Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lênin khi bàn về vai trò của yếu tố chính trị, tinh thần
của quân đội trong chiến tranh đà khẳng định: "Trong
mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào
tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trờng"
[7, 147] . Ngời cũng chỉ rõ "ở đâu mà công tác chính trị
trong quân đội, công tác của các chính uỷ làm đợc chu đáo
nhất ở đây không có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội,
quân đội giữ đợc trật tự tốt hơn và tinh thần của họ cũng cao
hơn. ở đấy thu đợc nhiều thắng lợi hơn" [6, 66]. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đà từng khẳng định "Chính trị là vận mệnh của
quân đội cách mệnh quân sự không có chính trị là quân
sự mù" [1, 73]. Từ khi thành lập quân đội cho đến nay Đảng
ta luôn khẳng định: Tiến hành CTĐ, CTCT là nguyên tắc
trong công cuộc xây dựng lực lợng vũ trang cách mạng của
Đảng. Thực tế cách mạng Vịêt Nam đà chứng minh vai trò to
lớn của hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị đối với sự
trởng thành, lớn mạnh và khả năng giành thắng lợi của quân
đội ta. Hoạt động CTĐ, CTCT đạt hiệu quả đến đâu phụ
thuộc rất lớn vào chủ thể tiến hành, phụ thuộc vào đội ngũ
những ngời cán bộ chính trị. Để ngời cán bộ chính trị có thể
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình đòi hỏi ngời cán
bộ chính trị đó phải có đủ khả năng tiến hành hoạt động
CTĐ, CTCT có hiệu quả cao. Khả năng ấy là năng lực tổ chức
tiến hành CTĐ, CTCT .
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nớc ta đà bớc vào thời kỳ
mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xà hội - Thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc gắn với phát
triển kinh tế tri thức diễn ra trong bối cảnh cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra hết sức quyết liệt.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đợc nhân dân ta tiến hành
đồng thời với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xà hội. Đó là sự
nghiệp đấu tranh chống lại những hành động phá hoại của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Trong cuộc đấu
tranh ấy, chúng đà và đang thực hiện đẩy mạnh việc lợi
dụng những mặt trái của kinh tế thị trờng tạo ra "sự tự diễn
biến hoà bình" chống phá ta một cách toàn diện. Đặc biệt
với quân đội ta, chúng ráo riết thực hiện mục tiêu "phi chính
trị hoá quân đội" tách quân đội ra khỏi sự lÃnh đạo của
Đảng nhằm làm cho quân đội ta mất phơng hớng chiến đấu
và sai lầm trong việc xác định kẻ thù. Tình hình đó đòi hỏi
quân đội ta phải tăng cờng hơn nữa hoạt động CTĐ, CTCT
nhằm giữ vững lập trờng, bản chất giai cấp công nhân, làm
cho quân đội tuyệt đối tin tởng, phục tùng sự lÃnh đạo của
Đảng, thực sự trở thành lực lợng chính trị , đội quân chiến
đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nớc xà hội chủ nghĩa
và nhân dân . Hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội đòi hỏi
phải đợc thực hiện tốt ở tất cả các cấp, các đơn vị và với mọi
quân nhân nhng trớc hết là ở cấp đại đội. Năng lực tổ chức
tiến hành CTĐ, CTCT trong quân đội của đội ngũ chính trị
viên đại đội trực tiếp quyết định hiệu quả hoạt động CTĐ,
CTCT của đại đội, từ đó quyết định đến kết quả hoàn
thành nhiệm vụ của đại đội. Những năm qua, tríc sù biÕn
động mạnh mẽ, phức tạp của tình hình thế giới, trong nớc,
nhận rõ âm mu thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc
các thế lực phản động trong nớc và nhận rõ vai trò quan
trọng của hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, lÃnh đạo
Đảng, Nhà nớc đà có sự điều chỉnh, từng bớc hoàn thiện cơ
chế lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đặc biệt tới ngy
20 tháng 7 năm 2005 Bộ Chính trị đà ban hành Nghị quyết
số 51-NQ/TW Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lÃnh đạo
của Đảng, thực hiện chế độ một ngời chỉ huy gắn với thực
hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội nhân
dân Việt Nam. Các chính uỷ , chính trị viên là ngời chủ trì
về chính trị, chủ trì tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT của đơn
vị
Thực tế hiện nay, kết quả hoạt động CTĐ, CTCT nói
chung, năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT của chính trị
viên đại đội còn cha đáp ứng yêu cầu.Việc bồi dõng năng lực
tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT trở nên cấp thiết. Cơ sở 2 Học
viện Chính trị Quân sự trớc đây và trờng Sĩ quan chính
trị hiện nay - một nhà trờng đợc Đảng, Nhà nớc giao trọng
trách đào tạo đội ngũ chính trị viên đại đội. Hơn 50 năm
qua đợc sự chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ cuả Đảng, Nhà nớc và
các cơ quan hữu quan, nhà trờng đà đào tạo hàng nghìn
cán bộ chính trị hiện đang công tác ở khắp các đơn vị
trong toàn quân. Tuy nhiên, bên cạnh nhng thành tựu đà đạt
đợc, chất lợng đào tạo tại trờng cũng bộc lộ những hạn chế
nhất định, dẫn đến phẩm chất, năng lực nói chung, năng lực
tổ chức tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT nói riêng của đội ngũ
chính trị viên cha đáp ứng yêu cầu, ảnh hởng không nhỏ tới
chất lợng, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT nói riêng và kết quả
hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị nói chung. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên trong đó có nguyên
nhân xuất phát từ những hạn chế bất cập của quá trình đào
tạo, bồi dỡng năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT tại nhà trờng .
