Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận Kinh tế chính trị về vấn đề tiền công và liên hệ thực tế tại Việt Nam (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.6 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

*********************

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về tiền công và
liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.

Hà Nội, 04/2022


MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU: ............................................................................................... 4
B. NỘI DUNG: ................................................................................................... 5
Chương 1: Trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về tiền cơng:........... 5
1.1

Các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển bàn về tiền công: .......... 5

1.2

Bản chất của tiền cơng dưới cái nhìn của C. Mac: ............................ 6

1.3

Phân biệt tiền cơng tính theo thời gian và tính theo sản phẩm: ......... 8

1.3.1


Tiền cơng tính theo thời gian: .............................................................. 8

1.3.2

Tiền cơng tính theo sản phẩm: ............................................................. 8

1.4

Phân biệt tiền công danh nghĩa và thực tế: ......................................... 9

1.4.1

Tiền công danh nghĩa: ......................................................................... 9

1.4.2

Tiền công thực tế: ................................................................................ 9

1.5

Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công: .............................................. 10

1.5.1

Nhân tố thị trường lao động: Quan hệ cung- cầu lao động................. 10

1.5.2

Nhân tố môi trường doanh nghiệp: .................................................... 10


1.5.3

Nhân tố người lao động:.................................................................... 11

1.5.4

Nhân tố giá trị công việc: .................................................................. 11

1.5.5

Nhân tố khác: .................................................................................... 11

Chương 2: Liên hệ với thực tiễn tiền công ở Việt Nam: .............................. 11
2.1 Mức lương cơ sở (mức lương tối thiểu) vùng đang được áp dụng ở Hà
Nội năm 2021: ................................................................................................. 11
2.1.1 Mức lương cơ sở: ..................................................................................... 11
2.1.2 Mức lương cơ sở vùng đang được áp dụng ở Hà Nội năm 2021: ............. 12

2


2.2 Tình hình chi tiết mức lương năm 2021 của người lao động thành phố
Hà Nội: ............................................................................................................ 12
2.3 Thang bảng lương 2021: ........................................................................... 13
2.3.1 Quy tắc xây dựng thang bảng lương năm 2021: ....................................... 13
2.3.2 Thang bảng lương năm 2021: .................................................................. 14
2.4 Đánh giá tổng quan:.................................................................................. 15
2.4.1 Ưu điểm: .................................................................................................. 15
2.4.2 Nhược điểm: ............................................................................................ 15
Chương 3: Kết luận: ....................................................................................... 16

C. Danh sách tài liệu tham khảo:..................................................................... 18

3


A. LỜI MỞ ĐẦU:
Con người rất cần động lực của sự phát triển. Một trong những tác nhân then
chốt để hiện thực hóa cơ hội phát triển của nhân loại là lợi ích cho kinh tế: tiền
lương, tiền cơng và thu nhập. Vấn đề về tiền công luôn là một vấn đề thiết yếu và
quan trọng, vì tiền cơng được xem là giá cả của sức lao động, luôn gắn liền với các
phương thức sản xuất và các hình thức kinh tế khác nhau. Đặc biệt khi xét trong chủ
nghĩa tư bản, tiền lương là phương tiện phản ánh bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư
bản.
Xu hướng hội nhập đã tạo được nhiều lợi ích khác nhau cho tồn Thế giới,
khơng chỉ cho sự phát triển nhanh chóng của nước ta. Những ích lợi này khơng thể
tránh khỏi nhiều khó khăn, bao gồm: Mức sống người dân cịn thấp, mỗi cá nhân chi
tiêu chỉ hơn 1.540 USD/năm. Sánh với quốc tế, thu nhập cịn thấp. Bên cạnh đó, lạm
phát vẫn tồn tại, mức sống, mức tiêu dùng và tiền lương mà người lao động thu về
còn rất thấp so với mặt bằng chung giá thị trường thời điểm gần đây. Điều này gây
ra nhiều thiệt hại cho nền kinh tế và làm chậm rõ rệt sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam. Ngồi ra, ngày càng nhiều cơng ty ngoại quốc đầu tư vào nước ta. Để thu hút
nhân lực có trình độ, những người có thẩm quyền khơng ngại đưa ra các chính sách
tiền lương hợp lí, hấp dẫn, điều đó gây khó khăn nghiêm trọng cho hợp đồng lao
động của các công ty trong nước. Lương không được cao cũng là tác nhân dẫn đến
vấn nạn chảy máu chất xám của đất nước trong thời gian qua, khiến Đảng và Nhà
nước phải đau đầu. Trước tình hình đó, nhằm đáp ứng điều kiện và hồn cảnh kinh
tế - xã hội của đất nước
Trong tình hình chung của thế giới, các Đảng, các Nhà nước không ngừng thay
đổi và ban hành các quy định mới về tiền lương, tiền cơng. Chính sách tiền lương,
tiền cơng phù hợp sẽ là điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập và phát triển kinh

