/>%C6%B0%C6%A1ng-19-Tr%C3%ADch-Thi%C3%AAn-T%E1%BB%A7y-Nguy%C3%AAn-L
%C6%B0u-%28B%C3%A0nh-Khang-D%C3%A2n%29
Bành Khang Dân chú giải “Trích Thiên Tủy”
Chương 19: Nguyên Lưu
Tác giả: Thái Tích Quỳnh
Căn nguyên khởi ở đâu? Chảy đến phương nào dừng? Mấu chốt cầu ở đây, biết đến cũng biết đi.
Nguyên chú: Bất tất luận nắm lệnh hay không nắm lệnh, chỉ luận lấy tối đa và tối vượng, mà có thể
là cục đầy tổ tơng, gọi là Nguyên Đầu vậy. Chỗ này xem Nguyên Đầu, chảy đến phương nào, nơi
chảy tới, là chỗ hỉ thần, tức là dừng lại ở đây, chính là có được đường về.
Như: Tân Dậu, Quý Tị, Mậu Thân, Đinh Tị.
Lấy hỏa là Nguyên đầu, chảy đến phương kim thủy là dừng, cho nên là đứng đầu phú quý, nếu tiếp
tục chảy đến đất mộc, là khí tiết, là loạn. Như chưa từng chảy đến phương cát, tức là ở giữa gặp phải
trở ngại, xem thần gây trở ngại là thần nào, để đoán cát hung; đất dừng chảy là đất nào, để biết địa
vị.
Như: Quý Sửu, Nhâm Tuất, Quý Sửu, Nhâm Tý,
Lấy thổ làm Nguyên đầu, dừng phương thủy, chỉ sống được một người, cịn khí hỏa thổ ở trong
Tuất, được theo dẫn trợ, cho nên là tăng vậy.
Bành thị chú giải: Ngũ hành lưu chuyển tương sinh, gọi là hữu tình. Bát tự hữu tình hay vơ tình, rất
nhiều huyền cơ đã ám tàng ở trong q trình lưu thơng và gặp trở ngại. Lấy trụ năm đại biểu tổ
thượng, trụ giờ đại biểu tử tôn, ngũ hành nếu từ năm thuận sinh đến giờ, hoặc từ giờ nghịch sinh đến
năm, đều đốn là lưu chuyển hữu tình, đây là nói ý nghĩa quan trọng hàng đầu của Nguyên lưu. Ngũ
hành lưu chuyển tất là bắt đầu từ vượng khí, vượng khí ở chỗ Nguyệt lệnh là có rất nhiều ở trong bát
tự, cho nên tám cách luận mệnh, thường thủ Nguyệt lệnh vượng khí làm cách, lại xem hướng đi, để
định tượng cục. Nhưng mà vượng khí khơng phải là một chữ địa chi Nguyệt lệnh là có thể xác định
được, chẳng phải là đã nghe Đắc lệnh bất vượng, Thất thời bất suy hay sao? Cho nên Manh nhân
chúng ta đoán mệnh phần đa trước tiên là đếm số ngũ hành, lại kiêm nhìn Nguyệt lệnh thì khơng có
khó nhìn ra Ngun đầu. Ngũ hành đã có Ngun đầu, cũng có chỗ dừng, lại cịn có con đường
trung gian.
Hỏi: Ngun đầu dễ tìm, cịn chỗ dừng là ở đâu?
Thầy đáp: Ngũ hành tương sinh tức là lưu chuyển, không tiếp tục sinh tất là chỗ dừng.
Hỏi: Biết chỗ dừng thì lại phải sắp xếp như thế nào?