Trớc tình hình thế giới, trong nớc có nhiều biến chuyển
mạnh mẽ, phức tạp ảnh hởng không nhỏ tới nớc ta, trớc yêu cầu
nhiệm vụ mới của cách mạng, của quân đội, đặc biệt là yêu
cầu xây dựng quân đội về chính trị đà đòi hỏi các Học
viện, nhà trờng đào tạo cán bộ chính trị trong quân đội,
trong đó có Trờng sĩ quan Chính trị phải có sự đổi mới để
nâng cao hơn nữa chất lợng giáo dục đào tạo. Chính bối
cảnh đó đà thôi thúc tổ đề tài chúng tôi chọn ván đề bồi dỡng năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT cho học viên đào
tạo chính trị viên ở Trờng Sĩ quan Chính trị hiện nay để
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của vấn đề có liên quan
đến đề tài
Nâng cao năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT là vấn
đề lớn luôn đợc các cấp uỷ, các đồng chí lÃnh đạo Đảng, Nhà
nớc, quân đội và nhiều nhà khoa học quan tâm. Trong
những năm gần đây đà có một số công trình nghiên cứu có
liên quan đến vấn đề này:
- Nâng cao chất lợng đào tạo, bồi dỡng đội ngũ cán bộ
chính trị quân đội nhân dân ViƯt Nam trong thêi kú míi,
Nxb Q§ND,H.2000.
- Nâng cao năng lực CTĐ, CTCT của đội ngũ cán bộ
chính trị cấp phân đội ở các đơn vị bộ binh làm nhiệm vụ
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu hiện nay, đề tài do tiến sỹ
Tô Xuân Sinh làm chủ nhiệm, H.2001.
Ngoài ra còn có một số bài viết đợc đăng trên các tạp
chí lý luận. Từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, những
công trình trên đà đề cập đến những vấn đề cụ thể đợc
xác định. Tuy nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu, đề
cấp một cách toàn diện, hệ thống đến việc bồi dỡng năng lực
tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT cho học viên đào tạo chính trị
viên đại đội ở Trờng Sĩ quan Chính trị .
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn bồi dỡng năng lực tổ
chức tiến hành CTĐ, CTCT của học viên đào tạo chính trị viên
đại đội . Từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm góp
phần quan trọng bồi dỡng năng lực tổ chức tiến hành CTĐ,
CTCT cho đội ngũ chính trị viên đại đội.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT của
chính trị viên đại đội.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân dẫn
đến thực trạng tay nghề CTĐ, CTCT của chính trị viên đại
đội.
- Đề ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực tổ chức tiến
hành CTĐ, CTCT của chính trị viên đại đội.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tợng nghiên cứu của đề tài
Năng lực tổ chức tiến hành và việc bồi dơng năng lực
tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT cho HV đào tạo chính trị viên
đại đội là đối tợng nghiên cứu của đề tài tạo chính trị viên
đại đội.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là đối tợng học viên đào
tạo chính trị viên đại đội tại Học viện Chính trị Quân sự
trớc đây và Trờng Sĩ quan Chính trị hiện nay. Các khoá đào
tạo từ năm 2005 đến nay .
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên
cứu
Đề tài đợc thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ
nghĩa Mác Lênin, t tởng Hồ Chính Minh, quan điểm của
Đảng cộng sản ViƯt Nam vỊ x©y dùng con ngêi míi; vỊ x©y
dùng đội ngũ cán bộ của Đảng trong lực lợng vũ trang nhân
dân ; Các Nghị quyết của Đảng uỷ quân sự trung ơng, chỉ
thị của Bộ quốc phòng, Tổng cục Chính trị về xây dựng
quân đội và xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới.
Ngoài ra đề tài còn tham khảo kế thừa các kết quả của các
công trình nghiên cứu có liên quan về phẩm chất năng lực
của đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội.
Cơ sở thực tiễn của đề tài là thực trạng việc bồi dỡng
năng lực tổchức tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT của học viên
trờng Sĩ quan Chính trị, khảo sát về kết quả hoạt động
CTĐ, CTCT của học viên thực tập ở các đơn vị .
Phơng pháp cứu là dựa trên cơ sở phơng pháp luận của
chủ nghĩa Mác Lênin; sử dụng các phơng pháp lôgic lịch
sử, phân tích tổng hợp và ®iỊu tra x· héi häc .
6. ý nghÜa cđa ®Ị tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cho
lÃnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp trong nhà trờng về việc bồi dỡng năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT
cho học viên đào tạo chính trị viên đại đội. Đề tài cũng có
thể dung làm tài liệu tham khảo công tác nghiên cứu giảng
dạy và tổ chức hoạt động thực tiễn của các đơn vị học viên
của Nhà trờng.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm:
- Lời mở đầu
- 2 chơng, 4 tiết
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo
- Phụ lục
Chơng 1
lý
luận và thực tiễn hoạt động bồi dỡng năng lực tổ
chức tiến hành công tác đảng, công tác chính trị
cho Học Viên đào tạo chính trị viên đại đội
1.1 Năng lực tổ chức, tiến hành CTĐ, CTCT và các
yếu tố cấu thành
1.1.1 Khái niệm
Năng lực là khả năng của con ngêi khi thùc hiƯn c«ng
viƯc trong mét nghỊ nghiƯp, một lĩnh vực nhất định nào
đó.Năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT là khả năng quán
trịêt và vận dụng quan điểm của Đảng và giải quyết các vấn
đề thực tiễn của lĩnh vực CTĐ, CTCT. Đó là khả năng nắm
bắt, giải quyết các vấn đề về công tác tổ chức xây dựng
Đảng về chính trị, t tởng và tổ chức ; công tác vận động
quần chúng của Đảng trong quân đội ; công tác xây dựng
quân đội về chính trị và quán triệt sự lÃnh đạo của Đảng
trong mọi hoạt động của quân đội ; bảo đảm cho quân đội
giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, phát huy
sức mạnh chính trị, t tởng làm cơ sở cho sức mạnh tổng hợp
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nớc và nhân
dân giao cho.