tế của một đất nước. Chính vì lẽ đó, việc phân tích và làm rõ vấn đề “mối quan hệ
giữa tiền công và thực tiễn ở Việt Nam” là vô cùng quan trọng và cần thiết. Từ đó,
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này và tìm cách cải thiện mức độ tiền cơng. Tuy
nhiên, do sự hiểu biết còn hạn chế nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ
của mình. Bài viết cịn có rất nhiều sai sót, em kính mong cơ giúp đỡ em hồn thành
bài viết tốt hơn.
Chân thành cảm ơn cô!

4


B.

NỘI DUNG:

Chương 1: Trình bày lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về tiền cơng:
1.1 Các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển nói về tiền cơng:
Trong lịch sử các học thuyết về kinh tế chính trị, C.Mác không phải là người
đầu tiên nghiên cứu về tiền lương trong chủ nghĩa tư bản (CNTB). Lý thuyết tiền
lương đã được các nhà kinh tế học nghiên cứu từ lâu. Cá nhân đầu tiên phải kể đến
là W. Petty, người lấy lý thuyết giá trị làm nền tảng cho lý thuyết tiền lương. Ông
định nghĩa tiền lương là mức tối thiểu cần thiết cho sự sống của người lao động.
Petty cho rằng: tiền lương tỉ lệ nghịch với giá trị nhu yếu phẩm (trái với C. Mác sau
này: tiền lương tỉ lệ nghịch với giá trị sức lao động). Ông là người đầu tiên trong
lịch sử đặt nền móng cho học thuyết "quy luật sắt về tiền lương". Theo W. Petty
viết: tiền lương không được vượt quá mức tối thiểu cần thiết để sống, khi lương cao
người lao động không muốn làm việc; Vì vậy, để người lao động có thể tích cực làm
việc thì việc giảm lương xuống mức tối thiểu là một biện pháp. Ơng chỉ trích ý
tưởng tăng lương q nhiều. Vì vậy, trong khi vẫn cịn sai lầm, ông đã khẳng định
rằng cơ sở khoa học của tiền lương là giá trị của tư liệu sinh hoạt.

Sau W. Petty, A.Smith, nhà kinh tế học tư sản cổ điển người Anh đã dành nhiều
công sức vào việc nghiên cứu tiền lương. Hai quan điểm của ông về tiền lương:
Một, tiền lương ngang với sản phẩm của lao động; Hai, tiền lương là sản phẩm của
người lao động, do sức lao động của người lao động tạo ra. Coi tiền lương là sản
phẩm của lao động cũng là coi tiền lương là giá cả của sức lao động.Trái ngược với
ý kiến của W. Petty, Smith cho rằng càng nhiều cơng nhân thì càng được trả lương
tốt hơn, trong khi chủ muốn trả càng thấp càng tốt; Không thể cắt giảm tiền lương
vượt quá một giới hạn nhất định vì người lao động khó có thể kiếm sống từ cơng
việc của họ. Ơng chủ trương lương cao, lương cao làm tăng sự thịnh vượng và
cũng kéo theo sự gia tăng dân số. Tiền lương của công nhân thuộc tầng lớp thấp
hơn được xác định bởi hai yếu tố, lượng cầu lao động và giá lương thực bình dân
hoặc trung bình. Tiền lương chịu ảnh hưởng của nhân khẩu học và quy mơ vốn
quyết định tiền lương.Ơng cũng là người đã nêu ra được sự khác nhau của tiền
lương thực tế và tiền lương danh nghĩa ( giá tiền và giá sức lao động thực tế).
Ricardo, nhà kinh tế học tư sản cổ điển người Anh, đã có nhiều đóng góp cho lý
thuyết tiền lương, tiếp thu và phê phán các quan điểm của W. Petty và A. Smith.
Ông đã đi đến những kết luận quan trọng về sự đối kháng giữa tiền lương và lợi
nhuận và thừa nhận quy luật tư bản: “năng suất tăng, tiền lương giảm và lợi nhuận
5