Page 1
Thầy đáp: Bát tự khắp nơi đều là huyền cơ, nhưng chỗ dừng lại là huyền cơ lớn nhất. Chẳng phải
nghe chỗ “Địa Chi phú” nói rơi chỗ nào mà thành tượng, ở chỗ nào mà thăng thiên. Chỗ dừng Ngũ
hành mà thành hình, thành tượng, tất có q khí, hình tượng to lớn, là ở tầng thứ cao. Chỗ dừng Ngũ
hành gặp hình xung khí tán, tự nhiên hình tượng phá tổn, khó mà có phú quý. Chỗ dừng ở năm
tháng mà thành hình, thì tổ thượng cùng gia đình phát vượng, chỗ dừng ở ngày giờ mà thành hình,
tất là tay trắng lập nghiệp hoặc là con cái phát đạt. Chỗ dừng là Tài, thân chủ phải vượng mà có thể
đảm nhận, ít nhất là cũng có lấy phú, chỗ dừng là Quan, phải cùng nhật chủ là có tình, tương sinh
tương hợp, phú q vị cao cũng có chia cho ta một chén canh để ăn.
Tóm lại, chỗ dừng như có phong thủy kết huyệt, khí khơng có tán, hình khơng có loạn. Nếu khơng,
nhìn như là có tình, nhưng thực tế là vơ dụng.
Nhâm thị viết: Nguyên Đầu, tức là vượng thần ở trong tứ trụ vậy, bất luận là loại Tài, Quan, Ấn thụ,
Thực Thương Tỉ kiếp, đều có thể là Nguyên đầu vậy. Cuối cùng là lưu thơng sinh hóa, cục nhận
được đẹp là tốt. Hoặc là khởi từ Tỉ Kiếp, dừng ở Tài Quan là hỉ; hoặc khởi ở Tài Quan, dừng ở Tỉ
Kiếp thì nhớ là kị. Như Sơn xuyên phát mạch lai long, nhận khí ở Đại Phụ Mẫu, thì xem tinh tơn
q; nhận khí ở chân Tử Tức, thì xem tinh chủ; nhận khí ở phương Giao Cấu, thì xem tinh Thai
Phục; nhận khí ở thành Thai Dục, thì xem tinh Thai Tức; nhận khí ở Hóa Sát thành quyền, thì xem
Giải tinh; nhận khí ở Tuyệt xứ phùng Sinh, thì xem Ấn tinh.
Nhận ngun khí mà lấy Thế, nhận lưu khí mà lấy Tình. Cho nên Ngun Đầu chỗ dừng lại, tức là
chỗ Sơn xuyên kết huyệt vậy, không thể không lấy mà nghiên cứu; Nguyên Đầu gặp chỗ trở ngại,
tức ý là Lai Long phá tổn cách tuyệt vậy, không thể không xem xét. Xem chỗ Nguyên Đầu dừng
chảy là chỗ nào, để biết ai hưng ai suy; xem thần gây trở ngại là thần nào, để luận cát hung là ở đâu.
+ Như Nguyên Đầu khởi ở năm tháng là Thực Ấn, dừng lại ở ngày giờ là Tài Quan, thì nhận ở trên
sự che chỡ của tổ phụ, nhận ở dưới phúc đức của con cháu; hoặc là khởi ở tháng là Quan, dừng ở
ngày giờ là Thương Kiếp, thì phá bại tổ nghiệp, hình thê khắc tử, nếu như khởi ở ngày đúng là Tài
Quan, dừng ở năm tháng là Thực Ấn, thì ở trên tổ phụ địa vị là vẻ vang, ở dưới là cùng với con cháu
lập nghiệp; hoặc khởi ở ngày giờ là Tài Quan, dừng lại ở năm tháng là Thương Kiếp, thì khó mà
hưởng tổ nghiệp, bản thân tự nghĩ ra sự đổi mới, dừng chảy ở năm là Quan Ấn, biết tổ thượng là
thanh cao; là Thương Kiếp thì biết tổ thượng hàn vi. Dừng chảy ở tháng là Tài Quan, thì biết cha mẹ
gây dựng cơ đồ sự nghiệp; là Thương động, thì biết cha mẹ bị phá bại. Dừng chảy ở ngày giờ là Tài
Quan Thực Ấn, nhất định là tay trắng lập nghiệp, hoặc là vợ hiền con quý. Dừng chảy ở ngày giờ là
Thương Kiếp Kiêu Nhận, nhất định là vợ xấu con kém, hoặc là do vợ mà gây ra họa, phá gia mà
chịu nhục. Nhưng lại phải xem nhật chủ hỉ kỵ mà quyết định, là khơng có khơng ứng nghiệm vậy.
