Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Quyền tự do kinh doanh theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.3 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

BÙI THỊ HẢI LÝ

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: LUẬT THƯƠNG MẠI
Niên khóa: 2012 - 2016

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
-----------***-----------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

BÙI THỊ HẢI LÝ

QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: LUẬT THƯƠNG MẠI
Niên khóa: 2012 - 2016



Người hướng dẫn khoa học: ThS. Phạm Hoài Huấn
Người thực hiện: Bùi Thị Hải Lý
MSSV: 1253801011669
Lớp: CLC37A


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2016

LỜI CÁM ƠN
Trong q trình nghiên cứu và hồn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân
Luật “Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014”, em đã nhận được
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ từ gia đình, nhà trường, các thầy cơ, bạn bè và các anh
chị tại trung tâm thư viện trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Trước hết, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến giảng viên Thạc sĩ Phạm Hoài
Huấn. Cám ơn Thầy đã dành thời gian, cơng sức, sự nhiệt tình để hướng dẫn và
nhắc nhở, đốc thúc em hồn thành bài khóa luận một cách tốt nhất.
Em cũng xin gửi lời cám ơn đến các anh chị tại Trung tâm thư viện trường Đại
học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giúp đỡ em tìm kiếm tài liệu phục
vụ việc nghiên cứu. Cám ơn anh chị đã ln tận tụy hồn thành tốt cơng việc của
mình.
Qua đây, con xin gửi lời cám ơn đến bố mẹ, gia đình đã ln ủng hộ và bên cạnh
con khơng chỉ trong q trình hồn thành bài khóa luận này. Cám ơn bạn bè đã ln
động viên, chia sẻ để mình có thể tự tin thực hiện tốt bài khóa luận.
Cuối cùng, em xin gửi lời cám ơn đến tồn thể các thầy cơ, cán bộ công nhân
viên của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo ra một mơi trường
học tập lành mạnh, là nơi truyền đạt kiến thức quý báu, vun đắp hành trang pháp lý
cho em trong suốt thời gian 4 năm qua (2012-2016).
Dù đã cố gắng hoàn thành bài khóa luận nhưng có thể vẫn khơng tránh khỏi

những sai sót do năng lực nghiên cứu cịn hạn chế, em rất mong sẽ nhận được ý
kiến đóng góp của thầy cô để học hỏi thêm kinh nghiệm. Em xin chân thành cám
ơn./.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2016.
Sinh viên

Bùi Thị Hải Lý


LỜI CAM ĐOAN
Em tên: Bùi Thị Hải Lý, là sinh viên Khóa 37 Trường Đại học Luật Thành Phố
Hồ Chí Minh, thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật: “Quyền tự do
kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014”.
Em xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng em,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Phạm Hoài Huấn, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2016.
Sinh viên

Bùi Thị Hải Lý


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT TẮT

1


BLDS 2005

2

BLHS

3

BLHS 1999

4
5
6
7
8

CTCP
CTHD
ĐHĐCĐ
DNTN
HĐQT

9

Hiến pháp 2013

10

Luật Chứng khoán 2006


11

Luật Đấu thầu 2013

12

Luật Đầu tư 2005

13

Luật Đầu tư 2014

14

Luật Doanh nghiệp 2005

15

Luật Doanh nghiệp 2014

16

Nghị định 102/2010/NĐ-CP

17

Nghị định 108/2006/NĐ-CP

18


Nghị định 43/2010/NĐ-CP

19

Nghị định 63/2014/NĐ-CP

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự số 33/2005/QH11 ngày
14/6/2005
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 ngày
21/12/1999 sửa đổi bổ sung theo Luật số
37/2009/QH12 ngày 19/6/2009
Công ty cổ phần
Công ty hợp danh
Đại hội đồng cổ đông
Doanh nghiệp tư nhân
Hội đồng quản trị
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ngày 28/11/2013
Luật Chứng khoán 70/2006/QH11 ngày
29/6/2006 sửa đổi bổ sung bởi Luật số
62/2010/QH12 ngày 24/11/2010
Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 ngày
26/11/2013
Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày
29/11/2005
Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày
26/11/2014

Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11
ngày 29/11/2005
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13
ngày 26/11/2014
Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày
1/10/2010 “Hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật Doanh nghiệp”
Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 “Quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu
tư”
Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày
15/04/2010 về “Đăng ký doanh nghiệp”
Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính


20

Nghị định 78/2015/NĐ-CP

21
22
23

TAND
TNHH
TPHCM

24


VCCI

25

VKSND

phủ ngày 26/6/2014 “Quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đấu thầu
về Lựa chọn nhà thầu”
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày
14/9/2015 về “Đăng ký doanh nghiệp”
Tòa án nhân dân
Trách nhiệm hữu hạn
Thành phố Hồ Chí Minh
Phịng Thương mại và công nghiệp Việt
Nam
Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH 6
1.1 Khái quát về quyền tự do kinh doanh
6
1.1.1 Khái niệm kinh doanh.................................................................................6
1.1.2 Khái niệm quyền tự do kinh doanh...........................................................8
1.2 Bảo đảm quyền tự do kinh doanh 11
1.2.1 Yêu cầu phải bảo vệ quyền tự do kinh doanh.........................................11
1.2.2 Phương thức bảo đảm quyền tự do kinh doanh......................................12
CHƯƠNG II. QUYỀN TỰ DO KINH DOANH THEO LUẬT DOANH

NGHIỆP 2014……………………………………………………………………. 15
2.1 Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh 17
2.1.1 Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo quy định pháp luật
............................................................................................................................. 17
2.1.2 Thực trạng quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh....................19
2.2 Quyền tự do thành lập doanh nghiệp
26
2.2.1 Thủ tục thành lập doanh nghiệp..............................................................26
2.2.2 Quyền tự do lựa chọn và chuyển đổi loại hình doanh nghiệp................33
2.3 Quyền tự chủ tổ chức, quản lý của cơng ty cổ phần
36
2.3.1 Mơ hình quản trị công ty..........................................................................36
2.3.2 Cơ chế thông qua quyết định của công ty................................................41
2.4 Một số kiến nghị hoàn thiện Luật Doanh nghiệp 2014 44
2.4.1 Sự tương thích giữa Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn bản pháp luật
chuyên ngành......................................................................................................44
2.4.2 Cơ chế thực thi Luật Doanh nghiệp 2014................................................46
2.4.3 Kiến nghị khác...........................................................................................47
KẾT LUẬN 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật kinh tế Việt Nam luôn ở trong trạng thái vận động, không ngừng cập
nhật, nâng cao chất lượng, phù hợp với những thay đổi của thị trường. Kể từ Đại hội
Đại biểu tồn quốc lần thứ VI, các mơ hình tổ chức kinh doanh ngày càng hoàn
thiện hơn, đáp ứng nhu cầu thực tế của chủ thể kinh doanh. Trong đó phải kể đến
Luật Doanh nghiệp 2014 đã mang lại sự thay đổi tích cực, đột phá trong cải thiện
mơi trường đầu tư, kinh doanh cho các nhà đầu tư trong và ngồi nước, nhất là việc