sẽ tăng”. Tiền lương thực tế được ơng phân tích và định nghĩa nó là một phạm trù
kinh tế mà: “Lượng hàng hoá mà người lao động mua được bằng tiền công không
thể quyết định địa vị xã hội của anh ta”. Ricardo cho rằng: “Tiền lương cao sẽ kéo
theo sự gia tăng dân số nhanh chóng, dẫn đến cung lao động vượt cầu, làm giảm tiền
lương và hạ thấp mức sống của người lao động”.
Như vậy có thể thấy, học thuyết tiền lương trước C.Mác đã được nhiều nhà kinh
tế học nghiên cứu nhưng quan điểm của họ chưa làm rõ bản chất của tiền lương,
cơ sở khoa học cịn chủ quan xa rời thực tế. Khơng hiểu bản chất của tiền lương, các
lý thuyết của họ về tiền lương không phản ánh đúng bản chất của kinh tế tư bản chủ

nghĩa và bản chất của sản xuất hàng hố.

1.2 Bản chất của tiền cơng dưới cái nhìn của C. Mac:
Có thể nói, lý thuyết tiền cơng của C. Mac đã tiếp nối những tiêu chí quan trọng
và cần thiết của lý thuyết tiền lương các nhà kinh tế học cổ điển thời kỳ đầu. Lý
thuyết tiền công của C. Mac chỉ ra rằng trong chủ nghĩa tư bản, tiền cơng có bản
chất được ngụy trang dưới dạng giá cả của sức lao động.
Lý thuyết tiền lương được Marx thể hiện trong Tập 1 của bộ sách “Tư bản”,
Phần 6 (Chương XVII-Chương XX). Lý do trình bày lý thuyết tiền lương sau khi
học xong giá trị thặng dư như sau: “Giá trị thặng dư kết tinh trong quá trình sản xuất
và được tiêu hao bằng sức lao động trừu tượng của những người làm công ăn lương
do nhà tư bản đặt ra. Vì hai yếu tố sản xuất và lao động tách rời nhau. Để sản xuất
diễn ra phải dựa trên cơ sở mua bán hàng hoá và sức lao động. Nhưng về mặt xã
hội, giá cả của lao động mới được xem là tiền lương chứ không phải là giá của sức
lao động. Vì vậy, việc làm rõ tiền lương là biểu hiện và hình thức chuyển hố của
giá trị sức lao động là vô cùng cần thiết. Từ đó, việc phân tích tiền lương năm phải
bắt đầu bằng việc giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa lý luận giá trị sức lao động với
lý luận giá cả sức lao động và phạm trù giá cả của lao động.”
Theo ông, thực chất tiền công dưới chủ nghĩa tư bản là phản ánh bằng tiền của
giá trị sức lao động hàng hóa. Theo C. Mác: "Trên bề mặt của xã hội tư sản, tiền
lương của công nhân được biểu hiện bằng giá cả sức lao động, bằng một số tiền cụ
thể được trả cho một lượng sức lao động cụ thể."
Người lao động làm việc cho nhà tư bản trong một thời gian nhất định thì được
nhận một khoản thù lao nhất định. Mức tiền công phụ thuộc nhiều hay ít vào số giờ
làm việc hoặc số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Hiện tượng này khiến
mọi người hiểu nhầm rằng tiền lương là giá cả của công việc.
6