+ Như Nguyên Đầu ở đất chưa dừng chảy, có thần gây trở ngại ngăn chặn, là Thiên Chính Ấn thụ,
tất là họa ở trưởng bối; trong trụ có Tài tinh tương chế, tất được trợ giúp của vợ hiền. Như có Tỉ
Kiếp hóa, hoặc được huynh đệ tương phù; như trở ngại là Tỉ Kiếp, tất gặp liên lụy anh em, hoặc là
bất hịa. Trong trụ có Quan tinh tương chế, tất được quý nhân giải cứu; như có Thực Thương hóa, có
thể là được con cháu trợ giúp. Như âm tiết là Tài tinh, tất thê thiếp gặp họa; trong trụ có Tỉ Kiếp
tương chế, tất được huynh đệ trợ giúp, hoặc huynh đệ u kính. Như có Quan tinh hóa, hoặc được
người hiền tài nâng đỡ; như trở ngại là Thực Thương, tất con cháu bị liên lụy, trụ có Ấn thụ tương
Page 2
chế, tất được ngậm phúc của trưởng bối, hoặc là thân trưởng đề bạt; có Tài tinh hóa, tất được vợ
đẹp, hoặc nhiều tài năng. Như trở ngại là Quan Sát, tất gặp họa quan hình; trong trụ có Thực Thương
tương chế, tất được con cháu giúp sức. Có Ấn thụ hóa, tất nhận trợ giúp của trưởng bối, nhưng lại
cần xem dụng thần mà luận hỉ kỵ, khơng có không ứng vậy.
+ Như Nguyên đầu dừng chảy là Quan tinh, lại là dụng thần của nhật chủ, thì thanh danh quý hiển,
10 là có 8, 9; Như là Tài tinh, lại là dụng thần của nhật chủ, thì lợi phát tài, 10 là có 8,9; Như là Ấn
tinh, lại là dụng thần của nhật chủ, có văn chương mà lại thanh cao, 10 là có 8,9; Như là Thực
Thương, lại là dụng thần của nhật chủ, là tài tử xinh đẹp, 10 là có 8,9. Như nhật chủ lấy Quan tinh là
kỵ thần, làm quan có gặp họa khuynh gia; như nhật chủ lấy Tài tinh là kỵ thần, là vì Tài mà tang
thân thảm bại danh tiết; như nhật chủ lấy Ấn tinh là kỵ thần, ít học mà con trưởng còn bị hại; như
nhật chủ lấy Thực Thương là kỵ thần, là con cháu bị liên lụy mà tuyệt tự. Chỗ này đúng lẽ vốn là
cùng cực khơng giống như Liêu luận sách Cốc vậy.
VD 1: ví dụ trong nguyên chú:
Tân Dậu, Quý Tị, Mậu Thân, Đinh Tị
Bành thị chú giải: Tạo này ngũ hành khuyết mộc, ít thủy, theo Nguyệt lệnh Tị hỏa là vượng khí,
Mậu thổ đắc lộc ở Tị, kim nhiều tiết thổ, nhưng có ở vượng khí, Mậu thổ là con đường khơng vượng
cũng khơng suy, khí ngũ hành, từ hỏa chảy hướng thổ, lại hướng kim, đến phương thủy là dừng.
Quý thủy là chỗ dừng, Quý thủy cùng nhật nguyên Mậu, tương hợp hữu tình. Hữu tình biểu hiện ở
Mậu Quý hợp có thể bổ sung chỗ nhu nhật nguyên, hơn nữa đường đi khơng tổn thương. Vượng khí
tụ ở Nguyệt lệnh, chủ gia đình hoặc đơn vị phát đạt, cùng nhật nguyên hữu tình, liền tới mệnh chủ là
được đứng đầu phát đạt. Tất nhiên khơng mất phú q.
