Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.73 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
BỘ MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

TIỂU LUẬN
HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH, Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN
CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Phúc An Bình
Mã sinh viên: 72DCKT20059
Lớp: 72DCKT22
Khóa: 72
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Huyền

Hà Nội - 2022
1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 3
NỘI DUNG ....................................................................................................... 4
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư ....................................................... 4
1.1. Khái niệm giá trị thặng dư........................................................................... 4
1.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối ......................................... 5
1.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối ....................................... 5
1.4. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch ...................................... 6
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đối
với việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay............................................. 8
2.1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của hàng hóa các doanh nghiệp Việt


Nam hiện nay ..................................................................................................... 8
2.2. Giải pháp .................................................................................................... 8
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 14

2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội từ trước đến nay, kinh tế chính trị Mác – Lenin vẫn
ln đóng một vai trò quan trọng. Trong bối cảnh đổi mới như hiện nay, cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, nghiên cứu kinh tế chính trị
Mác – Lenin càng là vấn đề được đặt ra bức thiết, nhằm khắc phục lạc hậu về lý
luận, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới. Cơng cuộc xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam đòi hỏi phải gắn liền với
các phạm trù và các quy luật kinh tế của nó. Vì vậy, nói rằng học thuyết giá trị
thặng dư là “hịn đá tảng” trong tồn bộ lí luận kinh tế của C.Mác quả thật rất đúng.
Nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, tồn bộ bí mật của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa được vạch trần, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
được nêu ra một cách chính xác. Mà trong đó kể đến hai phương pháp sản xuất
chính là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối được áp dụng
rộng rãi nhất, nhằm tạo ra tư bản để tích lũy và tái mở rộng sản xuất, đưa xã hội
ngày càng phát triển. Ngồi ra cịn phải kể đến phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư siêu ngạch.
Làm đề tài tiểu luận này, với tư cách là một sinh viên, một cơng dân của
nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một mặt em muốn cùng mọi người tìm
hiểu sâu hơn và kĩ hơn về Kinh tế chính trị Mác – Lênin phần giá trị thặng dư. Cụ
thể hơn, đó là hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu
ngạch. Mặt khác, em cũng muốn góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào sự
nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam. Đây được coi là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi kinh tế là
một trong những yếu tố quan trọng mang tính quyết định sự phát triển của đất
nước. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của đề tài.

3


NỘI DUNG
Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất.
Vì tư liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong q trình sản
xuất, người cơng nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm
làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản
khi năng suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cẩn một phần của ngày lao
động người công nhân làm thuê đã tạo tra giá trị bằng giá trị sức lao động của
chính mình.
Bằng lao động cụ thể của mình, cơng nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và
chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân
tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị
thặng dư.
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C. Mác
đã chỉ ra nhà tư bản sử dụng hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
1.1. Khái niệm giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư là một trong những phát kiến lớn nhất mà C. Mác
đã đóng góp cho nhân loại. Giá trị thặng dư chính là giá trị do cơng nhân làm thuê
lao động sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản
chiếm đoạt hết. Đối với hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào tư liệu sản
xuất và mua sức lao động. Mục đích khi chi tiền là nhằm thu được một số tiền dơi

ra ngồi số tiền mà họ đã chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dơi ra chính là giá
trị thặng dư. Như vậy phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm hết được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được Mác nghiên cứu dưới góc độ hao phí lao động. Trong
đó cơng nhân làm th sản xuất nhiều giá trị hơn chi phí được trả cho họ. Đây là
yếu tố được quy định bởi tiền lương tối thiểu chỉ đủ cho họ sinh sống với tư cách
người lao động. Đối với Mác sự bóc lột sức lao động chỉ có thể được loại bỏ khi
nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra. Ví dụ minh chứng rõ nét
nhất cho giá trị thặng dư đó là: giả sử một người lao động có trong tay giá trị
nguyên vật liệu là 1000 đồng. Trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra, người lao động
đó sẽ làm ra được sản phẩm mới có giá trị 1100 đồng. Số tiền 100 chênh lệch đó
chính là giá trị thặng dư sức lao động. Tuy nhiên nhà tư bản chỉ trả lương cho anh
ta 50 đồng/1 sản phẩm, có nghĩa 50 đồng cịn lại là phần nhà tư bản chiếm của
người lao động. Như vậy, giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dơi ra ngồi giá
4


trị sức lao động do người bán sức lao động (người lao động làm thuế) tạo ra và
thuộc về nhà tư bản (người mua hàng hóa sức lao động).