Đối với ngời cán bộ chính trị cấp phân đội đòi hỏi phải
có kiến thức tổng hợp, toàn diện có năng lực tổ chức hoạt
động để hoàn thành tốt nhiệm vụ, chức trách đợc giao.
Năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT của học viên đào
tạo chính trị viên đại đội là khả năng quán triệt và tổ chức
thực hiện đờng lối chính sách, Chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, khả năng phát hiện,
phân tích, đánh giá và giải quyết các vấn đề về công tác t
tởng và công tác tổ chức ở đại đội theo cơng vị chức trách.
Đó là trình độ nhận thức, hiểu biết và thực hành công tác
xây dựng tổ chức Đảng ở đại đội vững mạnh về chính trị,
t tởng và tổ chức ; xây dựng con ngời và các tổ chức trong
đại đội; công tác xây dựng đại đội về chính trị và quán
triệt sự lÃnh đạo của tổ chức Đảng trong mọi nhiệm vụ của
đại đội ; bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị vững
mạnh trong mọi tình huống, đủ sức thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ đợc giao.
Bồi dỡng theo nghĩa chung nhất là giữ gìn và bồi bổ
làm tăng thêm trình độ kiến thức, năng lực hoạt động, phẩm
chất đạo đức và sức khoẻ cho con ngời.
Theo nghĩa đó, bồi dỡng năng lực tổ chức tiến hành
CTĐ, CTCT cho học viên đào tạo chính trị viên đại đội là một
quá trình truyền thụ và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm, rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo CTĐ, CTCT cho học viên một cách có hệ
thống; làm tăng thêm ở họ trình độ, kiến thức, năng lực hoạt
động CTĐ, CTCT trong sự hình thành, phát triển những
phẩm chất, nhân cách của chính trị viên đại đội.
1.1.2 Các yếu tố cơ bản cấu thành năng lực tổ
chức tiến hành CTĐ, CTCT của học viên đào tào chính
trị viên đại ®éi.
Là ngời cán bộ nói chung, ngời chính trị viên đại đội nói
riêng phải có đủ cả đức lẫn tài, trong đó đức là gốc, đức là
tài phải đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay và thể hiện ở
kết quả cuối cùng là hoàn thành nhiệm vụ đợc giao.
Phẩm chất chính trị và đạo đức là cái gốc của ngời
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thờng nói : "cũng nh sông
thì có nguồn mới có nớc, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Ngời cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lÃnh đạo đợc nhân dân... tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đà hủ hoá, xấu xa thì còn làm
nổi việc gì" [5, 253].
Yếu tố cơ bản đầu tiên hình thành nên năng lực tổ
chức tiến hành CTĐ, CTCT của ngời chính trị viên đại đội là
phẩm chất chính trị. Đây là phẩm chất và năng lực cần thiết
để chính trị viên đại đội làm tròn nhiệm vụ là ngời chủ trì
về chính trị, là phẩm chất cơ bản chủ đạo của ngời cán bộ,
là điều cốt lõi, là hạt nhân định hớng chính trị cho hoạt
động của ngời cán bộ lÃnh đạo. Chính trị viên đại đội phải
trung thành với lý tởng, với đờng lối đổi mới của Đảng, là ngời
có tinh thần triệt để cách mạng, kiên quyết đấu tranh cho
mục tiêu lý tởng của Đảng, là ngời có thái độ trung thực thật
thà với Đảng, có bản lĩnh chính trị vững vàng không dao
động trớc khó khăn, thử thách. Kiên quyết đấu tranh khắc
phục những biểu hiện thiếu lòng tin, dao động, do dự, dựa
dẫm, ỷ lại vào cấp trên.
Yếu tố thứ hai là phẩm chất đạo đức. Chính trị viên đại
đội phải mẫu mực về đạo đức lối sống, có tính kỷ luật, lµ
trung tâm đoàn kết và có tín nhiệm cao trong chi uỷ, chi bộ
và đơn vị. Suốt đời phấn đấu hy sinh cho mục tiêu lý tởng
của Đảng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, kết hợp hài
hoà quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể.
Chính trị viên đại đội phải nắm chức chức trách, nhiệm vụ
quyền hạn của mình, có lý tởng nghề nghiệp, có trách
nhiệm cao trong công việc, là ngời có nếp sống trong sạch,
lành mạnh, giản dị, khiêm tốn, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô t là ngời tin cậy yêu thơng con ngời, có ý thức tổ
chức kỷ luật nghiêm, có tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn
sàng chiến đầu cao, kiên quyết đấu tranh chống mọi âm
mu thủ đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ của các
thế lực thù địch.