VD 2: ví dụ thời nay:
Khôn tạo: Mậu Tuất, Canh Thân, Quý Hợi, Đinh Tị
Tạo này Quan Ấn một đường đến sinh, tự xem hữu tình. Vượng khí trước tiên chảy hướng nhật
ngun cùng tọa dưới Hợi, Quý Hợi không phải là chỗ dừng, một là trong Hợi có Giáp, hai là Hợi
cùng Tị xung, nếu như khí ở Giáp mộc, Thân xuyên Hợi, thương hại Giáp, nếu như khí dừng ở Hợi,
Tị đến xung, cuối cùng là chỗ dừng gặp phải hình, tượng khí tán. Cho nên khơng có phú q, là
người bình thường mà thơi.
VD 3: ví dụ xưa:
Càn tạo: Nhâm Thân, Nhâm Tý, Mậu Ngọ, Ất Mão
Tạo này kim mộc thủy hỏa thổ ngũ hành khơng khuyết, vượng khí là thủy, tự xem ngũ hành lưu
thông không trở ngại, cũng khơng chỗ dừng, thực tế vượng khí ở nguyệt lệnh Nhâm Tý, Mậu thổ có
tượng thủy khố, chỉ có thủy khố mới có thể giữ được dịng vượng khí này. Ất là thảm thực vật ở trên
khố, bang trợ Mậu thổ khống chế dừng vượng thủy không chảy tràn lan thành họa, khí quy về
nguyệt lệnh, tượng nhật chủ rơi, quý mệnh là Tham Chính.
Page 3
VD 4: Nguyên là ví dụ của Nhâm thị:
Tứ trụ
Tân
Canh
Bính
Quý Tị
Nhâm thị chú giải: Chỗ này lấy kim làm Nguyên đầu, chảy đến Dần mộc, Ấn thụ sinh thân càng
hay. Giờ Tị đắc Lộc, Tài lại phùng sinh, Quan tinh thấu lộ, thanh có tinh thần, trung hịa thuần túy,
khởi chỗ cũng tốt, quy cục càng đẹp, xuất thân Từ lâm , làm quan Thơng Chính, cả đời khơng gặp
hiểm, danh lợi song huy.
Bành thị chú giải: Tạo này Nhâm thị giải thích rất hay. Dậu sinh Tý cũng phá Tý, Tý thủy cũng
không phải Nguyên đầu. Thiên can Canh Tân âm dương cùng thấu, địa chi phùng Dậu, kim là
Nguyên đầu, Nhâm thị nói mộc là chỗ dừng. Tại sao khơng nói hỏa là chỗ dừng? Nói hỏa là chỗ
dừng tất nhiên là có lý, nhưng chỗ dừng là ở Bính mà khơng ở Tị, ngun nhân là vượng thủy cái
đầu, hỏa tính chỉ viêm thượng. Dần mộc khí vượng tướng ngũ hành thuận lợi lưu thông đến chỗ nhật
nguyên. Thư viết: Dần cung không sợ thủy nguyên thâm, chỗ này có Dần mộc cũng khơng lo thiên
can Q thủy. Nếu là ngày Bính Tý, khơng có thổ lộ tích ở vượng thủy, tất có lo thủy hỏa giao chiến.
Phú viết: thủy hỏa giao chiến nhiều thị phi. Nếu là ngày Bính Tý, mặc dù tịng Sát, có dấu hiệu là
đại quý, nhưng cả đời khó tránh gợn sóng mạo hiểm. Tạo này được 1 Dần kề thân, vượng khí dừng
ở Bính Dần, bát tự khơng có thổ rõ làm mờ hỏa, lại khơng có hình xung. Ấn thụ sinh thân, Tài Quan
Ấn một đường tương sinh đến thân chủ, đường đi thơng sướng, q trình xuất thân cùng cả đời đều
cát. Chỉ là tượng không quá lớn, cho nên cả đời khơng có nguy hiểm, danh lợi song huy, cũng chỉ
qua là một mệnh Thơng Chính (Thơng Chính tức là quan sứ giả, cao nhất là tam phẩm, thấp nhất là
khơng có phẩm).