Sự thật là tiền công không phải là giá trị cũng không phải là giá cả của công

việc. Đối với sức lao động khơng phải là hàng hóa hay vật có thể mua và bán.Vì
sức lao động là tồn bộ khả năng lao động thể chất hoặc trí óc tiềm tàng ở một
người bình thường. Sức lao động là quá trình sử dụng sức lao động đó một cách cụ
thể để tạo ra giá trị sử dụng cụ thể. Cho nên:
Một: nếu lao động là hàng hố thì nó phải có trước, phải được vật hố trong một
hình thức cụ thể nào đó. Tiền để cho lao động có thể “vật hố” được chính là phải
có tư liệu sản xuất. Nhưng nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ sẽ bán hàng
hố do chính họ sản xuất, chứ khơng bán “lao động” của mình. Người lao động
khơng thể bán cái mình khơng có. Mặt khác, nhà tư bản mua hàng hóa sức lao động
bởi vì: nhà tư bản chỉ trả tiền công cho công nhân sau khi cơng nhân đã hao phí sức
lao động của mình để sản xuất ra hàng hoá.
Hai: việc thừa nhận lao động là hàng hoá dẫn tới một trong hai mâu thuẫn cơ
bản về lý luận sau đây: Nếu lao động là hàng hố và được trao đổi ngang giá, thì nhà
tư bản không thu được giá trị thặng dư - dẫn đến phủ nhận sự tồn tại thực tế của quy
luật giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Còn nếu hàng hố trao đổi khơng ngang
giá để tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản, thì sẽ phủ nhận quy luật của giá trị.
Ba: nếu lao động là hàng hố thì hàng hố đó cũng phải có giá trị của nó. Tuy
nhiên, thước đo nội tại của giá trị là lao động. Như vậy, giá trị của lao động được đo
bằng lao động, đó là sự luẩn quẩn vơ nghĩa. Lao động khơng phải là hàng hố, cái
mà người lao động bán và nhà tư bản mua khơng phải là lao động mà chính là sức
lao động. Do đó, tiền cơng mà nhà tư bản trả cho người lao động chính là giá cả của
sức lao động, chứ không phải giá cả của lao động.
Tuy nhiên, trong các xã hội tư bản, người ta dễ cho rằng tiền công xuất hiện với
tư cách là giá cả cho lao động, làm lu mờ mối quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và lao
động làm công ăn lương. tại vì:
Nhìn bề ngồi, tiền lương là giá cả của lao động, do người lao động chỉ nhận
tiền lương sau khi đã lao động (kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất của nhà tư
bản), để tạo ra một giá trị sử dụng có chứa giá trị mới tăng thêm cho nhà tư bản. Mặt
khác, đó là số tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân theo thời gian (giờ, ngày,
tuần, tháng); hoặc theo số lượng, chất lượng hàng hố mà người cơng nhân sản xuất

ra. Từ đó nhìn bề ngồi dường như tồn bộ lao động mà cơng nhân đã hao phí đều
được nhà tư bản trả cơng đầy đủ chứ khơng có sự bóc lột.
Nhưng trên thực tế, sức lao động không phải là hàng hóa, nên tiền lương khơng
phải là giá trị hay giá cả của sức lao động. Tức là nó khơng có giá trị nội tại. Hơn
7


nữa, đó là lao động mà nhà tư bản mua của cơng nhân chứ khơng phải sức lao động.
Bởi vì lao động chỉ xảy ra sau khi mua bán giữa hai bên nhà tư bản và cơng nhân.
Ngồi ra, lực lượng lao động được mua và bán bằng tín dụng. Đặc điểm của lực
lượng lao động hàng hố là khơng bao giờ tách rời người bán và chỉ nhận được giá
cả nếu người mua đã tạo ra giá trị sẵn có. Nói cách khác, bạn chỉ có thể nhìn bề
ngồi giá trị thanh toán của tác phẩm. Mặt khác, làm việc toàn thời gian là một cách
gần như tự nhiên để người lao động kiếm sống. Do đó, chính người lao động cũng
tưởng rằng mình đã bán sức lao động. Và đối với các nhà tư bản, tiền được sử dụng
để có được việc làm, vì vậy họ cũng nghĩ rằng họ đang mua việc làm. Đồng thời, do
cách trả lương mà người ta lầm tưởng rằng tiền công là giá cả của công việc.
Rõ ràng tiền công đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia thời gian ngày lao
động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư; lao động được
trả công và lao động khơng được trả cơng; theo đó đã che đậy quan hệ bóc lột của tư
bản và lao động.
 Vậy, trong chủ nghĩa tư bản bản chất của tiền cơng là hình thức phản ánh giá
trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài
thành giá cả của lao động.