Bên cạnh đó là yếu tố kiến thức, năng lực. Chính trị
viên đại đội cần có kiến thức năng lực toàn diện, đặc biệt
giỏi tiến hành CTĐ, CTCT. Đây là yếu tố quan trọng giúp
chính trị viên đại đội làm tốt hoạt động CTĐ, CTCT, giúp
nâng cao kiến thức năng lực hoạt động CTĐ, CTCT một cách
toàn diện. Đòi hỏi chính trị viên đại đội phải có trình độ
hiểu biết sâu sắc lý luận Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh,
nắm chắc các đờng lối chủ trơng của Đảng, chính sách và
pháp luật của nhà nớc, các nhiệm vụ chính trị, quân sự, chủ
trơng, phơng hớng nhiệm vụ CTĐ, CTCT. Chính trị viên là ngời
có năng lực chủ trì về chính trị, trực tiếp chỉ đạo tiến
hành CTĐ, CTCT và tham gia xây dựng tổ chức thực hiện các
kế hoạch công tác chung của đại đội.
Ngoài ra chính trị viên đại đội phải có tính Đảng, tính
nguyên tắc cao, có tác phong dân chủ, sâu s¸t, thùc tÕ, nãi
đi đôi với làm. Phơng pháp tác phong công tác tốt sẽ góp
phần củng cố lập trờng quan điểm và phát triển phẩm chất
năng lực của chính trị viên đại đội, đem lại hiệu quả cao
trong thực hiện nhiệm vụ. Chính trị viên đại đội phải chủ
động sáng tạo, quyết đoán, có tinh thần trách nhiệm, có phơng pháp làm việc cụ thể, tỉ mỉ, khoa học, sâu sát có lý có
tình và có tác phong quần chúng. Phơng pháp giáo dục chủ
yếu là thuyết phục nêu gơng, nói đi đôi với làm, là ngời làm
việc có kế hoạch khoa học chính xác, đồng thời giải quyết
tốt các mối quan hệ cấp trên, cấp dới, cấp uỷ, chính quyền
địa phơng.
Trên đây là những yếu tố cơ bản hợp thành năng lực tổ
chức tiến hành CTĐ, CTCT của chính trị viên đại đội. Muốn
có đợc năng lực đó đòi hỏi mỗi học viên phải không ngừng
học tập, tu dỡng rèn luyện ngay từ bây giờ.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của việc bồi dỡng
năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT cho học viên đào
tạo chính trị viên đại đội.
Một là, xuất phát từ học thuyết Mác Lênin, t tởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vị trí, vai trò CTĐ,
CTCT, thực tiễn hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội hơn 60
năm qua.
Học thuyết Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh về Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân là nền tảng t tởng, lý luận
CTĐ, CTCT trong quân đội ta. CTĐ, CTCT có vị trí hết sức
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng quân đội. Lênin chỉ
ra rằng: ở đâu mà công tác chính trị trong quân đội,
công tác của các chính uỷ làm đợc chu đáo nhất ở đấy
không có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ
đợc trật tự tốt hơn và tinh thần của họ cũng cao hơn. ở đấy
thu đợc nhiều thắng lợi hơn [6, 66]. Đối với cách mạng Việt
Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đà khẳng định cách
mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi không còn con đờng
nào khác ngoài con đờng cách mạng bạo lực và lực lợng nòng
cốt để tiến hành cách mạng bạo lực là lực lợng vũ trang. Do
vậy ngày 22/12/1944 Đảng ta đà tổ chức thành lập Đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân tiền thân của Quân đội
nhân dân Việt Nam sau này. Trung thành và vận dụng sáng
tạo những nguyên lý của học thuyết Mác Lênin về xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam, ngay từ khi tổ chức ra các đội
vũ trang, Đảng ta đà khẳng định những nguyên tắc về xây
dựng lực lợng vũ trang, xây dựng quân đội, về CTĐ, CTCT
trong lực lợng vũ trang và trong quân đội là: Xây dựng và
phát triển lực lợng vũ trang cách mạng trên cơ sở xây dựng và
phát triển lực lợng chính trị và phong trào đấu tranh chính
trị của quần chúng công nông; quân đội công nông và lực lợng vũ trang quân đội phải đặt dới sự lÃnh đạo chặt chẽ của
Đảng; xác lập và tiến hành CTĐ, CTCT trong lực lợng vũ trang.
Đồng thời Đảng cũng khẳng định vị trí vai trò của hoạt
động CTĐ, CTCT trong quân đội:
Thứ nhất, CTĐ, CTCT là bộ phận rất quan trọng trong hoạt
động lÃnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân
đội nhân dân Việt Nam, là công tác cơ bản của lÃnh đạo,
chỉ huy các cấp. Trong toàn bộ quy trình lÃnh đạo của Đảng,
công tác đảng là một bộ phận, nó thể hiện nội dung qu¸n
triệt và tổ chức thực hiện đờng lối. Do vậy, công tác đảng
có vai trò rất quan trọng vì nó là một bộ phận để tạo nên
một quy trình hoàn chỉnh. Đờng lối chính sách mà Đảng đề
ra có đúng đến đâu nhng việc quán triệt và tổ chức thực
hiện không đúng thì nó sẽ không thể biến thành ý chí và
hành động đúng của quân đội, không thể mang lại hiệu
quả trên thực tế. Đồng thời nó cũng có ý nghĩa quyết định
đến việc thờng xuyên củng cố, tăng cờng vai trò lÃnh đạo
của Đảng đối với quân đội. Do đó hoạt động CTĐ, CTCT phải
tiến hành thờng xuyên, liên tục. Việc quán triệt, tổ chức là
nhiệm vụ chung của lÃnh đạo, chỉ huy các cấp chứ không
phải là việc riêng của ngời chính trị viên. Các tổ chức Đảng
phải là ngời định hớng, tổ chức chỉ huy phải là lực lợng quán
triệt tổ chức thực hiện. Đảng ta khẳng định tiến hành CTĐ,
CTCT là một nguyên tắc trong hoạt động lÃnh đạo của Đảng
đối với quân đội.