VD 5: Vốn là ví dụ của Nhâm thị:
Tứ trụ
Tân
Q
Mậu
Bính Thìn
Nhâm thị chú giải: Chỗ này lấy hỏa làm Nguyên Đầu, chảy đến phương thủy thì dừng, càng hay ở
tháng và giờ, gốc của hai hỏa, đều được lưu thơng, đến kim thủy thì quy về cục, cho nên giàu có
bách vạn, làm quan đến nhất phẩm, trọn cả đời khơng có nguy hiểm, chỗ nói là giúp lấy phúc lớn,
mọi người ngưỡng mộ; đóa hoa thêm gấm, nhìn thấy Ngũ phúc.
Page 4
(Kinh Thi chia ra ngũ phúc là: (1) Giàu có; (2) Yên lành; (3) Thọ ; (4) Có đức tốt; (5) Vui hết tuổi
trời)
Bành Thị chú giải: Tạo này cùng ví dụ ở trên là tương tự. Chỗ khác nhau là, một trụ Bính Thìn,
Mậu mượn lực thổ của Bính Thìn, nắm trong tay vượng khí càng có lực mạnh.
VD 6: Vốn là ví dụ của Nhâm thị:
Tứ trụ
Tân
Tân
Bính
Giáp Ngọ
Nhâm Thị chú giải: Tạo này lấy mộc làm Nguyên Đầu, ngũ hành khơng có thổ, khơng thể chảy đến
kim; Tài Quan lại cách tuyệt, xung mà gặp tiết, khơng có tình sinh hóa. Vận đầu Canh Dần, ngậm
phúc bề trên; vận Kỷ Sửu hợp Tý, tiết hỏa sinh kim tài phúc cùng đạt; Mậu Tý thổ hư thủy vượng,
ám trợ mộc thần, hình háo đa đoan; Đinh Hợi khắc kim hội mộc, phá gia người mất.
Bành thị chú giải: Tạo này lấy mộc làm Nguyên Đầu, thiên can thấu Giáp, đến hỏa là dừng. Bởi vì
bát tự khơng có thổ, vượng khí khơng có cách nào lưu thơng đến kim, năm tháng đều là Tân kim,
khơng được vượng khí tương sinh, tất nhiên là vô vị, không động không vật. Nhưng mà, nhật chủ
tham hợp Tân kim, lại thêm Biến dã Đào Hoa, rất là phong lưu. Tệ hơn là Tý Ngọ tương xung,
vượng khí đến gặp tán mất. Vận Kỷ Sửu bởi vì hợp trụ Tý thủy, thơng quan hỏa ở kim, mới có được
tài phúc; vận Tý xung Ngọ, chính là mùa khí tán. Vận Đinh Hợi, Tân kim bị thương, người cứu
mệnh đều mất. Thảo nào ứng có phá gia người mất.
VD 7: Vốn là ví dụ của Nhâm thị:
Tứ trụ
Canh
Nhâm
Mậu
Đinh Tị
Nhâm thị chú giải: Tạo này lấy hỏa làm Nguyên Đầu, chi năm Dần mộc chủ bị tiết, can tháng
Nhâm thủy ngăn cách, không thể chảy đến kim. Vận đầu đất thổ kim, xung hóa thần cản trở tiết khí,
sự nghiệp giống như nước mắt mùa Thu hoa Xuân hưng thịnh, người được ân huệ của năm Nghiêu
tháng Thuấn; một lúc giao Bính Tuất, chi hội hỏa cục, Kiêu thần đoạt Thực, phá hao dị thường, lại
hình khắc một thê hai thiếp bốn con; đến vận Đinh Hợi, can chi đều hợp hóa mộc, cơ đơn một mình,
bơ vơ chịu khơng thấu, bèn quy y thành tăng.
