ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
*****
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁCLÊNIN 1
Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích tính tất yếu và đặc trưng của kinh tế thị trường
định hướng xã hội ở Việt Nam? Từ đó đưa ra thực trạng và giải pháp để phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?”
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Anh
Mã sinh viên: 72DCKT20307
Lớp: 72DCKT22
Khóa: 72 (2021-2025)
Giảng viên hướng dẫn: TS. Trần Thị Tâm
HÀ NỘI – 2022
1
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................3
NỘI DUNG......................................................................................................................4
I. TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ............................................................................4
1. Tính tất yếu ...........................................................................................................4
2. Tính đặc trưng .......................................................................................................6
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN ..............................................................................8
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam .........................................................................8
2. Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam .12
KẾT LUẬN ...................................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 16
2
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề kinh tế thị trường với CNXH là một vấn đề lớn, là điểm then chốt trong lí luận
về CNXH. Vấn đề đó khơng chỉ có ý nghĩa lí luận mà cịn có nghĩa thực tiễn rất quan
trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Sau hơn 10 năm đổi mới từ nền kinh tế hàng hóa sang nền kinh tế thi trường chúng ta
đã thu đc những kết quả khả quan. Đó là: mức sống của nhân dân tăng lên rõ rệt. Các
loại hàng hóa, dịch vụ được đa dạng hóa, đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi tích
cực. Điều đó là một minh chứng thuyết phục nhất cho đường lối, chính sách của Đảng,
của Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn những quan niệm sai lạc đã được hình
thành và tồn tại rất lâu từ trước đến nay trong lí luận về CNXH là cho rằng: CNXH và
kinh tế thị trường có mâu thuẫn với nhau và khơng cùng tồn tại song song được. Dựa
trên quan điểm này không ít nững người dao động về ý chí hoặc bất mãn về chính trị
đã cho rằng, khơng thể nào kết hợp kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Vậy
nên, cần phải nêu rõ và chưng minh cho mọi người cùng hiểu.
Xuất phát tự sự nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam nên tác giả xin chọn đề tài: “Tính tất yếu và đặc trưng của kinh tế thị
trường định hướng xã hội từ đó đưa ra thực trạng, giải pháp để phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.”
3
NỘI DUNG
I. TÍNH TẤT YẾU VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tính tất yếu
1.1. Thứ nhất, phải nhấn mạnh rằng: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
là phù hợp với tính quy luật phát triển khách quan. Chúng ta thấy rằng, kinh tế thị
trường bản chất là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa, hay nói một cách
khác, kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định, tất yếu sẽ chuyển sang
kinh tế thị trường; nó là quy luật phát triển tất yếu khách quan, nằm ngoài với suy nghĩ
chủ quan của con người. Cũng giống như sâu kén phát triển tới một thời điểm sẽ lột
xác thành bướm ngài.
Nhìn lại lịch sử, Việt Nam chúng ta vốn đã hình thành nền kinh tế hàng hóa từ lâu,
cuối thời Phong kiến rồi sang thời Pháp thuộc và giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, nền
kinh tế hàng hóa từng bước phát triển. Do vậy, chúng ta có nền tảng kinh tế hàng
hóa.Hơn nữa, chúng ta sẵn có các điều kiện thúc đẩy, phát triển Kinh tế hàng hóa ( như
: thị trường cung – cầu, thị trường lao động, vị trí địa lý, tài nguyên…).
Chúng ta lưu ý rằng, kinh tế thị trường trong mỗi hình thái kinh tế xã hội cụ thể , phải
chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị. Nói một cách đơn giản, nó sẽ phát
triển theo các định hướng của Nhà nước thống trị. Trong lịch sử, đã sớm có kiểu mơ
hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nó được coi là cơng cụ, phương tiện phát
triển kinh tế của các nước tư bản, đảm bảo quyền lợi cho bộ phận giai cấp thống trị là
giai cấp tư sản.
Còn, Việt Nam đang theo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước của
dân, do dân và vì dân; với hệ tiêu chí “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh”, dĩ nhiên, sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp
với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.
Mặc khác, xét về tiến trình phát triển, lồi người sẽ tuần tự phát triển từ : CSNT –
CHNL – PK – TBCN – XHCN (giai đoạn đầu của XHCS). Việt Nam quá độ lên
CNXH bỏ qua TBCN, Cho nên việc, bỏ qua giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm tình hình ở Việt Nam.