hiện thực hóa ngun tắc Hiến định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong
những ngành, nghề mà pháp luật không cấm” 1. Quyền tự do lựa chọn ngành nghề
kinh doanh là một khía cạnh cơ bản trong quyền tự do kinh doanh, không chỉ của
cơng dân nói riêng mà cịn là của con người nói chung. Nhìn lại lịch sử lập pháp,
q trình xác lập quyền tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh của các tổ chức, cá
nhân đã phải trải qua ba thời kì: (i) Phải được Nhà nước cho phép trước khi lập
doanh nghiệp (Khoản 1 Điều 13 Luật Công ty (Luật số 47-LCT/HĐNN8) ngày
21/12/1990), (ii) Được đăng ký thành lập doanh nghiệp và kinh doanh các ngành
nghề theo giấy phép đăng ký (Khoản 1 Điều 9 Luật Doanh nghiệp (Luật số
60/2005/QH11) ngày 29/11/2005 (Luật Doanh nghiệp 2005)), (iii) Được kinh doanh
những gì luật khơng cấm hoặc đáp ứng đủ điều kiện của ngành nghề có ghi điều
kiện (Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) ngày 26/11/2014
(Luật Doanh nghiệp 2014)).
Ra đời với mục tiêu cao nhất là làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ
kinh doanh rẻ hơn, an toàn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, tăng cường thu hút
và huy động vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, Luật Doanh nghiệp 2014 nhận
được rất nhiều sự kì vọng. Tuy nhiên, sau hơn một năm đi vào thực tiễn áp dụng,
Luật Doanh nghiệp 2014 đã nhận được những phản hồi chưa tích cực về một số quy
định mang tính cải cách, đơn cử quy định về thủ tục thông báo thay đổi ngành nghề
kinh doanh của doanh nghiệp: người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu
trách nhiệm thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày có thay đổi và cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm xem xét
tính hợp lệ của hồ sơ, thực hiện thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp trong thời
hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo. Như vậy, để có thể tiến hành
kinh doanh ngành nghề chưa được ghi trong Điều lệ công ty ngay khi vừa nắm bắt
cơ hội kinh doanh, doanh nghiệp phải mất ba ngày làm việc để được cơ quan đăng
ký kinh doanh chấp nhận, chưa kể trường hợp nếu hồ sơ thông báo của doanh
nghiệp bị từ chối vì chưa thỏa mãn “tính hợp lệ” thì thời gian này sẽ cịn kéo dài
1


Điều 33 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 28/11/2013 (Hiến pháp 2013)


hơn, có thể làm mất đi cơ hội kinh doanh hoặc thậm chí gây thua lỗ cho doanh
nghiệp. Quy định trên có thể được hiểu: Luật Doanh nghiệp 2014 đã khơng trao cho
doanh nghiệp quyền thích làm gì thì làm, không cần quan tâm đến ngành, nghề kinh
doanh mà chỉ là đổi cách quản lý ngành nghề kinh doanh trên Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp sang Điều lệ công ty. Điều này kéo theo hệ lụy là khi một
doanh nghiệp tìm hiểu về đối tác kinh doanh, họ khơng những phải tìm hiểu về Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà cịn phải tìm hiểu thêm về Điều lệ công ty
của đối tác, gây mất nhiều thời gian hơn so với trước đây thay vì chỉ phải tìm hiểu
ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp.
Thực trạng trên đã thúc đẩy tác giả mạnh dạn lựa chọn “Quyền tự do kinh doanh
theo Luật Doanh nghiệp 2014” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật với hy
vọng sẽ làm sáng tỏ mức độ bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho các chủ thể kinh
doanh của Luật Doanh nghiệp 2014.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự do kinh doanh vốn là một đề tài thu hút được nhiều sự quan tâm chú ý
của các nhà khoa học, các luật gia trong nước. Do vậy, số lượng bài viết về đề tài
này khá đồ sộ, có thể kể qua vài tác phẩm tiêu biểu như:
- Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp
luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia. Tác giả phân tích về
những nội dung cơ bản quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế Việt Nam
dưới sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 1999, Luật Dân sự 1995; đồng thời chỉ
ra những hạn chế của pháp luật về kinh tế nói chung năm 2004, nêu định hướng và
giải pháp cơ bản về xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh doanh nhằm đảm bảo
quyền tự do kinh doanh ở nước ta.
- Phạm Hoài Huấn (chủ biên) (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam: Tình huống
– Dẫn giải – Bình luận, NXB Chính trị quốc gia. Cuốn sách là một tư liệu tham