Page 5
Bành thị chú giải: Tạo này hỏa nhiều gặp Dần, khuyết một chữ Tuất, hỏa khơng thu vào, tượng vơ
tình tán hỏa. Hoàn toàn dựa vào thiên can kim thủy ức chế hỏa vượng khí, tiếc là kim thủy thái
nhược, địa chi khơng có thổ kim tiết hỏa thơng quan, kim thủy khơng đến được vượng khí bồi
dưỡng, hỉ dụng cả hai đều bị thương. Tạo này ức chế vượng hỏa là khẩn yếu nhất, thủy là dụng, kim
là hỉ. Dần mộc là bệnh. Hợi vận, Hợi tham sinh hợp mà vong khắc, thế hỏa không giảm, dụng thần
Lộc tinh bị hợp thương. Dần dần nhập vào tuyệt cảnh.
Tổng kết:
Nhâm thị viết: Phàm phú q, khơng có khơng theo Ngun Đầu vậy. Phân ra quý tiện, hoàn toàn là
ở một chữ thu cục mà định. Ta mất trọc khí, ta làm Hỉ thần, không quý cũng phú; ta mất thanh khí,
ta làm kỵ thần, khơng bần cũng tiện. Học giả nên xem xét cẩn thận.
Bành thị cho rằng, chỗ Nhâm thị nói rất đúng. Chỗ nguyên văn giảng Nguyên Lưu, vừa phải có
vượng khí làm Ngun Đầu, cũng phải có lưu thông làm đường đi, càng xem trọng chỗ vượng khí
dừng lại. Chỗ vượng khí dừng lại thu vào được tốt, xác thực là có Chân Long kết mạch, đất bảo vật
tàng phong tụ khí. Khí quy về Nguyệt lệnh, tượng rơi Nhật chủ, khơng có khơng phú q vậy.
Nhưng mà bát tự càng nhiều lại là chân khí khó tụ, hoặc là xung phá vơ hình, hoặc là đường đi
không thông, hoặc là gốc chi khô héo, chỗ khác tươi tốt. Mọi thứ huyền cơ, đều tàng ẩn hết ở trong
Nguyên Lưu.
Tác giả dựa theo Nguyên Lưu cũng là dựa theo để hoàn thành ngũ hành sinh khắc, ngũ hành sinh
khắc là chính lý, ngũ hành sinh khắc từ đâu mà bắt đầu, hẳn phải là ứng dụng trong Nguyên Lưu
một đại bí quyết, bây giờ kèm theo một đoạn văn nhỏ, để cung cấp tham khảo.
Phụ lục: Ngũ hành sinh khắc bắt đầu từ đâu?
Từ lý luận ở trên xem ngũ hành sinh khắc, là kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh
thổ, thổ sinh kim, kim lại sinh thủy. Tựa như tuần hoàn mà khơng có giới hạn. Khơng ít người mới
học chỉ một chút như trên mà không biết xử lý cách nào, ngũ hành tuần hoàn tương khắc cũng giống
như vậy. Cuối cùng Sinh là bắt đầu từ nơi nào, Khắc là bắt đầu từ nơi nào chứ? Đối với vấn đề này,
con người khơng biết vậy coi như là phiền tối, trái lại nếu biết thì là rất đơn giản.
VD Càn tạo: Mậu Thìn, Kỷ Mùi, Tân Dậu, Nhâm Thìn
Đại vận: 5 t Canh Thân, 15 t Tân Dậu, 25t Nhâm Tuất, 35t Quý Hợi, 45t Giáp Tý, 55t Ất Sửu, 65 t
Bính Dần.
"Bạn hãy xem ngũ hành bát tự sinh khắc bắt đầu từ nơi nào?"