1.2. Thứ hai, về mặt kinh tế, kinh tế thị trường định hướng XHCN có tính ưu việt
trong thúc đẩy kinh tế. Kinh tế thị trường là một thành tựu phát triển văn minh của
4
nhân loại trong sản xuất và trao đổi sản phẩm. Phát triển kinh tế thị trường có nhiều ưu
việt như :
Dưới tác động của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh ; sẽ phân bổ nguồn
lực hiệu quả. Ví dụ như, sinh viên đi học xa, có nhu cầu thuê nhà trọ. Quy luật
cung cầu, sẽ thúc đẩy việc hình thành những người sở hữu đất xây nhà trọ cho
sinh viên thuê, mà không cần nhà nước phải ra chính sách kêu gọi. Quy luật
cạnh tranh sẽ hình thành giá th nhà trung bình có thể chấp nhận được của xã
hội.
Ưu việt thứ hai của kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh và hiệu quả cao. kích thích tiến bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng
cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm. Đơn cử
như sản xuất điện thoại chẳng hạn, tác động của cơ chế thị trường, các nhà sản
xuất điện thoại phải luôn cải tiến mẫu mã, đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các đối thủ khác. Ngoài
ra, nếu so sánh nền kinh tế bao cấp trước kia với nền kinh tế thị trường hiện
nay thấy rằng, trong kinh tế thị trường chất lượng hàng hóa tốt, số lượng hàng
hóa rất đa dạng, phong phú hơn rất nhiều, chính là tác động tích cực từ quy luật
cạnh tranh, cung cầu mang lại. Kinh tế thị trường có rất nhiều ưu việt và là công
cụ, phương tiện để thúc đẩy lực lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những khuyết tật và thất bại
của trường (như độc quyền, ô nhiễm môi trường, cạnh tranh không lành mạnh,
hàng giả, hàng nhái…) nên cần có sự can thiệp của Nhà nước.
1.3. Thứ ba, về mặt xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân mong muốn một xã hội dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự khác biệt cơ bản giữa nhà nước Việt Nam với các nhà nước TBCN là nhà nước
chúng ta được hình thành từ cuộc cách mạng vơ sản, cuộc cách mạng đó là do nhân
dân thực hiện. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cịn cuộc
cách mạng tư sản của các nước TBCN là do giai cấp tư sản thực hiện và nhà nước
TBCN đảm bảo quyền lợi thiết thực cho giai cấp tư sản là giai cấp thống trị. Với đặc
điểm bản chất nhà nước này, chúng ta khơng thể lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa, chỉ có thể lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa mới phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đông đảo nhân dân lao động về một
xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể xem phát triển
KTTT định hướng XHCN là bước đi quan trọng và tất yếu của sự phát triển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn, là bước quá độ để đi lên CNXH.
5
Tóm lại, Sự tồn tại của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một tất yếu
khách quan, vì 3 lý do :
Một là, về mặt quy luật phát triển, mơ hình kinh tế thị trường phù hợp với quy luật
phát triển khách quan. (Kinh tế hàng hóa phát triển tới một trình độ tất yếu sẽ chuyển
sang kinh tế thị trường)
Hai là, về mặt kinh tế, mơ hình kinh tế thị trường có tính ưu việt trong phát triển kinh
tế so với các mơ hình kinh tế trước kia.
Ba là, Về mặt xã hội, mơ hình này này phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong
muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng văn minh. (đây là đặc trưng xã hội
XHCN mà chúng ta đang hướng tới)
2. Tính đặc trưng
2.1. Về mục tiêu:
Để có thể phân biệt nền kinh tế thị trường của nước ta so với nề kinh tế thị trường
khác phải nói đến mục đích chính trị mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và nhân dân đã
chọn. Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nhằm
thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Làm cho dân giàu: Nội dung căn bản của dân giàu là mức bình quân GDP đầu người
tăng nhanh trong một thời gian ngắn và khoảng cách giàu, nghèo trong xã hội ngày càng
được thu hẹp.
Làm cho nước mạnh: Thể hiện ở mức đóng góp to lớn của nền kinh tế thị trường cho
ngân sách quốc gia; ở sự gia tăng ngành kinh tế mũi nhọn; ở sự sử dụng tiết kiệm, có
hiệu quả các nguồn tài nguyên quốc gia; ở sự bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ các bí
mật quốc gia về tiềm lực kinh tế, khoa học, công nghệ và an ninh, quốc phịng.