khảo đáng quý dành cho các cá nhân tổ chức đang có ý định thành lập doanh nghiệp
và cả cá nhân tổ chức đang hoạt động kinh doanh. Các quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2014 được giải thích, bình luận, phân tích trên các tình huống thực tế cho
loại hình doanh nghiệp và các vấn đề pháp lý liên quan. Sách mang đến cho người
đọc cái nhìn tồn diện về những điểm kế thừa, điểm mới và hoàn thiện của các quy
định pháp luật hiện hành; và cách áp dụng pháp luật như thế nào cho thật sự hiệu
quả qua các bản án thực tế đã được xét xử.
- Bùi Xuân Hải (2011), “Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5 (277), trang 68-74, 79. Thoạt đầu bài viết đưa
ra khái niệm về quyền tự do kinh doanh bằng cách tiếp cận các quan điểm khoa học


của các nhà khoa học nổi tiếng như John Locker hay Montesquieu. Tiếp đến, tác giả
đề cập và phân tích cụ thể lý luận và thực tiễn của sáu vấn đề đang còn tồn tại, bao
gồm mặt được và mặt chưa được, về các quy định trong Luật Doanh nghiệp liên
quan đến quyền tự do kinh doanh của công dân.
- Từ Thanh Thảo (2015), Cải cách trong đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu
tư theo Luật doanh nghiệp năm 2014 và Luật đầu tư năm 2014 – nhìn từ góc độ
quyền con người, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, trang 3-19. Bài viết
phân tích các ưu điểm và khuyết điểm trong cải cách Luật Doanh nghiệp 2014 và
Luật Đầu tư 2014 về thủ tục đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tư, đồng thời đề
xuất một số kiến nghị sửa đổi.
Trên đây là bốn bài viết tiêu biểu trong các tư liệu mà tác giả tìm đọc trong quá
trình nghiên cứu đề tài. Các bài viết đã gợi ý cho tác giả cách hiểu về quyền tự do
kinh doanh, pháp luật Việt Nam và pháp luật thế giới quy định như thế nào về
quyền tự do kinh doanh, các bất cập tồn tại ở Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Doanh nghiệp 2014 cùng một số phương hướng giải quyết được đề xuất. Tuy nhiên,
các bài viết này chưa phân tích những vướng mắc trong thực trạng diễn ra gần đây
cũng như các quy định mới về điều kiện kinh doanh kể từ 1/7/2016.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài

Như đã nêu tại phần lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra
những cải cách chưa trọn vẹn của Luật Doanh nghiệp 2014 từ góc độ bảo vệ quyền
tự do kinh doanh của công dân qua các quy định của pháp luật hiện hành.
Bên cạnh những vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự do kinh doanh, đề tài còn đưa
ra những vấn đề thực tiễn thực hiện quyền tự do kinh doanh trên hai phương diện:
quy định pháp luật và cách áp dụng pháp luật trong đời sống thực tế. Từ đó, tác giả
đưa ra ý kiến đề xuất sửa đổi và cách áp dụng pháp luật sao cho quyền tự do kinh
doanh được bảo vệ một cách hiệu quả hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Quyền tự do kinh doanh cùng với các quyền tự do lao động, tự do tiền tệ, tự do
tài chính, tự do đầu tư và tự do tài khóa,… cấu thành các nội dung cơ bản của tự do
kinh tế.2 Trong đó, quyền tự do kinh doanh “được hiểu là hệ thống các quyền được
gắn với chủ thể kinh doanh”3 mà trước tiên và chủ yếu là: quyền tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh; quyền tự do lựa chọn mơ hình kinh doanh; quyền tự do lựa
chọn loại hình tổ chức kinh tế; quyền tự do lựa chọn hình thức, cách huy động vốn;
quyền tự do hợp đồng; quyền tự do lựa chọn hình thức, cách thức giải quyết tranh
2