Thứ hai, CTĐ, CTCT là công tác xây dựng Đảng, xây
dựng quân đội về chính trị, t tởng, tổ chức. CTĐ, CTCT trực
tiếp xây dựng quân đội về chính trị, xây dựng và phát
huy nhân tố chính trị, tinh thần tạo cơ sở phát huy sức mạnh
tổng hợp của quân đội.
Thứ ba, CTĐ, CTCT góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh trên mặt trận chính trị, t tởng, văn hoá, giữ vững trận
địa t tởng của Đảng trong quân đội. Trong giai đoạn hiện
nay CTĐ, CTCT càng có vị trí, vai
trò quan trọng vì hoạt
động CTĐ, CTCT luôn gắn liền với sự lÃnh đạo của Đảng trong
khi đó vai trò lÃnh đạo của Đảng đối với Nhà nớc, xà hội và
quân đội hiện nay ngày càng đợc tăng cờng.
Thực tiễn xây dựng và chiến đấu của quân đội ta tõ
khi ra ®êi ®Õn nay ®· chøng minh r»ng hoạt động CTĐ, CTCT
đà góp phần quan trọng vào việc xây dựng các tổ chức Đảng
trong quân đội trong sạch, vững mạnh; CTĐ, CTCT đà xây
dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt,
có ý chí chiến đấu cao, năng lực tổ chức hoạt động thực
tiễn ngày càng phát triển. CTĐ, CTCT phát huy đợc bản chất
cách mạng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội,
giữ vững trận địa t tởng trớc sự tấn công tàn bạo của các thế
lực thù địch trong những điều kiện khó khăn, gian khổ ác
liệt nhất. Chính điều đó đà đảm bảo cho quân đội ta
không ngừng trởng thành lớn mạnh, góp phần quan trọng vào
thắng lợi của dân tộc ta trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lợc.
Hai là, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng,
nhiệm vụ của quân đội và âm mu thủ đoạn của kẻ thù đối
với cách mạng nớc ta và quân đội ta.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi đà mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc ta: Kỷ nguyên xây
dựng chủ nghĩa xà hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xà hội
chủ nghĩa. Với những thành tựu đạt đợc trong công cuộc khôi
phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh, đặc biệt là những
thành tựu đạt đợc trong 20 năm đổi mới Đảng ta xác định
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong chặng đờng đầu
tiên đà cơ bản hoàn thành, Việt Nam bớc vào thực hiện các
nhiệm vụ của chặng đờng thứ hai, thực hiện đẩy mạnh
công nghiệp hoá - hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức. Đế quốc Mỹ sau thất bại trong chiến tranh xâm lợc Việt
Nam chúng chuyển sang chống phá cách mạng nớc ta thông
qua việc đẩy mạnh thực hiện chiến lợc diễn biến hoà bình
bạo loạn lật đổ. Chiến lợc này diễn ra hàng ngày, hàng giờ
rất thầm lặng nhng tác hại của nó khó có thể lờng đợc. Thực
hiện chiến lợc diễn biến hoà bình chúng chống phá nớc ta
một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị t tởng, kinh tế, văn hoá - xà hội, trọng tâm là lĩnh vực t tởng lý
luận. Trong chống phá t tởng lý luận chúng ra sức tuyên
truyền, xuyên tạc đi tới phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh nền tảng t tởng của Đảng, xuyên tạc đờng
lối chủ trơng của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nớc, từ
đó kích động nhân dân đấu tranh biểu tình đòi thực
hiện đa nguyên, đa đảng, tạo ra sự hỗn loạn về chính trị t
tởng; tạo ra sự mơ hồ về chính trị, thực hiện t sản hoá các
thế hệ cán bộ lÃnh đạo. Chiêu bài cơ bản đợc chúng sử dụng
để thực hiện mục tiêu trên là thông qua sự tác động mặt
trái của cơ chế thị trờng. Trong đó chúng đẩy mạnh việc
đầu t phát triển kinh tế t bản, t nhân làm cho kinh tế t bản
phát triển hòng nắm các yết hầu của nỊn kinh tÕ níc ta, dÉn
®Õn chƯch híng con ®êng đi lên chủ nghÃi xà hội. Đối tợng mà
chúng hớng tới trớc hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên làm việc
trong các cơ quan nhà nớc. Bằng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt chủ yếu là bằng tiền bạc, vật chất, chức quyền, chúng
ra sức dụ dỗ mua chuộc, lôi kéo đội ngũ cán bộ, đảng viên
làm cho họ x· rêi mơc tiªu, lý tëng x· héi chđ nghÜa, giảm sút
niềm tin cách mạng và ý chí chiến đấu, đến một lúc nào
đó chúng gây sức ép buộc bộ phận cán bộ đảng viên thoái
hoá biến chất làm việc cho chóng, ng¶ theo chđ nghÜa t b¶n.
Đối với quân đội với mục tiêu phi chính trị hoá quân
đội tách Quân đội nhân dân Việt Nam ra khỏi sự lÃnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đối tợng chính mà chúng nhằm
vào là đội ngũ cán bộ, sỹ quan các cấp, trong đó có đội ngũ
chính trị viên.