Làm cho xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh: Thể hiện ở việc xử lý các quan hệ lợi
ích ngay trong nội bộ nền kinh tế thị trường, ở đó việc góp phần to lớn vào giải quyết
các vấn đề xã hội, ở việc cung ứng các hàng hóa và dịch vụ có giá trị khơng chỉ về kinh
tế mà cịn có giá trị cao về văn hóa, xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu. Phát triển kinh tế thị
trường để phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất; xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội nâng cao đời sống nhân dân bằng việc đẩy
mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp
đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Kinh tế thị trường bản thân nó là
nội lực thúc đẩy tiến trình kinh tế – xã hội. Mục tiêu này thể hiện rõ mục đích phát triển
6
kinh tế thị trường là vì con người, nâng cao đời sống nhân dân, mọi người điều được
hưởng thụ thành quả của sự phát triển.
2.2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
Quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại
nhiều hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Theo quan điểm tại đại
hội XII của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay có bốn thành phần kinh tế gồm: thành
phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân và thành
phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Các thành phần kinh tế độc lập với nhau bình đẳng với nhau trước pháp luật. Nhà
nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển.
Ngoài ra mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng bên
cạnh tính thống nhất giữa các thành phần kinh tế cũng có sự khác nhau thậm chí có thể
có mẫu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường ở nước ta có khả năng phát triển theo
những hướng khác nhau. Các thành phần kinh tế khác nhau dựa trên các quan hệ sở hữu
khác nhau và thường đại diện cho những giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Do đó
trong q trình cùng phát triển chúng đan xen đấu tranh mâu thuẫn và phát triển theo
những khuynh hướng khác nhau. Vì vậy kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo là để
giữ vững định hướng xả hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế.
2.3. Về quan hệ quản lí nền kinh tế:
Nhà nước pháp quyền XHCN đại diện cho đa số nhân dân trong xã hội và phải bảo
vệ quyền lợi, lợi ích của nhân dân.
Quản lí nền kinh tế bằng pháp luật, bằng chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời
sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và khắc
phục những tiêu cực, hạn chế do cơ chế thị trường mang lại, bảo vệ lợi ích của nhân dân
và xã hội.
2.4. Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng:
Nền kinh tế luôn gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng
con người và thực tiễn tiến bộ, cơng bằng xã hội.
Nền kinh tế đó ln có sự gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội,
phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mọi người đều có cơ
hội và điều kiện phát triển toàn diện. Đây cũng là một trong những mục tiêu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự khác biệt so với kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa về việc phân cực giàu nghèo, phân hóa xã hội.
7
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Sau rất nhiều thăng trầm trong lịch sử, đến nay có thể khẳng định rằng nền kinh tế
Việt Nam là một nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển. Tuy nhiên
còn phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và các nguồn đầu tư vốn của
nước ngoài.
Hệ thống kinh tế Việt Nam là một hệ thống kinh tế hỗn hợp. Khi mà nền kinh tế thị
trường đang ngày càng phát triển và thị trường hóa thì ta vẫn thấy sự can thiệp của Nhà
nước vào nền kinh tế còn khá cao. Hiện nay, Nhà nước vẫn thực hiện việc điều chỉnh
giá cả kiểu hành chính với một số mặt hàng thiết yếu như yêu cầu các công ty, doanh
nghiệp điều chỉnh mức đầu tư, giá cả xăng dầu, kiểm sốt ngun vật liệu xây dựng như
sắt, thép, xi măng,…
Chính phủ Việt Nam tự xã định và nhận định rằng Việt Nam là một kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường. Điều này đã được một số nền kinh tế thị trường tiên tiến công
nhận, nhưng cho đến nay Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản vẫn chưa thừa nhận và xác định Việt
Nam là một nước có nền kinh tế thị trường.
Việt Nam là một nước có nhiều thành phần kinh tế như: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước,...Và
những khu vực này có tốc độ tăng trưởng khơng giống nhau khi mà nền kinh tế Nhà
nước và nền kinh tế tập thể tăng trưởng chậm thì nền kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư
nước ngồi tăng khá nhanh.Trong hội nghị trực tuyến vừa qua, Thủ tướng Chính Phủ
Nguyễn Xuân Phúc đã nhận định rằng: Sau 35 năm đổi mới kinh tế, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu nhất định có ý nghĩa lịch sử to lớn, thế và lực đã mạnh hơn nhiều,
quy mô và tiềm lực kinh tế ngày càng tăng lên và được mở rộng nhanh mạnh và chắc
chắn,...