Thứ nhất, lúc gặp Hạ lão tiên sư, tôi rất không khiêm tốn ở trước mặt ơng ấy thổi phồng bản thân
thần đốn. Khơng nghĩ đến việc này tiên sinh xem ra rất là bình thường, thản nhiên nắm sử dụng bát
tự để kiểm tra tôi. Mặc dù tôi cũng xem ra trong chỗ bát tự này được một phần làm ông ấy khen
ngợi, nhưng mà tính chất nội dung tơi đều khơng xem được. Lúc này ơng ấy cịn giảng cho tơi chỗ
sinh và khắc của tạo này, tôi mới lại khiêm tốn một lần nữa để lĩnh hội tính trọng yếu, đúng là trên
Page 6
bầu trời, người cao cịn có người cao hơn. Sau này tôi cũng thường sử dụng bát tự này kiểm tra lại
cho những hậu sinh, đa số mọi người đều cho rằng là thổ sinh kim, kim sinh thủy, lưu thơng có tình.
Dứt khốt mọi người đều nói là ngũ hành tuần hoàn tương sinh. Trên thực tế vẫn là không biết trong
bát tự này ngũ hành sinh khắc là bắt đầu từ đâu.
Thiên can địa chi bát tự này chủ yếu là có ba loại ngũ hành thổ, kim, thủy. Biểu hiện ở trên là thổ
sinh kim, kim sinh thủy, lưu thơng có tình. Trên thực tế cũng khơng phải là đơn giản như vậy, Hạ lão
xem là như thế này:
1, Thổ thái vượng, lại khơng có mộc, thổ không sinh kim, trái lại thành thổ nhiều chôn kim. Trong
hiện thực phản ánh ra mệnh chủ cả đời là khơng đắc chí, khơng phải kim vận hoặc mộc vận đều
không được.
2, Thổ thái vượng, thời điểm khuyết kim thiếu mộc thì Tân kim căn bản khơng có thể thơng quan,
thiên can Nhâm thủy thấu ra hoàn toàn là bị khắc. Trong hiện thực phản ánh ra con cái là khơng phát
đạt, hai đứa con trai có chút thành tựu, một khơng có thọ, một thì khơng hề có chút tình nghĩa mà xa
rời mệnh chủ.
Cho nên, bên trong là do chúng ta hàm thụ, tôi phải đặc biệt mà nói rõ cho mọi người biết rằng
phương pháp ngũ hành sinh khắc này đơn giản mà lại là hết sức trọng yếu. Chỗ vượng mà sinh, chỗ
suy mà khắc. Nắm chắc ngũ hành cường vượng nhất hoặc là suy nhược nhất, chính là điểm xuất
phát căn bản để xử lý ngũ hành sinh khắc. Chỉ có như vậy mới có thể thốt khỏi triệt để ngũ hành
tuần hồn tương sinh hoặc là ngũ hành tuần hoàn tương khắc, các loại này mãi mãi là cục diện hỗn
loạn.
Tại sao gọi là " Chỗ vượng mà sinh, chỗ suy mà khắc" chứ? Bát tự ngũ hành hẳn phải là thuận ứng
tự nhiên mà ngũ hành biến hóa, ngũ hành vượng thì giống như nước ở chỗ cao, tất nhiên nó có xu
hướng xuống phía dưới, lúc này thì cần thiết phải có đường đi lưu thơng. Hiển nhiên việc này đường
đi cịn phải thích hợp là lớn hay nhỏ, như vậy dịng nước chảy từ trên núi cao mới có thể an toàn mà
đổ thuận mà đi. Trong bát tự ngũ hành tối vượng là chủ thể của bát tự này, bất luận nó là ngũ hành
nắm lệnh hay là ngũ hành không nắm lệnh, tất nhiên trước tiên là cần phải xử lý vấn đề hướng đi
của vượng thần này, làm sao sắp xếp tốt một vượng thần này, là tiết lộ ra một then chốt cái khăn che
bí mật của mỗi tứ trụ. Tạo ở trên nếu như không nắm chắc vượng thần thổ, thì rất khó phán đốn ra
chuẩn xác. Tạo ở trên phân biệt khó nhất là biểu hiện ra nhất khí thuận sinh, thực tế biến thành đầy
bàn khắc chiến. Vốn dĩ nhất khí thuận sinh hồn tồn chỉ là hình thức mà thơi. Mọi người lại suy
nghĩ kĩ càng một mệnh chủ ở dưới thời kỳ thanh niên hành vận Tân Dậu kim cát hay là hung? Học
viên có thể trả lời chuẩn xác, thuyết minh giảng giải nó đối với trước mặt tơi để có nhận thức chỗ rõ
ràng, cũng nói ra tài nghệ thực sự để nâng cao.