1.2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức
lao động và thời gian lao động tất yếu khơng thay đổi.
Ví dụ: Ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.
Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện
khơng đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị
thặng dư sẽ là:
m’= 6 giờ/4 giờ x 100% = 150%

Để có nhiều giá trị thặng dư, người mua hàng hóa sức lao động phải tìm mọi
cách để kéo dài ngày lao động và tăng cường độ lao động.
Tuy nhiên, ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh lý (cơng nhân phải có
thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên khơng thể kéo dài bằng ngày tự nhiên,
cịn cường độ lao động cũng khơng thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con
người.
Hơn nữa, công nhân kiên quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền
lợi hai bên có mâu thuẫn, thơng qua đấu tranh, tùy tương quan lực lượng mà tại
các dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định
của ngày lao động. Tuy vậy, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu
và cũng không thể vượt giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động(1).
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng
khơng cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do
cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan
lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động
tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.

1.3. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian
lao động tất yếu; do đó kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi độ dài ngày
lao động khơng thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.

5


Ví dụ: Ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng
dư, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian
lao động tất yếu rút xuống cịn 2 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ.
Khi đó:
m’ = 6 giờ/2 giờ x 100% = 300%

Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm
khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng
dư sẽ là 5 giờ. Khi đó:
m’ = 5 giờ/1 giờ x 100% = 500%
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động
trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản
xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó(2).
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản
xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực
lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua
ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ cơng và đại cơng nghiệp cơ khí,
đó cũng là q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

1.4. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước
hết ở một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt, làm cho hàng hóa do các xí nghiệp ấy sản
xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó, sẽ thu được một số giá trị
thặng dư trội hơn so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là
giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét trong từng trường hợp đơn vị sản xuất cá biệt, giá trị thặng dư siêu ngạch
là một hiện tượng tạm thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản
thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản
ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng
nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá
trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Vì vậy, giá trị thặng
dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, giai cấp tư

sản đã thực hiện những cuộc cách mạng lớn về sản xuất để không ngừng nâng cao
6


năng suất lao động. Đó là cách mạng về tổ chức, quản lý lao động thông qua thực
hiện hiện tác giản đơn, cách mạng về sức lao động thông qua thực hiện hiệp tác
có phân cơng và cách mạng về tư liệu lao động thơng qua sự hình thành và phát
triển của nền đại cơng nghiệp(3).
Sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thông qua cách mạng
công nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho phát triển khoa học và cơng nghệ,
thúc đẩy sản xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư nói riêng phát triển nhanh.
Cùng với tồn cầu hóa kinh tế, khoa học và công nghệ ngày càng trở thành
nhân tố quan trọng của sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường trên
thế giới hiện nay.

7


2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đối với
việc phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay
2.1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của hàng hóa các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay
Do xuất phát điểm nước ta thấp nên còn nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ, kỹ
thuật công nghệ chưa cao, thiếu vốn đầu tư, chưa có nhiều mặt hàng chiến lược
và thương hiệu.
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng hố của ta
khơng giống với nền sản xuất hàng hoá của các nước khác trên thế giới. Xuất phát
từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điều của nền kinh tế nước ta: Kết cấu hạ tầng
vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh

nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như khơng có, đội ngũ nhà doanh nghiệp
tầm cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó thì thu nhập của người làm cơng ăn lương
cũng như của nông dân thấp kém khiến dung lượng hàng hố trên thị trường có
sự thay đổi rất chậm chạp, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thấp.
Ví dụ:
Nhiều doanh nghiệp CNHT cho ngành cơng nghiệp ơ tơ Việt Nam cịn sử
dụng cơng nghệ lạc hậu nên giá thành sản xuất cao, khả năng cạnh tranh thấp nên
các doanh nghiệp lắp ráp ơ tơ thường tìm kiếm nguồn cung linh kiện phụ tùng từ
nước ngoài, nhất là những doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc những doanh
nghiệp FDI hướng vào xuất khẩu có khuynh hướng dùng linh kiện và nguyên vật
liệu nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác sản xuất.
Khả năng nghiên cứu thiết kế phát triển sản phẩm mới của các doanh nghiệp
CNHT Việt Nam còn rất hạn chế. Đại bộ phận sản phẩm do các doanh nghiệp
Việt Nam sản xuất theo mẫu mã hoặc nhái lại mẫu mã của nước ngoài. Thực
trạng này có thể được lý giải là do hầu hết các doanh nghiệp CNHT Việt Nam
khơng có bộ phận nghiên cứu phát triển, đội ngũ kỹ sư nghiên cứu thiết kế phát
triển sản phẩm mới rất thiếu và yếu, thiếu trang thiết bị thí nghiệm hiện đại và chi
phí đầu tư cho hoạt động này thấp(4).

2.2. Giải pháp
1. Máy móc thiết bị là một trong những yếu tố tham gia trực tiếp của q
trình sản xuất chính vì thế việc hiện đại hố máy móc thiết bị hay đổi mới cơng
nghệ là hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp muốn tồn tại và phát triển được cần phải xây dựng cho mình một kế
hoạch đổi mới công nghệ. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho
8


phép nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản
phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên

vật liệu. Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh , mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng
trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiến bộ khoa học công
nghệ, đổi mới công nghệ thực sự là hướng đi đúng đắn của một doanh nghiệp
công nghiệp giàu tiềm năng(5).
2. Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết
chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ được coi là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng và lợi thế cạnh tranh, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững. Thực hiện tốt khâu đột phá này sẽ làm tăng tiềm lực và sức mạnh của quốc
gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, quyết định đến thành công của việc xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng.
Hiện nay, tồn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất
hiện và ngày càng có nhiều ảnh hưởng, thúc đẩy sự phân cơng lao động sâu sắc
và hình thành các chuỗi giá trị tồn cầu; cạnh tranh kinh tế diễn ra quyết liệt và
mỗi quốc gia phải dành cho mình ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó. Trong đó,
nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành lợi thế cạnh
tranh mạnh mẽ, năng động trong quá trình phát triển kinh tế; là nhân tố làm chuyển
dịch lợi thế so sánh giữa các quốc gia.
Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thành cơng cần có các chính
sách hợp lý. Nhà nước cần chú trọng đầu tư đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng và phát
triển nguồn nhân lực một cách tổng thể, mang tính chiến lược lâu dài, nhằm xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có cơ cấu, chất lượng hợp lý, đủ năng lực,
trình độ chun mơn và phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế(6).
3. Tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài: Sự hợp tác giữa
doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài được nhận định sẽ mang lại
lợi ích lớn dựa trên khai thác thế mạnh của mỗi bên. Đối với doanh nghiệp nước

ngoài, đây là cách khai thác thị trường tiềm năng với chi phí thấp nhất, quảng bá
và nâng tầm ảnh hưởng thương hiệu trên phạm vi toàn cầu. Đối với doanh nghiệp
trong nước, đây là cơ hội để khẳng định năng lực, giá trị thương hiệu, tiếp cận với
nguồn lực tài chính mới, cơng nghệ và nguồn ngun liệu chất lượng. Đặc biệt,
việc hợp tác thương hiệu sẽ giúp doanh nghiệp Việt cho ra đời những dịch vụ sản
phẩm mới có chất lượng tốt hơn thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, tăng vị
thế cạnh tranh trên thị trường thế giới.
9