1.3

Phân biệt tiền cơng tính theo thời gian và tính theo sản phẩm:
1.3.1 Tiền cơng tính theo thời gian:


Tiền cơng mà có tính chất ít/ nhiều tuỳ theo thời gian lao động của cơng nhân
(tính theo giờ, ngày, tháng, q…) dài hay ngắn có thuật ngữ chun ngành là tiền
cơng theo thời gian.
Cần phải phân biệt giữa công việc hàng giờ, hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng.
Tuy có thể vẫn chưa rõ lương cao hay thấp bởi lương hàng ngày và hàng tuần phụ
thuộc vào thời gian làm việc của ngày làm việc dài hay ngắn. Tuy vậy, nó khơng chỉ
dựa trên mức lương hàng ngày mà còn dựa trên số ngày công nhất định, thời gian tối
thiểu của ngày làm việc và cường độ quá trình làm việc để có thể ước tính chính xác
mức lương phù hợp với cơng sức của người lao động. Thước đo chính xác tiền lương
theo thời gian có thể xem như là giá của giờ làm việc.

1.3.2 Tiền cơng tính theo sản phẩm:
Tiền cơng mà có số lượng nhiều hay ít bị phụ thuộc vào số lượng sản phẩm hay
số lượng bộ phận sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc là số lượng cơng việc
mà cơng nhân đó đã hồn thành sẽ được gọi là tiền cơng tính theo sản phẩm.
8


Mỗi sản phẩm khác nhau sẽ được thanh toán theo một mức giá cụ thể nhất định.
Vì đơn giá tiền lương được xác định bằng thương số giữa tiền lương bình qn của
một cơng nhân trong một ngày và sản lượng bình qn mà một cơng nhân sản xuất
ngày đó, nên đơn giá tiền lương đó về cơ bản được trả tại thời điểm sản xuất các loại
tiền công được nhắc đến ở trên. Chính vì vậy, tiền lương tính bằng sản phẩm là hình
thức quy đổi của tiền lương theo giờ. Mặt khác, việc tính tiền cơng cho từng sản
phẩm giúp cho nhà tư bản dễ dàng quản lý và theo dõi q trình lao động của cơng
nhân. Ngồi ra cịn khuyến khích người lao động tích cực, khẩn trương sản xuất
nhiều sản phẩm, tăng thêm năng suất cho doanh nghiệp để tăng được mức lương ban
đầu của người lao động.

1.4


Phân biệt tiền công danh nghĩa và thực tế:
1.4.1 Tiền công danh nghĩa:

Số tiền mà những người lao động nhận được do bán sức lao động của mình cho
các nhà tư bản chính là tiền cơng danh nghĩa. Chúng được sử dụng để tái sản xuất
sức lao động nên phải được chuyển hóa thành tiền cơng thực tế.