Đứng trớc tình hình trên, để tiếp tục giữ vững và tăng
cờng sự lÃnh đạo của Đảng đối với quân đội, đảm bảo cho
quân đội thực sự là lực lợng chính trị trong sạch, vững
mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nớc
và nhân dân, hơn bao giờ hết quân đội ta phải đợc xây
dựng về chính trị, đẩy lùi và đánh bại mọi âm mu và hành
động của các thế lực thù địch trên mặt trận chính trị t tởng. Phải coi việc xây dựng quân đội về chính trị là cơ sở
để xây dựng quân đội theo hớng cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bớc hiện đại. Việc xây dựng quân đội về
chính trị phải đợc tiến hành ở mọi cấp, mọi đơn vị và mọi
quân nhân. Tuy nhiên hiệu quả xây dựng quân đội về
chính trị đến đâu lại phụ thuộc vào hiệu lực CTĐ, CTCT ở
từng đơn vị với trách nhiệm chính thuộc về ngời chính trị
viên.
Ba là, xuất phát từ vị trí, vai trò của ngời chính trị viên
trong lÃnh đạo chỉ huy đơn vị thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội nói chung trong thời kỳ mới.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc [4, 27]; cán bộ là ngời đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời lại đem tình hình dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng
[3, 3]. Qua đó có thể thấy đợc vị trí, vai trò của đội ngũ cán
bộ nói chung là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Với chính
trị viên vị trí, vai trò ấy càng quan trọng hơn.
Nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới
là bảo đảm sự lÃnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng Cộng sản với quân đội đó. Sự lÃnh đạo ấy chỉ có thể
có đợc thông qua tiến hành CTĐ, CTCT trong quân đội. Vì
vậy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hết lòng chăm lo
tới CTĐ, CTCT và coi đây là linh hồn sống của quân đội. Nhng hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội không phải tự nhiên
có mà hiệu lực CTĐ, CTCT đến đâu trớc hết thuộc về trách
nhiệm, năng lực của mọi cán bộ, đảng viên, mọi tổ chức
trong đơn vị trong đó trách nhiệm lớn nhất thuộc về các
chính trị viên ngời chủ trì về chính trị, có trách nhiệm
trực tiếp chỉ đạo, tổ chức tiến hành các nội dung CTĐ, CTCT
theo chức trách, nhiệm vụ; tham gia xây dựng, tổ chức thực
hiện các kế hoạch công tác chung của đơn vị. Phẩm chất
năng lực của chính trị viên sẽ trực tiếp xây dựng đơn vị về
mặt chính trị là cơ sở cho việc xây dựng đơn vị vững
mạnh
toàn diện, đảm bảo cho đơn vị hoàn thành mọi
nhiệm vụ đợc giao. Nhận thức đợc điều đó Đảng đà sớm tổ
chức và thờng xuyên chăm lo, bồi dỡng tạo điều kiện cho đội
ngũ chính trị viên phát triển, phát huy năng lực của mình.
Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay
đà chứng minh. Ngay từ những tổ chức vũ trang quần chúng
nhỏ bé ban đầu, Đảng luôn xác định bên cạnh ngời đội trởng tự vệ phải có một ngời cán bộ chính trị, đại diện cña
Đảng. Năm 1941 khi đội Cứu quốc quân 1 và Cứu quốc quân
2 thành lập Trung ơng đều cử một uỷ viên chính trị cùng ngời đội trởng chỉ huy ®éi. Cã thĨ nãi dï tªn gäi cã nhiỊu thay
®ỉi nhng chính thông qua hoạt động của các cán bộ chủ
trì CTĐ, CTCT mà sức manh chính trị, tinh thần của bộ đội
đà đợc phát huy, góp phần tạo nên chiến thắng vang dội ở
khắp các chiến trờng, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện
Biên Phủ kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp lặp lại hoà
bình ở miền Bắc.
Trong kháng chiến chống Mỹ điểm nổi bật hơn hẳn là
những ngời cán bộ chiến sĩ ấy đà biết gắn kết hoạt động
CTĐ, CTCT với hoạt động quân sự và hoạt động chuyên môn ở
mỗi đơn vị, vì vậy đà phát huy đợc sự lÃnh đạo tuyệt đối
của Đảng đối với quân đội, đề cao vai trò của các cấp uỷ
đảng, đồng thời kịp thời động viên đợc sức mạnh chính trị,
tinh thần của bộ đội trong thực hiện nhiệm vụ, nhờ đó đÃ
làm nên thắng lợi của dân tộc ta trong kháng chiến chống
Mỹ.
Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, trớc tình hình thế
giới, khu vực và trong nớc có nhiều thay đổi đặc biệt là sự
tác động mặt trái của cơ chế thị trờng, sự chống phá của
các thế lực thù địch đà dẫn đến những hạn chế nhất định
trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có ghi: Một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt
các cấp yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính
chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đờng lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nớc, thiếu lòng tin, phai
nh¹t lý tëng; mét sè Ýt cã biĨu hiƯn bÊt mÃn... bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận đảng viên có chiều hớng gia tăng; vẫn còn tình trạng "chạy chức", "chạy quyền",
"chạy tội", "chạy bằng cấp". Thoái hoá biến chất về chính trị,
đạo đức, lối sống; tệ quan liêu tham nhũng, sách nhiễu dân
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra
nghiêm trọng, kéo dài cha đợc đẩy lùi... [2, 66].