Sự hợp tác với doanh nghiệp nước ngồi cịn là thước đo đánh giá sự phát
triển, tiến bộ của các doanh nghiệp trong nước với nhịp độ của thế giới. Các doanh
nghiệp Việt đã đáp ứng được các nhu cầu, đòi hỏi khắt khe của đối tác. Đây là
tiền đề tốt để các doanh nghiệp trong nước hội nhập quốc tế(7).
4. Đẩy mạnh CNH – HĐH nền kinh tế quốc dân: Ngày nay, trên thế giới,
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão, nhiều cơng
nghệ mới ra đời, trong đó cơng nghệ thơng tin phát triển rất nhanh, nó đã và sẽ
tiếp tục giữ vai trò tổng hợp trong sự tác động của con người đối với quá trình sản
xuất và các hoạt động khác, đồng thời nó cũng đóng vai trị chuyển đổi một thời
đại phát triển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào tri thức. Và nền
kinh tế dựa vào tri thức đến lượt nó lại mở đường cho các nền kinh tế đang phát
triển tiếp nhận công nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin để cơ cấu lại nền kinh
tế coi phát triển công nghệ thông tin là hướng ưu tiên hàng đầu để hội nhập kinh
tế quốc tế, thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn thông qua các hoạt động tiếp
nhận chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, vốn và tri thức kinh doanh, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến. Một số định hướng chủ yếu thực hiện CNH, HĐH gắn với phát
triển kinh tế tri thức:
Thứ nhất, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn:
- Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng sản
phẩm hàng hóa, tỷ suất hàng hóa, chất lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh

cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển
dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng chuyên hóa tập
trung. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thơn. Thúc
đẩy q trình đơ thị hóa nơng thơn phù hợp với điều kiện của từng vùng.
- Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng
sản xuất và đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Xây dựng nông
thôn mới theo hướng dân chủ, cơng bằng, nơng dân có cuộc sống no đủ, có đời
sống văn hóa lành mạnh, có môi trường sạch.
Thứ hai, phát triển kinh tế vùng:
- Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng
có khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo động lực lan tỏa đến các vùng khác trong
nước.
10


- Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát
triển tổng thể của cả nước và tạo các mối liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và
trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, đưa vào lợi thế phát triển
của mỗi vùng.
- Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự
nhiên cho phép tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập... Đồng thời, có cơ chế chính
sách để tạo điều kiện cho các vùng cịn nhiều khó khăn phát huy được tiềm năng
của mình để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, các vùng Tây
Nguyên Tây Nam và Tây Bắc.
Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ:
- Khuyến khích phát triển cơng nghiệp cơng nghệ cao, công nghệ chế tác,

công nghiệp phần mềm, công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản
phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Phát triển một số khu kinh tế mở và
đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển
mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất
tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập
đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
- Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong
và ngoài nước để xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển công
nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Hoàn chỉnh một
bước cơ bản mạng lưới giao thơng, thủy lợi, cấp thốt nước... Tăng nhanh năng
lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thơng.
- Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ.
Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm
năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng
tốt thời cơ hội nhập kinh tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ,
đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, mở
mang các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí
tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ ngân
hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh
tế quốc tế.
Nhà nước kiểm sốt chặt chẽ độc quyền và tạo mơi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên
thị trường dịch vụ.
11


Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu

phát triển: Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình
CNH, HĐH rút ngắn. Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực
nước ta để đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành
công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững(8).

12


KẾT LUẬN
Như vậy, quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trị to lớn của nó đem lại
những tiến bộ vượt bậc và thành tựu kinh tế cho chủ nghĩa tư bản. Nước ta nói
riêng và các nước xã hội chủ nghĩa nói chung cần nỗ lực khơng ngừng trên con
đường của mình để xây dựng xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Riêng nước ta, đang
trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ chế độ phong kiến bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa với xuất phát điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu là dựa vào
nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải học tập những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản
đã được trong đó quan tâm đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản của nó là giá trị
thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.
Do trình độ bản thân cịn nhiều hạn chế và bước đầu áp dụng lý luận vào
thực tiễn nên bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế trong
q trình viết bài. Em rất mong nhận được sự đóng góp q báu của thầy cơ để
bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Chính trị
- QPAN - GDTC trường, đặc biệt cho em gửi tới cô Lê Thị Huyền lời biết ơn sâu
sắc đã đã tạo điều kiện để em được nghiên cứu đề tài.

13



TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1), (2), (3) Bộ Giáo dục và đào tạo (2021), Giáo trình Kinh tế chính trị MácLênin (Dành cho bậc đại học không chuyên ngành lý luận chính trị) NXB Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
(4) />(5) />(6) />(7) />(8) />
14



×