1.4.2 Tiền công thực tế:
Tiền công mà được biểu hiện bởi số lượng hàng hóa tiêu dùng cũng như dịch vụ
thiết yếu mà những người lao động mua được bằng tiền công danh nghĩa của họ thì
chính là tiền cơng thực tế.
Tiền là giá cả của sức lao động, vì vậy sự vận động của nó gắn liền với sự thay
đổi giá trị của sức lao động. Các nhân tố có tác động ngược chiều nhau có thể tác
động rất lớn đến giá trị của sức lao động. Các yếu tố làm tăng giá trị của lực lượng
lao động,có một số ví dụ như: chú trọng vào trình độ chun mơn của ngườ lao
động, cường độ lao động ngày càng cao, nhu cầu thiết yếu ngày càng nhiều cùng với
sự phát triển của xã hội. Năng suất lao động tăng cũng là một yếu tố làm giảm giá
trị sức lao động và cũng làm cho giá cả hàng hóa tiêu dùng của người dân giảm
xuống. Sự tác động qua lại và song hành nhau của các yếu tố này dẫn đến quá trình
biến đổi phức tạp của giá trị sức lao động và từ đó dẫn đến sự biến đổi phức tạp của
tiền công trong thực tế.
9


Tuy nhiên, Marx chỉ ra rằng xu hướng chung của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
không phải là tăng tiền lương bình qn mà là giảm nó xuống. Trong quá trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản, tiền lương danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng
thường khơng đi đơi với sự tăng giá của hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng; Đồng thời,
thất nghiệp là một hiện tượng thường xuyên, làm cho cung lao động được trả công

vượt quá cầu, cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó. Từ những
điều đó, tiền lương thực tế của giai cấp cơng nhân có xu hướng giảm xuống.
Nhưng trên thực tế, xu hướng về việc cắt giảm quy mơ hàng hóa khơng qus ảnh
hưởng trên cục diện chung, vì có những yếu tố phản đối việc cắt giảm quy mơ. Một
mặt, đó là cuộc đấu tranh địi tăng lương của giai cấp cơng nhân. Mặt khác, do tác
động của cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt ở trong điều kiện tư bản chủ nghĩa hiện
nay – sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, các nhu cầu ngày càng lớn về lao động
trình độ cao đã buộc giai cấp tư sản phải cải tiến và tổ chức lực lượng lao động một
cách toàn diện và khoa học, vì quyền lợi vật chất được coi là nghĩa vụ để kích thích
nó. Nó cũng là một trở ngại cho xu hướng giảm giá của cổ phiếu .

1.5

Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền công:
1.5.1 Nhân tố thị trường lao động: Quan hệ cơ bản là cung- cầu lao động.

Tương quan cung cầu lao động trong các ngành cơng nghiệp khơng giống nhau.
Nhìn chung, các ngành sử dụng phần lớn lao động phổ thơng có xu hướng cung lao
động nhiều hơn cầu, do đó tiền lương trong các ngành đó ln có xu hướng thấp
hơn. Ngược lại, những ngành sử dụng lao động trí óc thì phần lớn lại sử dụng lao
động có trình độ tay nghề cao, cung lao động thường ít hơn cầu lao động nên tiền
lương có xu hướng tăng. Quan hệ cung cầu lao động cũng thay đổi ở các giai đoạn
phát triển kinh tế khác nhau.
Ví dụ, khi nền kinh tế suy thối, tiền lương có xu hướng giảm, và khi nền kinh
tế đang bùng nổ, tiền lương có xu hướng tăng khi đầu tư tăng và nhu cầu lao động
tăng.Tỷ lệ cung cầu lao động cũng có sự khác biệt giữa các vùng miền đất nước và
các nước có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên tiền lương cũng có sự khác biệt.

1.5.2 Nhân tố mơi trường doanh nghiệp:
Chính sách của Cơng ty: Khuyến khích làm việc để nâng cao năng suất, chất

lượng, hiệu quả và trực tiếp tăng thu nhập bằng cách áp dụng triệt để và phù hợp
các chính sách như tiền lương, phụ cấp và chi phí. Nó là một trong những yếu tố
ảnh hưởng đến tiền lương.

10


1.5.3 Nhân tố người lao động:
Mức độ công việc: Người lao động có tay nghề cao có thu nhập cao hơn so với
người lao động phổ thơng vì người lao động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối
lớn cho công việc để đạt được mức độ này. Các khóa đào tạo dài hạn tại trường
cũng có thể được đào tạo tại nơi làm việc. Để thực hiện các hoạt động địi hỏi trình
độ và kiến thức cao, chắc chắn nền kinh tế của công ty sẽ được cải thiện và mức
lương sẽ cao. Trình độ thâm niên và năng suất cũng đóng vai trị quan trọng của
nhân tố này.