Trần Quang Tuyến (2009), “Tự do kinh tế và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, số 25 (2009), tr. 227
3
Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr. 23


chấp; quyền tự do cạnh tranh. Thực tế, “khó có thể định nghĩa tự do kinh doanh
bằng phương pháp liệt kê hết các quyền cụ thể của công dân và doanh nghiệp trong
khi sự ghi nhận và thể hiện nó không giống nhau ở các quốc gia trên thế giới. Quan
niệm về tự do kinh doanh thuộc phạm trù ý thức, quyền tự do kinh doanh là một
phạm trù pháp lý…”4. Qua đó, có thể thấy, quyền tự do kinh doanh là một phạm trù

pháp lý vơ cùng rộng, khó có thể bao quát hết được trong dung lượng cho phép của
đề tài khóa luận tốt nghiệp. Do vậy, tác giả xin phép hạn chế nội dung tiếp cận
quyền tự do kinh doanh trên góc độ các quy định pháp luật hiện hành ở ba khía
cạnh:
- Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh;
- Quyền tự do thành lập doanh nghiệp; và
- Quyền tự chủ tổ chức, quản lý của công ty cổ phần.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài “Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014” được tiến hành
nghiên cứu dựa trên các phương pháp:
- Phương pháp tổng hợp: tổng hợp các quy định pháp luật đã được ban hành, bao
gồm Hiến pháp, pháp luật về công ty, doanh nghiệp; tổng hợp các vụ việc thực tế
liên quan đến thực hiện quyền tự do kinh doanh; tổng hợp ý kiến của các chuyên gia
trong ngành về việc thực thi quyền tự do kinh doanh.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: so sánh các quy định của Luật Doanh nghiệp
2014 với các văn bản pháp luật chuyên ngành; quy định của Luật Doanh nghiệp
2014 với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật công ty 2006 Vương quốc Anh; đối chiếu
các vụ việc thực tế với quy định pháp luật.
- Phương pháp phân tích: phân tích các quy định pháp luật liên quan đến quyền
tự do kinh doanh cùng với các vụ việc phát sinh trong thực tiễn.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Khóa luận “Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014” bao gồm hai
chương với nội dung cụ thể như sau:
I. Lý luận chung về quyền tự do kinh doanh;
II. Quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2014./.

4

Bùi Xuân Hải (2011), “Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 5 (277), tr. 69



CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
Kinh doanh là hoạt động có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
của xã hội loài người. Quá trình ra đời và phát triển của kinh doanh gắn liền với nền
sản xuất hàng hóa. Sau ba lần phân công lao động, thương nghiệp xuất hiện cùng
biểu hiện trao đổi, mua bán sản phẩm giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Việc
mua đi bán lại sản phẩm lao động là tiền đề phát triển của kinh doanh. Kinh doanh
và pháp luật về quyền tự do kinh doanh đã nảy sinh những mầm mống đầu tiên
trong bối cảnh hàng hóa được sản xuất khơng chỉ để đáp ứng nhu cầu của chính
người sản xuất ra nó mà cịn để phục vụ cho mục đích trao đổi, mua bán, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người khác. Tại Việt Nam, mặc dù được manh nha từ giai
đoạn trị vì của các triều đại phong kiến nhưng lĩnh vực luật thương mại chỉ thực sự
bắt đầu phát triển khi thực dân Pháp thiết lập nền thống trị ở đây.5
Chương “Lý luận chung về quyền tự do kinh doanh” sẽ tập trung vào các vấn đề
khái niệm kinh doanh, khái niệm quyền tự do kinh doanh, nội hàm của quyền tự do
kinh doanh, vì sao và làm thế nào để bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
1.1 Khái quát về quyền tự do kinh doanh
1.1.1 Khái niệm kinh doanh
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam, kinh doanh (“kinh” có nghĩa là sửa trị,
“doanh” có nghĩa là lo toan làm ăn) là tổ chức hoạt động về mặt kinh tế để gây lợi. 6
Tổ chức hoạt động về mặt kinh tế bao gồm việc sản xuất, buôn bán, dịch vụ. 7
Kinh doanh, có thể hiểu ngắn gọn, là hoạt động tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ
cung cấp cho thị trường để kiếm lời.8 Trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, kinh doanh
là khái niệm nền tảng để xây dựng các quy định pháp luật khác điều chỉnh trong
lĩnh vực này. “Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản
xuất hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phương pháp và biện pháp nhằm tổ chức
các hoạt động kinh tế, phản ánh quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm mục đích thu về
một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu.”9