Đây là thực tế đáng lo ngại đối với đội ngũ cán bộ
trong quân đội trong đó có các chính trị viên. Điều đó ảnh
hởng không nhỏ đến chất lợng xây dựng đơn vị vững
mạnh, toàn diện.
Trớc tình hình đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ có
bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành
mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lÃng phí, kiên quyết đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, lÃng phí; có t tuy đổi
mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại
hoá; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật
cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn
bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ có tính kế thừa và phát
triển, có số lợng và cơ cấu hợp lý [2, 65] trở thành yêu cầu
bức thiết.
Đặc biệt đối với đội ngũ chính trị viên, để họ có thể
hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nớc, quân
đội và nhân dân giao cho cần xây dựng đội ngũ chính trị
viên theo một chuẩn mực chung. Đó là mô hình nhân cách,
mô hình mục tiêu đào tạo và quyết định số 85/QĐ -
ĐUQSTW đa ra: Ngời tiêu biểu về phẩm chất chính trị; mẫu
mực về đạo đức, lối sống, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, là
trung tâm đoàn kết và có tín nhiệm cao trong cấp uỷ, tổ
chức đảng và đơn vị; có kiến thức, năng lực lÃnh đạo, quản
lý toàn diện, vững về quân sự, giỏi tiến hành CTĐ, CTCT, có
tính đảng, tính nguyên tắc, có tác phong dân chủ, sâu sát
thực tế, nói đi đôi với làm .
Xuất phát từ những lý do trên mà việc bồi dỡng năng lực
tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT cho học viên là tất yếu, điều
tất yếu cho sự trởng thành, chiến thắng của quân đội, cho
thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xà hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xà hội
chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
1.2 Thực trạng bồi dỡng năng lực tổ chức tiến hành
CTĐ, CTCT của học viên đào tạo chính trị viên đại đội
1.2.1 Ưu điểm và nguyên nhân
Đối với ngời HV đào tạo làm chính trị viên đại đội, qúa
trình học tập và rèn luyện tại trờng cũng đồng thời là quá
trình hình thành, phát triển năng lực tổ chức tiến hành
CTĐ, CTCT. Năng lực này càng đợc tôi luyện, phát triển và
hoàn thiện hơn nữa trong suốt quá trình công tác sau này.
Việc từng bớc hình thành tay nghề, kỹ năng tiến hành
CTĐ, CTCT là trách nhiệm của các trờng lớp đào tạo. Quá trình
học tập và rèn luyện tại trờng là quá trình ngời học viên tiếp
thu những kiến thức chung, căn bản nhất, làm cơ sở vận
dụng thực tiễn công tác, vô cùng phong phú ở đơn vị..
Để thực hiện tốt mục đích đề ra Trêng SÜ quan ChÝnh trÞ
đà xây dựng chơng trình học tập đảm bảo tạo ®iỊu kiƯn
thn lỵi cho viƯc tiÕp thu kiÕn thøc cđa học viên. Điều đó đợc thể hiện:
Trong năm học thứ nhất, với mục đích trang bị cho học
viên những hiểu biÕt chung nhÊt nhng v« cïng thiÕt thùc
trong m«i trêng quân đội nh Điều lệnh, chiến thuật... trên
cơ sở đó hình thành nếp sống kỷ luật, thói quen sống phù
hợp với môi trờng quân đội loại bỏ dần những thói quen, tập
tục có đợc khi còn ở địa phơng, gia đình, nhất là thói quen
sống tự do, làm việc theo ý muốn cá nhân, không gắn với tập
thể. Đặc biệt hơn trong năm thứ nhất đó là từng bớc hình
thành tác phong ngời cán bộ. Với mục đích nh vậy, do điều
kiện nhà trờng cha cho phép nên các học viên có đầu vào là
thí sinh tự do và quân nhân đang làm nghĩa vụ về cơ bản
đợc nhà trờng gửi đi đào tạo liên kết tại các nhà trờng (hiện
nay đang đào tạo liên kết tại Trờng Sỹ quan Lục quân I và
Lục quân II)
Sang năm học thứ hai, chủ yếu học viên học các bộ môn
thuộc các khoa Khoa học cơ bản, Triết học Mác-Lênin và một
số bộ môn khác làm cơ sở cho việc học chiến thuật và CTĐ,
CTCT . Trong thời gian này, ngời học viên sẽ đợc trang bị
những lý luận chung nhất, từ đó hình thành cho họ cách
nhìn nhận, đánh giá thế giới khách quan.
Từ những bỡ ngỡ ban đầu, lúc này ngời học viên có thể
nói đà thích nghi với môi trờng sống trong quân đội, với phơng pháp dạy học ở ngôi trờng quân sự.
Cũng trong thời gian trên ngời học viên đà từng bớc đợc
làm quen, đợc biết đến hoạt động CTĐ, CTCT qua thực tiễn
hoạt động ở đơn vị, nhà trờng.
Bớc sang năm học thứ ba, thứ t là năm học bản lề, năm
học hoàn thiện nhân cách ngời cán bộ chính trị đối với ngời
học. Trong hai năm học này, ngời học viên sẽ đợc trang bị
những kiến thức cơ bản, hệ thống về hoạt động CTĐ, CTCT.
Những kiến thức chuyên ngành đợc giảng dạy chủ yếu trong
thời gian này, do vậy đây là khoảng thời gian có thể nói là
vất vả nhất với ngời học viên. Để giảm bớt sự căng thẳng, làm
tăng thêm sự hng phấn của ngời học trong quá trình tiếp thu
kiến thức, việc xếp xen kẽ một số môn khoa học xà hội trong
thời gian này là việc làm đúng đắn.