1.5.4 Nhân tố giá trị công việc:
Sự thu hút của cơng việc, mức độ phức tạp của nó, điều kiện của cơng việc hay
u cầu của nó đều rất cần thiết cho việc ảnh hưởng đến tiền công của người lao
động.

1.5.5 Nhân tố khác:
Nếu có sự phân biệt về màu da, giới tính, tuổi tác, thành thị hay nơng thơn thì
có sự chênh lệch tiền lương lớn, nó khơng phản ánh được trình độ cơng việc thực tế
của người lao động được ban hành, và nguyên tắc trả thưởng không được đảm bảo,
tuy nhiên trong thực tế vẫn tồn tại những vật cản này. Mức độ cạnh tranh khác nhau
trên thị trường cũng ảnh hưởng đến tiền lương của người lao động.

Chương 2: Liên hệ với thực tiễn tiền công ở Việt Nam:
2.1 Mức lương cơ sở (mức lương tối thiểu) vùng đang được áp dụng ở Hà

Nội năm 2021:
2.1.1 Mức lương cơ sở:
Mức lương cơ sở là mức lương thấp nhất trả cho người lao động làm những
công việc từ đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường để bảo đảm cho
người lao động và gia đình họ có mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện phát
triển. Mức lương tối thiểu được quy định theo khu vực, quy định theo tháng và giờ.
Theo quy định của pháp luật, tiền lương tối thiểu dựa trên mức sống tối thiểu
của người lao động và gia đình họ. Tương quan giữa tiền công tối thiểu và công thị
trường; chỉ số giá tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế; quan hệ cung - cầu lao
động; có việc làm và thất nghiệp; năng suất lao động; khả năng thanh tốn của cơng
ty.
11


2.1.2 Mức lương cơ sở vùng đang được áp dụng ở Hà Nội năm 2021:
Trong hai năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, mức lương tối
thiểu vùng chưa được nâng lên sẽ thực hiện theo chế độ tiền lương:

Trong đó, chi tiết cụ thể về từng vùng dựa theo quy định tại Nghị định
90/2019/NĐ-CP như sau:
Vùng I gồm thị xã Sơn Tây và các quận gồm: Hoàng Mai, Đống Đa, Hai Bà
Trưng, Hoàn Kiếm, Bắc Từ Liêm, Hà Đơng, Ba Đình, Long Biên, Nam Từ Liêm,
Tây Hồ, Cầu Giấy, Thanh Xn; các huyện có: Thanh Trì, Quốc Oai, Thanh Oai,
Gia Lâm, Mê Linh, Đơng Anh, Thường Tín, Sóc Sơn, Hồi Đức, Thạch Thất,
Chương Mỹ. Vùng II có các huyện: Phúc Thọ, Ba Vì, Mỹ Đức, Đan Phượng, Ứng
Hịa, Phú Xun.

2.2 Tình hình chi tiết mức lương năm 2021 của người lao động thành phố
Hà Nội:


12


Theo Bộ Lao động Khuyết tật và Phúc lợi Hà Nội, hoạt động sản xuất và hoạt
động của hầu hết các công ty vào năm 2021 đã phải chịu những ảnh hưởng rất lớn
do tình hình dịch bệnh COVID-19.
Song tuy vậy nhưng với sự nỗ lực chỉ đạo, triển khai các chương trình, giải
pháp hỗ trợ tháo gỡ vấn đề cho sản xuất kinh doanh của các cấp, các ngành thành
phố, nhiều công ty phải thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ: vừa sản xuất phục vụ nhu cầu
thiết yếu vừa chống dịch. Nhanh chóng tạo ra một kế hoạch tiền thưởng để giữ chân
nhân viên cho doanh nghiệp.