Giáo trình “Lý thuyết quản trị kinh doanh” của trường Đại học kinh tế quốc dân
đưa ra khái niệm “kinh doanh” là hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các
chủ thể kinh doanh trên thị trường.
5

Lê Tài Triển (1972), Luật Thương mại Việt Nam dẫn giải quyển I, Sài Gòn, tr. 5 được trích dẫn tại Nguyễn
Văn Tuyến (2010), “Hành vi pháp luật trong hoạt động kinh doanh”, Tạp chí Luật học, số 11/2010, tr. 53
6
Nguyễn Lân (2004), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh, tr. 994
7
Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr. 528
8
Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2013), Giáo trình quản trị kinh doanh tập I, NXB Đại học kinh tế quốc
dân, tr. 52
9
Bùi Ngọc Cường, tlđd (3), tr. 11


Kinh doanh được phân biệt với các hoạt động khác bởi các đặc điểm chủ yếu
sau:
- Kinh doanh phải do một chủ thể thực hiện gọi là chủ thể kinh doanh. Chủ
thể kinh doanh có thể là các cá nhân, các hộ gia đình, các doanh nghiệp.
- Kinh doanh phải gắn liền với thị trường. Thị trường và kinh doanh đi liền
với nhau như hình với bóng – khơng có thị trường thì khơng có khái niệm
kinh doanh.
- Kinh doanh phải gắn với vận động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh
khơng chỉ có vốn mà cịn phải biết cách thực hiện vận động đồng vốn đó
khơng ngừng. Nếu gạt bỏ nguồn gốc bóc lột trong cơng thức tư bản của C.
Mác, có thể xem cơng thức này là cơng thức kinh doanh: T – H – SX … - H’
– T’: chủ thể kinh doanh dùng vốn của mình dưới hình thức tiền tệ (T) mua

những tư liệu sản xuất (H) để sản xuất (SX) ra những hàng hóa (H’) theo nhu
cầu của thị trường rồi đem những hàng hóa này bán cho khách hàng trên thị
trường nhằm thu được số lượng tiền tệ lớn hơn (T’).
- Mục đích chủ yếu của kinh doanh là sinh lời – lợi nhuận (T’ – T > 0). 10
Theo đó, hoạt động kinh doanh không chỉ đơn giản là hoạt động lưu thông, trao
đổi buôn bán mà kinh doanh là cả một cơng đoạn trong q trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ hay cung ứng dịch vụ. Hoạt động này phải thỏa mãn yêu cầu thường
xuyên, liên tục, nghĩa là kinh doanh phải được kéo dài; chu trình đầu tư, sản xuất và
tiêu thụ, thu lợi nhuận và tái đầu tư phải được diễn ra liên tục chứ không chỉ diễn ra
một lần duy nhất.
Cách giải thích này khiến người đọc liên tưởng đến hoạt động thương mại. Thật
vậy, “hoạt động thương mại cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng với mục đích thu
được lợi nhuận mang bản chất là hoạt động kinh doanh”11. Hoạt động thương mại
(hay hành vi thương mại12), theo cách hiểu thông thường, là hành vi mua bán, trao
đổi, giao lưu hàng hóa, dịch vụ trên cơ sở thỏa thuận. 13 Cùng với sự phát triển của
các quan hệ thương mại và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, ngày nay, khái
niệm “hành vi thương mại” thường được hiểu theo nghĩa rộng, đồng nghĩa với
“hành vi kinh doanh”14.
10