Trên cơ sở những kiến thức đợc thầy cô trang bị, tại
đơn vị ngời học viên cã ®iỊu kiƯn kiĨm chøng lý ln qua
viƯc ®èi chiÕu với hoạt động CTĐ, CTCT do chính trị viên trực
tiếp tiến hành cũng nh họat động thực tiễn của bản thân,
của đồng đội trong thời gian thực tập chính trị viên đại đội
dới sự hớng dẫn trực tiếp của chính trị viên đơn vị. Do vậy,
học viên có điều kiện häc hái, tiÕp thu, tÝch l kinh nghiƯm
thùc tiƠn häc tập, công tác làm phong phú vốn kiến thức của
bản thân. Và chính thông qua hoạt động thực tiễn ở đơn vị
để bổ sung phát triển lí luận .
Đến năm cuối khoá, cùng với việc hoàn thiện phần còn lại
của kiến thức,chơng trình đào tạo, ngời học viên sẽ có thời
gian nhất định để kiểm chứng lý luận, gắn lý luận vào thực
tiễn, thể hiện và kiểm tra năng lực của mình trong khoảng
thời gian thực tập ở các đơn vị trong toàn quân. Có thể nói
chất lợng học tập CTĐ, CTCT của ngời học viên là tốt hay không
tốt, năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT của ngời học viên
đến đâu, kết quả quá trình học tập, rèn luyện của mỗi học
viên đợc thể hiƯn râ nÐt trong thêi gian nµy, thĨ hiƯn qua
thùc tế của hoạt động CTĐ, CTCT ở đơn vị do ngời học viên
trên cơng vị là ngời chính trị viên – ngêi BÝ th chi bé chđ
tr×, trùc tiÕp tiÕn hành. Hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT ở
đơn vị không cao thì không thể nói ngời học viên đó học
tốt bộ môn CTĐ, CTCT và càng không thể nói ngời học viên đó
có năng lực tốt đợc và ngợc lại, khi hiệu quả hoạt động CTĐ,
CTCT ở đơn vị đạt yêu cầu thì nó cũng có nghĩa năng lực
CTĐ, CTCT của ngời học viên đó bớc đầu đà đợc công nhận .
* Ưu điểm:
Trong thời gian qua nhà trờng đà quan tâm chú trọng
bồi dỡng, rèn luyện năng lực tổ chức tiến hành CTĐ, CTCT cho
đội ngũ học viên đào tạo để trở thành chính trị viên nh:
thông báo chính trị, giảng bài chính trị, cắt kẻ vẽ trang trí,
hoạt động báo tờng, bảng tin, ra nghị quyết, tổ chức các
buổi diễn đàn, văn hoá văn nghệ, chủ trì hội nghị chi bộ...
Thực tiễn cho thấy, ngời học viên đà từng bớc quán triệt
cũng nh biết cách vận dụng đờng lối, quan điểm của Đảng,
nghị quyết chỉ thị, hớng dẫn, mệnh lệnh của cơ quan, cán
bộ cấp trên vào hoạt động thực tiễn đơn vị mình, biến đờng lối, quan điểm, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh ấy
thành hiện thực và thực hiện thắng lợi. Họ đà biết cùng với
tập thể chi bộ phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể bàn biện
pháp lÃnh đạo đơn vị hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà cấp
trên giao cho.
Quá trình đào tạo của nhà trờng có sự đào thải những
học viên không đủ phẩm chất, đạo đức, t cách, không đủ
tiêu chuẩn. Do vậy mỗi học viên khi ra trờng đều là ngời có
bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn an tâm học tập, công
tác tại đơn vị. Kiên định với con đờng sự nghiệp đà chọn,
đặc biệt là sự phấn đấu, nỗ lực học tập, công tác thờng
xuyên, liên tục, sự phấn đấu không biết mệt mỏi, cùng với đó
là phẩm chất, năng lực tốt, tác phong và lối sống trong sạch,
lành mạnh, giản dị, đáp ứng tốt yêu cầu công việc.
Về năng lực công tác, trên cơ sở những kiến thức đợc
trang bị về cơ bản học viên đà thể hiện đợc khả năng xem
xét, đánh giá lập trờng quan điểm đúng đắn của mình
theo đúng lập trờng, quan điểm của giai cấp công nhân.
Chấp hành đúng đờng lối, chủ trơng của Đảng, chính sách ,
pháp luật của Nhà nớc, kỷ luật quân đội, quy định của đơn
vị. Biết đấu tranh với những quan điểm phản động, sai trái,
đặc biệt là luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
nhận rõ âm mu, thủ đoạn thâm độc của đế quốc Mỹ trong
chiến lợc diễn biến hoà bình bạo loạn lật đổ.
Bên cạnh đó, mỗi học viên luôn nêu cao tinh thần tự giác
học để ngày mai lập nghiệp họ luôn tích cực, tự giác học
tập, nghiên cứu. Đồng thời luôn tận dụng thời cơ khi đợc phép
tham gia hay trực tiếp tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT. Do
vậy họ có khả năng phát hiện, nắm chắc tình hình t tởng
của học viên trong đơn vị, từ đó kịp thời tham mu,đề xuất
biện pháp giải quyết với lÃnh đạo, chỉ huy. Từ đó từng bớc rút
ra những kinh nghiệm quý báu trong hoạt động thực tiễn,
làm cơ sở cho qúa trình công tác sau này.