Hiện nay, quy mô nền kinh tế Việt Nam đang nằm trong top 40 nền kinh tế lớn mạnh
nhất thế giới và đứng ở vị trí thứ 4 trong ASEAN. Với năm vừa qua 2020, GDP đầu
người đạt mức 3.500USD/năm đã đưa Việt Nam vươn lên top 10 quốc gia tăng trường
cao nhất thế giới, là 1 trong về 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới hiện nay.
Có thể nói, thực chất của tiến trình đổi mới của nước ta trong 35 năm qua (tính từ đại
hội thứ VI của Đảng năm 1986) về mặt kinh tế là việc tìm kiếm mơ hình phát triển kinh
8
tế tối ưu cho đất nước bằng việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan
liêu, bao cấp (tồn tại trước năm 1986) sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.[1] Đi kèm với đó là sự chuyển đổi thể chế kinh tế từ thể chế của nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung dựa trên nền tảng công hữu sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng đa sở hữu. Tiến trình đổi mới tất yếu được
thực hiện bằng sự dân chủ hóa mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta đã chính thức xác định mơ hình kinh tế
tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý.
Tinh thần đó được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp khi Hiến pháp năm 1992 được
sửa đổi, bổ sung vào năm 2001. Chủ trương có tính chiến lược này cũng được kế thừa
nhất quán trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII và XIII của
Đảng cũng như trong Hiến pháp năm 2013.
Riêng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kể từ
năm 1986 đến nay, Trung ương Đảng đã hai lần ban hành Nghị quyết chuyên đề về chủ
đề này, đó là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị
lần thứ Năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về “Hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo tinh thần các Nghị quyết này, nội dung
cốt lõi của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là các quy định
pháp luật về sở hữu, quyền tài sản, pháp luật về đầu tư, kinh doanh (nhằm phát triển các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp), pháp luật về các loại thị trường (hàng
hóa, dịch vụ, lao động, bất động sản, khoa học và cơng nghệ, tài chính v.v.), pháp luật
về bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường (nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế với
bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ
mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu), pháp luật về giải quyết tranh chấp và xử
lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế.
Theo đúng định hướng của Đảng, trong suốt 35 năm qua, trên cơ sở vừa tìm tịi từ
thực tiễn cải cách, đổi mới, phát triển kinh tế, tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các
quốc gia có nền kinh tế thị trường trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, Việt Nam
đã rất coi trọng công tác xây dựng thể chế phục vụ phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cho tới nay, đúng như đánh giá của Đại hội XIII của Đảng, “hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây
9
dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các
loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải
thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Doanh nghiệp
nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày
càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước
đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là
bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”.[2] Bản thân các chỉ số về tăng trưởng kinh
tế, kim ngạch xuất nhập khẩu, lượng vốn đầu tư nước ngoài được thu hút hàng năm,
cùng mỗi năm khoảng trên 100 ngàn doanh nghiệp được thành lập mới là những con số
biết nói minh chứng cho những thành tựu của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua. Trong từng lĩnh vực pháp luật cụ
thể, có thể thấy, các đạo luật điều chỉnh những quan hệ kinh tế, dân sự cơ bản nhất của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ban hành, trong số đó, phải
kể tới các đạo luật sau: (1) Các đạo luật quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản
của người dân, doanh nghiệp, các đạo luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, bảo đảm quyền
tự do hợp đồng của người dân, doanh nghiệp như Bộ luật dân sự,[3] Luật Đất đai,[4]
Luật Nhà ở[5], Luật Sở hữu trí tuệ[6], Luật Thương mại[7] v.v; (2) Các đạo luật quy
định điều chỉnh các hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế như Luật Doanh
nghiệp[8], Luật Đầu tư[9] v.v; (3) Các đạo luật về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng như Luật Cạnh tranh[10], Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng[11], Luật
An toàn thực phẩm[12], Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa[13]…; (4) Các đạo luật
về một số loại thị trường quan trọng như thị trường lao động, thị trường đất đai, thị
trường bất động sản, thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường tín dụng
như Bộ luật lao động, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản[14], Luật
Thương mại, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khốn…; (5) Các đạo luật về an
sinh xã hội và bảo vệ môi trường như Luật Bảo hiểm xã hội[15], Luật Bảo vệ môi
trường[16]…; (6) Các đạo luật về giải quyết tranh chấp và phá sản đã được ban hành,
trong đó phải kể tới Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng tài thương mại năm
2010, Luật Phá sản năm 2014[17]. Bên cạnh đó, các đạo luật về xử lý vi phạm trong lĩnh
vực kinh tế cũng được ban hành trong đó phải kể tới Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm
2020).