Trường Đại học kinh tế quốc dân , “Giáo trình lý thuyết quản trị kinh doanh”,
/>truy cập ngày 26/5/2016.
11

Trường Đại học kinh tế quốc dân, tlđd (8), tr. 52
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và
dịch vụ, NXB Hồng Đức, tr. 32. Giáo trình cho rằng nội hàm của các khái niệm “hoạt động thương mại” và
“hành vi thương mại” không cho thấy rõ có gì khác biệt nhau, vậy nên việc sử dụng khái niệm nào chỉ là vấn
đề lựa chọn ngôn ngữ.
13

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thương mại tập 1, NXB Lao động, tr. 20
14
Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Hướng dẫn môn học Luật Thương mại tập 1, NXB Lao động, tr. 10
12


Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH11) ngày 14/6/2005 đưa
ra khái niệm hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác. Hoạt động thương mại cũng bao gồm các đặc điểm
tương đồng với hoạt động kinh doanh: (i) Chủ thể thực hiện hành vi thương mại: là
tổ chức, cá nhân, gọi chung là người kinh doanh hoặc người thực hiện hành vi
thương mại; (ii) Nội dung công việc thuộc về hành vi thương mại: là các cơng đoạn
của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường; (iii) Mức độ thực hiện hành vi: các công việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường được thực hiện một cách liên tục, thường
xuyên; (iv) Mục đích của chủ thể khi thực hiện hành vi thương mại là mục đích sinh
lợi.15
Vậy, có thể hiểu rộng rằng việc sản xuất hoặc cung cấp bất kỳ dịch vụ gì đáp
ứng một nhu cầu cụ thể của con người nhằm mục đích kiếm lời được gọi là hoạt
động kinh doanh.16 Đặc điểm của kinh doanh gồm có: (i) kinh doanh bao gồm một
hoặc một số khâu trong quá trình sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ; (ii) kinh
doanh được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh có ý nghĩa quan trọng
trong vai trị thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng, phát triển cuộc sống con
người ngày một tốt đẹp hơn. Để kinh doanh phát huy tốt vai trị của nó, xã hội cần
bảo đảm cho con người quyền tự do kinh doanh.
1.1.2 Khái niệm quyền tự do kinh doanh
“Tự do kinh doanh về thực chất là khả năng của chủ thể được thực hiện những
hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp dịch vụ kinh doanh dưới những
hình thức thích hợp với khả năng vốn, khả năng quản lý của mình nhằm thu lợi

nhuận.”17 Chủ thể của quyền tự do kinh doanh chính là con người nói chung. Khoa
học pháp lý hiện đại có hai khái niệm khi nhắc đến chủ thể của nhân quyền, đó là:
“con người” và “cơng dân”. Xét về độ rộng hẹp của khái niệm, “con người” có
phạm vi bao qt hơn “cơng dân”. “Cơng dân” là người có quốc tịch của một quốc
gia nhất định, cịn “con người” là khái niệm bao hàm tất cả mọi người, bất kể có
quốc tịch hay khơng (người nước ngồi, người khơng có quốc tịch, người bị tước
quyền cơng dân). Thực chất, các quy định về quyền tự do, về nhân quyền ở các văn
bản được nhắc đến ở trên đều hướng tới chủ thể là con người. Đây là cách quy định
pháp luật có tính nhân văn sâu sắc, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của tất cả mọi
người với tư cách là một thực thể tự nhiên – xã hội.
15

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (14), tr. 10-11
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, tlđd (8), tr. 52
17
Bùi Ngọc Cường (2002), “Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh”, Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 7 (14), tr. 25
16


