có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra của cải cho
xã hội, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh kinh tế, sự giàu có của một quốc gia.
Trong giai đoạn hiện nay của nước ta việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả
của các doanh nghiệp là một vấn đề tương đối phức tạp. Giữa lý luận và hiện
23
thực cịn có nhiều vướng mắc mâu thuẫn chưa thực sự giải quyết được. Vì vậy
nghiên cứu lý thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản với điều kiện hiện có
của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp để xác định vị trí và
chỗ đứng trên thị trường. Bởi vì nó có ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự biến động
của sản xuất kinh doanh.Nó quyết định lãi, lỗ của doanh nghiệp, xác định
mức độ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Vấn đề đối với các doanh nghiệp của chúng ta bây giờ là làm sao để sản
xuất kinh doanh tốt để có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội, để có thể cạnh
tranh tốt với hàng hóa của các doanh nghiệp khác mà đặc biệt là lượng hàng
hóa nước ngồi tràn ngập thị trường của chúng ta, vấn đề vốn với các doanh
nghiệp của nước ta là một vấn đề nan giải.tình trạng thừa vốn trong các ngân
hàng thương mại và thiếu vốn trong các doanh nghiệp, vốn doanh nghiệp
khơng phải ít, việc sử dụng vốn bừa bãi lãng phí vốn đang là thực trạng đáng
buồn hiện nay.Vì vậy mà các doanh nghiệp cần phải quản lý,huy động và sử
dụng vốn một cách hợp lý và hiệu quả để đem lại hiệu quả cho kinh doanh.
1.1. Huy động vốn trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
a) Huy động từ việc cổ phần hóa.
Các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã và đang đóng góp vai trị to lớn
gần như tuyệt đối trong mọi lĩnh lực nhưng lại hoạt động kém hiệu quả. Quá
trình chuyển đổi đất nước sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động the cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước tất yếu phải đổi mới
căn bản doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà
nước mà trọng tâm là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được coi là xương
sống của công cuộc đổi mới về kinh tế. Chủ trương này đã được triển khai
thực hiện trong gần 20 năm qua.
Qua cổ phần hóa, doanh nghiệp nước đã chuyển thành doanh nghiệp có
nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, huy động thêm
được nguồn vốn của xã hội vào sản xuất, kinh doanh, sức cạnh tranh và khả
năng hội nhập của doanh nghiệp được năng lên. Mặc dù có những thăng trầm,
24
nhưng công cuộc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta đã đem lại
những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước được thực
hiện bằng các giải pháp: sắc nhập, hợp nhất, cổ phần hóa, giao, khốn, bán
cho th doanh nghiệp, tổ chức lại các tổng cơng ty và thành lập các tập đồn
kinh tế. Trong tất cả các giải pháp đó, cổ phần hóa được coi là giải pháp cơ
bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Đến hết tháng 82006, cả nước ta đã sắp xếp được 4447 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa
3060 doanh nghiệp. Riêng từ năm 2001 đền nay đã sắp xếp được 3389 doanh
nghiệp( bằng 68% số doanh nghiệp nhà nước có vào đầu năm 2001). Hình
thức sắp xếp phổ biến nhất là cổ phần hóa. Nhờ đó mà số lượng doanh nghiệp
cổ phần hóa tăng mạnh. Tính đến 30/6/2006, cả nước ta đã cổ phần hóa được
3365 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp.thơng qua cổ phần hóa đã huy
động được trên 22000 tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất
kinh doanh.
Doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô vốn lớn hơn trước đây : trong hơn
967 đơn vị đã được phê duyệt phương án cổ phần hóa trong năm 2005thì có
tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng(chiếm 32%), trong đó có gần 10
doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005
vốn nhà nước trong 2307 đơn vị cổ phần hóa chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng,
bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn
nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hóa đã đạt 20 ngàn tỷ đồng bằng 8& tổng
số vốn nhà nước. Năm 2004, theo kết quả điều tra của Ban chỉ đạo đổi mới
doanh nghiệp Trung ương đối với trên 500 doanh nghiệp nhà nước hoàn thành
việc cổ phần hóa và đa dạng hóa quan hệ sở hữu trên một năm cho thấy, hiệu
quả kinh doanh đã có những chuyển biến tích cực: vốn điều lệ tăng từ 50 đến
100%; doanh thu tăng 60%; lợi nhuận trước thuế tăng 130%; nộp ngân sách
tăng 45%; thu nhập người lao động tăng 63%. Cổ phần hóa tuy đã đạt được
một số kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu đổi mới còn chậm. Vốn nhà
25