Ví dụ Càn tạo: Mậu Thìn, Kỷ Mùi, Tân Dậu, Nhâm Thìn.
Đại vận: 5t Canh Thân, 15t Tân Dậu, 25t Nhâm Tuất, 35t Quý Hợi, 45t Giáp Tý, 55t Ất Sửu, 65t
Bính Dần.
Page 7
Năm tháng Mậu Kỷ thổ có 4, cịn Tân Dậu kim chỉ có 2, cái này ví như nước q lớn mà kênh
mương quá nhỏ, nếu muốn vững vàng mà lưu thơng là tuyệt đối khơng có thể, hiển nhiên giải quyết
vấn đề thì có hai biện pháp, hoặc là tăng thêm chiều rộng kênh mương, hoặc là chờ ngăn dòng nước
chảy. Mặc dù tứ trụ quyết định là thiếu cơ sở thực tế, nhưng nếu muốn đốn chính xác, một khi
chúng ta cũng không thể rời khỏi thực tế trong cuộc sống. Thực tế mệnh chủ ở vận Tân Dậu dựa vào
đánh bạc mà phát đại tài, còn nổi tiếng khắp nơi, danh lợi song thu tất nhiên là phải đốn đại cát.
Vận Giáp Tý, năm Bính Thìn bị viêm túi mật thiếu chút nữa bệnh chết. Năm 1996, năm Bính Tý
đứng đầu là có đứa con trai chết. Con trai trưởng cũng đi xa, con trai nhỏ là người tàn tật. Bản thân
mệnh chủ cho rằng, vẫn còn hành mộc vận và kim vận, các vận còn lại đều khơng tốt. Thực tế
những chỗ này đều có liên quan cùng với thổ vượng thần.
Ví dụ Càn tạo: Tân Sửu, Bính Thân, Tân Tị, Giáp Ngọ
Đại vận: 7t Ất Mùi, 17t Giáp Ngọ, 27t Quý Tị, 37t Nhâm Thìn, 47t Tân Mão, 57t Canh Dần, 67t Kỷ
Sửu.
Vượng thần không thể trở thành chuyên vượng cách, tất nhiên có hai hướng đi, hoặc là thuận sinh
xuống dưới, hoặc là nhảy qua mà khắc. Tạo này vượng thần là kim, nhất thiết sinh khắc đều bắt đầu
từ kim. Tạo này kim sinh thủy, nhưng lại khơng có thủy để sinh, như vậy kim khắc thẳng Giáp mộc,
Giáp mộc mặc cho bị khảm phạt, tình huống thơng thường cũng khơng có họa lớn. Vậy thì lúc nào
Giáp mộc mới đúng bị khắc chứ? Thực tế là thời điểm Giáp mộc căn dài, mệnh chủ mới có cảm giác
đau khổ bị khắc. Vận Giáp, năm Quý Hợi mất cha, vận Nhâm mùa Đông năm Nhâm Ngọ phá tài.
Trước hết một là lưu niên làm cho Giáp mộc sinh căn, sau là một đại vận làm cho Giáp mộc sinh
căn. Chúng ta đứng ở một góc độ khác để xem tạo này cũng có lý giải rất tốt. Đó chính là tiếp cận
ngũ hành Giáp mộc này là cực nhược, chỉ cần không được sinh phù mặc cho khắc tiết đều vô sự.
Chỗ này cũng thuộc về chỗ tơi nói ngồi một tình huống là: "Chỗ vượng mà sinh, chỗ suy mà khắc".
Sinh khắc chế hóa là giai đoạn bắt đầu phân tích mệnh cục, chỉ cần mọi người theo chỗ này mà biết
sinh khắc ứng với bắt đầu từ đâu, thì tất nhiên có một tiến bộ rõ ràng.
(Hết).
Page 8