2.3 Thang bảng lương 2021:
2.3.1 Quy tắc xây dựng thang bảng lương năm 2021:
Người sử dụng lao động sử dụng bảng lương và tiêu chuẩn lao động làm căn cứ
để lựa chọn, thuê mướn người lao động, thỏa thuận tiền công theo công việc, chức
vụ quy định trong hợp đồng ki kết lao động và trả lương cho người lao động. (Điều
93 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định rằng “người sử dụng lao động có trách
nhiệm tạo tiền lương và bảng lương trên cơ sở các nguyên tắc trả lương do Chính
phủ ban hành tại Nghị định 49/2013 / NĐCP ngày 14/5/ 2013).
Ý kiến của cơ quan đại diện người lao động phải được người sử dụng lao động
tham khảo tại trụ sở của tổ chức đại diện để lập ra thống nhất chung trong thang
lương, bảng lương và tiêu chuẩn cho lao động. Bảng chấm công, tiền lương và thư
mời làm việc phải được niêm yết tại nơi làm việc và trong hợp đồng kí kết lao động
trước khi thực hiện.
Chú ý: Trước đây, theo Điều 93/ luật Lao động 2012, người sử dụng lao động
đồng thời đăng ký tiền công, phiếu trả công với cơ quan nhà nước về lao động và
quảng cáo cấp huyện nơi công ty có hoạt động sản xuất kinh doanh tại nơi làm việc.
13



Tuy nhiên, theo Luật Lao động 2019, người sử dụng lao động không cần phải đăng
ký phiếu lương và bảng lương với các cơ quan chính phủ.

2.3.2 Thang bảng lương năm 2021:
Khi làm công việc, trong điều kiện lao động chức danh giản đơn nhất không
được phép thấp hơn mức lương cơ sở của địa phương.
Nếu đảm nhiệm công việc hoặc chức danh cần lao động có trình độ học vấn
hoặc chứng chỉ học nghề (bao gồm cả lao động tự đào tạo) thì mức lương tối thiểu
so với mức lương tối thiểu của địa phương phải cao hơn ít nhất 7%.

Nếu lao động công việc hoặc chức danh trong điều kiện làm việc khắc nghiệt,
khó khăn, nguy hiểm thì mức lương đó phải cao hơn ít nhất 5%; Cơng việc, chức
danh có điều kiện lao động đặc biệt nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm so với mức
lương của cơng việc, chức danh có độ phức tạp tương đương hoặc chức danh làm
việc trong điều kiện lao động kém phải cao hơn ít nhất 7%.

14


2.4 Đánh giá tổng quan:
2.4.1 Ưu điểm:

Xác định rõ và quản lý việc tăng lương vào thời điểm thích hợp trước thời hạn và
thay đổi bậc lương (trước thời hạn). Ở đây có nhiều hạn chế về việc nâng ngạch và
chuyển ngạch…)
Khuyến khích và động viên người lao động bằng cách bù đắp các chi phí lao
động cụ thể cũng là mục đích cơ bản của phụ cấp, song vẫn khơng được tính vào
lương của họ.


2.4.2 Nhược điểm:
Trên thực tế, cạnh tranh về giá cả tiền lương là một nỗ lực để duy trì ổn định,
khi Nhà nước chuẩn bị tăng lương tối thiểu thì giá thị trường trước tiên đang tăng
cao hơn mức tăng lương tối thiểu. Tiền lương đang tăng nhưng trên thực tế vẫn có
thể được giữ lại hoặc giảm xuống.

15


Tiền lương của người lao động nhìn chung vẫn cịn thấp so với mặt bằng chung
của các nước trong khu vực, nhưng lại chịu tác động của lạm phát khá cao hàng
năm, ảnh hưởng tiêu cực đến mức sống của các cá nhân và hộ gia đình. Một số mặt
hàng tăng rất nhanh như giá vàng tăng (từ ngưỡng 56 triệu đồng / lượng cuối năm
2021 lên 61,65 triệu đồng / lượng), bất động sản, dịch vụ tăng giá. , vv khi giá cả
của các mặt hàng này liên quan đến nhu cầu về hàng hóa để đảm bảo cải thiện mức
sống của người lao động.

Chương 3: Kết luận:

16


17


C.

Danh sách tài liệu tham khảo:

18




×