Điều đặc biệt là, tư duy xây dựng pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ,
trong đó có những thay đổi mang tính đột phá. Chẳng hạn, chuyển từ “tự do kinh doanh
theo quy định của pháp luật”[18] (và chỉ dành riêng quyền tự do kinh doanh đó cho cơng
dân) sang “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”[19] (và
10
dành cho tất cả mọi người). Điều này cũng đồng nghĩa với việc, không gian hoạt động
kinh doanh, đầu tư của người dân, doanh nghiệp từ “trong khuôn khổ do pháp luật quy
định” sang không gian rộng lớn hơn nhiều, thỏa sức sáng tạo, chỉ ngoại trừ những ngành,
lĩnh vực pháp luật cấm. Đi kèm với đó là việc Nhà nước khơng cố gắng tìm ra các ngành,
nghề, lĩnh vực kinh doanh để “cho phép” người dân, doanh nghiệp tiến hành đầu tư,
kinh doanh, điều vừa bó buộc tiến trình giải phóng lực lượng sản xuất vốn cịn non trẻ
ở Việt Nam lại vừa không khả thi về mặt lập pháp, không thực sự phù hợp với bản chất
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân của Nhà nước, không thực sự với quan điểm,
tư tưởng, giá trị nền tảng, cốt lõi trong chỉ đạo cách mạng của Đảng ta là cội nguồn mọi
sức mạnh của Đảng, Nhà nước ta, chính quyền của ta là từ Nhân dân. Chúng ta cũng cần
lưu ý tới một thực tế là khơng một nhà nước nào, dù có trình độ hiện đại đến đâu có thể
giỏi hơn trí tuệ của tồn thể nhân dân - người chủ đích thực của Nhà nước.
Các nỗ lực trong cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất
hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong những năm qua, nhất là kể từ khi
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
thu được kết quả rất đáng ghi nhận.[20] Theo đó, các bộ, ngành, địa phương và cộng
đồng doanh nghiệp đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và ngày càng chủ động, tích cực triển khai các giải
pháp trong phạm vi trách nhiệm của mình. Nhờ đó, hàng nghìn rào cản đối với hoạt
động đầu tư, kinh doanh đã được dỡ bỏ; nhiều yếu tố, vấn đề về xã hội, quản lý, quản
trị liên quan tới chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được
chú trọng chỉ đạo giải quyết. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả các bảng xếp hạng
quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Mặc dù là nước đang phát triển có mức thu
nhập trung bình thấp (thứ 127), nhưng nước ta vẫn đạt vị trí 70 về mơi trường kinh doanh
năm 2019 (tăng 20 bậc so với năm 2015) và thứ 67 về Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0
(tăng 10 bậc so với năm 2018). Trong 5 năm qua, Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12
bậc, xếp thứ 63; Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, xếp thứ 39; Đổi mới sáng tạo toàn cầu
tăng 17 bậc, xếp thứ 42. Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc, từ thứ
88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020. Ngồi ra, khơng ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta
được ghi nhận tiến bộ vượt bậc như: Tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, xếp thứ 27; Ứng
dụng công nghệ thông tin tăng 54 bậc, xếp thứ 41, v.v... Năm 2020, cùng với nỗ lực
phòng chống, kiểm sốt tốt đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã
chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp
khắc phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh
thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội.[21]
11
Mặc dù vậy, khách quan mà nói, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa cần tiếp tục được cải cách và hồn tồn có thể
được cải cách. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “…Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập… Chất lượng luật pháp và
chính sách trên một số lĩnh vực cịn thấp. Mơi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự
thơng thống, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa
được quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo…
Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ cơng cịn lúng túng.
Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và
phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố
sản xuất… việc bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại
quốc tế còn bất cập.”[22] Thực tế cho thấy, nhiều quy định về đất đai, đăng ký tài sản,
giao dịch điện tử, thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm an
toàn thực phẩm, bảo vệ dữ liệu cá nhân, các quy định điều chỉnh các mơ hình kinh doanh
mới trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quy định về giải quyết
tranh chấp thương mại v.v. đang rất cần được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
2. Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
+Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
-Thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ là một trong những điều kiện cơ bản để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát
triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần
kinh tế.
-Cùng với việc đổi mới, củng cố kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, việc thừa
nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận
thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Tất cả các
thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí, quy mơ, tỷ trọng,
trình độ có khác nhau nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Mở rộng phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường
- Phân công lao động xã hội là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy
mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố
lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo
hướng chun mơn hóa, hợp tá hóa nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều
12
ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho
người lao động.
- Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngồi nhằm gắn phân cơng lao động trong nước
với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Nhờ đó mà thị trường trong nước từng bước được mở rộng, tiềm năng về lao
động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai thác có hiệu quả.
- Cần phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị
trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
- Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ; phát triển vững chắc thị trường
tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu
hồn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử dụng đất
và bất động sản gắn liền với đất; phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu
vực kinh tế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ…
- Điều này sẽ bảo đảm cho việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu
ra của quá trình sản xuất phù hợp với nhu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
+Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và cơng nghệ, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong
cạnh tranh nếu thường xuyên đổi mới cơng nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng các
thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ vào q trình sản xuất
và lưu thơng hàng hóa
- So với thế giới, trình độ cơng nghệ sản xuất của Việt Nam cịn thấp kém,
khơng đồng bộ, do đó, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nước ta so với hàng hóa
nước ngồi trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém.
- Bởi vậy, để phát triển kinh tế hàng hóa, chúng ta phải đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng
vai trị quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã q
lạc hậu, khơng đồng bộ, mất cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết
13
tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngồi, cản trở phát triển kinh tế
hàng hóa ở mọi miền đất nước
-Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết
cấu đó. Trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số
yếu tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, hệ
thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm…
+ Giữ vững ổn định chính trị, hồn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới các chính sách
tài chính, tiền tệ, giá cả
- Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển.
Nó là điều kiện để các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài yên
tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao vai trò hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
- Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nó tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả mọi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp
chỉ có thể làm giàu trên cơ sở tuân thủ luật pháp.
- Đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy
sản xuất phát triển; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm
quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần
khống chế và kiểm sốt lạm phát; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và
tiêu dùng.
+Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ cán bộ
quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi
- Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mơ phải được kiện tồn phù hợp với nhu
cầu kinh tế thị trường, bao gồm: điều tiết bằng chiến lược và kế hoạch kinh tế,
pháp luật, chính sách và các địn bẩy kinh tế, hành chính, giáo dục, khuyến khích,
hỗ trợ và cả bằng răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà
nước…
- Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh tế (ở
tầm vĩ mô và vi mô) tương ứng. Chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh sự nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh
14
doanh cho phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó
phải có năng lực chun mơn giỏi, thích ứng mau lẹ với cơ chế thị trường, dám
chịu trách nhiệm, chấp nhận rủi ro và trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta đã chọn.
- Song song với đào tạo và đào tạo lại, cần phải có phương hướng
sử dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích hơn nữa
việc khơng ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý, tài năng kinh
doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được chú ý bảo đảm cả ở phạm
vi vĩ mô lẫn vi mô, cả cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh.
+Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
-Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại, chúng ta phải đa dạng
hóa hình thức, đa phương hóa đối tác; phải qn triệt ngun tắc đơi bên cùng có
lợi, khơng can thiệp vào nội bộ của nhau và khơng phân biệt chế độ chính trị –
xã hội; cải cách cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, thu hút mạnh vốn và đầu tư nước
ngoài, thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển.
-Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau, sẽ tạo nên
sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
KẾT LUẬN
Ngày nay trên con đường đi lên CNXH, việc nhận thức đúng đắn về kinh tế
thị trường và cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước do
ĐCS Việt nam lãnh đạo tức là tơ lại kinh tế thị trường định hướng XHCN
là một tất yếu khách quan của lịch sử.Và không nên đồng nhất kinh tế thị
trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa. cần hiểu rằng nền kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt nam về thực chất là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Từ đó có thể khẳng định rằng, trong q trình đổi mới
chúng ta chuyển kinh tế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Là có cơ sở lý luận và thực tiễn là phù hợp với điều kiện
15
trong nước và quốc tế trong thời điểm lịch sử hiện nay.
Tuy nhiên, những tệ nạn kinh tế – xã hội nảy sinh từ kinh tế thị trường đang
còn là những vấn đề nhức nhối, cần có những biện pháp ngăn chặn hữu
hiệu. Phát triển kinh tế thị trường trong thời kỳ q độ ln phải gắn liền
với lợi ích của nhân dân, đảm bảo công bằng xã hội, để không xa rời
CNXH và không làm chệch hướng định hướng XHCN của nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />5. />6. />
16