Quyền tự do kinh doanh là một phạm trù pháp lý được xem xét dưới hai góc độ:
quyền chủ thể và chế định pháp luật. Ở góc độ quyền chủ thể, quyền tự do kinh
doanh có nghĩa là chủ thể kinh doanh có quyền tự do tiến hành các hoạt động phục
vụ mục đích kinh doanh: tự do lựa chọn ngành nghề, địa điểm, mơ hình kinh doanh;
tự do lựa chọn đối tác, phương thức cạnh tranh; tự do định đoạt vốn, tổ chức quản lý
doanh nghiệp… Ở góc độ chế định pháp luật, quyền tự do kinh doanh được thực
hiện thông qua hệ thống quy phạm pháp luật mà Nhà nước ban hành. Các quy định
này bảo đảm việc thực thi quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
“Mọi người, khi không vi phạm luật pháp, được phép hồn tồn tự do mưu cầu lợi
ích của bản thân theo cách riêng của mình và được phép đem sự siêng năng và đồng

vốn của mình cạnh tranh với bất kì người hoặc nhóm nào khác.” 18 Luận điểm của
Adam Smith đã cho thấy: rõ ràng kể từ khi học thuyết pháp quyền ra đời, tự do kinh
doanh phải nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Pháp luật vừa tạo hành
lang pháp lý cho các chủ thể kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh doanh, vừa là
rào cản bảo đảm cho việc tự do kinh doanh của một chủ thể không lấn át quyền tự
do kinh doanh của một chủ thể khác. Tuy nhiên, “không thể và không nên hiểu đơn
thuần tự do là phải và chỉ làm đúng theo những qui định của pháp luật, bởi vì, Nhà
nước có thể sử dụng pháp luật để hạn chế một cách quá đáng hoặc không ghi nhận
quyền tự do của cơng dân” 19. Vì vậy, vấn đề mấu chốt đặt ra cho các nhà lập pháp
chính là pháp luật phải thật sự bảo đảm quyền tự do kinh doanh; cán bộ, công chức,
cơ quan Nhà nước, khi thực hiện công việc chuyên môn, nhất định phải tôn trọng
quyền tự do kinh doanh.
Dựa trên khái niệm kinh doanh, có thể xác định nội hàm của quyền tự do kinh
doanh bao gồm các quyền tự do thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường. Trong đó bao gồm các nội dung chủ yếu: (i) Quyền tự do thành lập
doanh nghiệp (lựa chọn ngành nghề, địa bàn, hình thức và quy mơ kinh doanh); (ii)
Quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; (iii)
Quyền quản trị doanh nghiệp; (iv) Quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp; (v) Quyền
bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh; (vi) Quyền tự do ký kết hợp đồng; (vii)
Quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Trong phạm vi tiếp cận của đề tài, tác giả phân tích một vài khía cạnh cơ bản của
quyền tự do kinh doanh, đó là: quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh; quyền
tự do thành lập doanh nghiệp và quyền tự chủ tổ chức, quản lý của công ty cổ phần.
18

Mark Skousen, “The Big Three in Economics: Adam Smith, Karl Marx, And John Maynard Keynes”,
truy cập 27/5/2016.
19
Bùi Xuân Hải, tlđd (4), tr. 11



Thứ nhất, quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh là quyền mà chủ thể
được kinh doanh những gì luật không cấm. Việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh
của doanh nghiệp bị giới hạn bởi quy định của pháp luật quốc gia. Luật pháp chia
ngành nghề kinh doanh thành ba nhóm: nhóm ngành, nghề cấm kinh doanh; nhóm
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và nhóm ngành, nghề kinh doanh cịn lại. Tùy
theo lợi ích cơng cộng, giá trị cốt lõi mà Nhà nước muốn bảo vệ như lợi ích chính
trị, an ninh quốc gia, lợi ích văn hóa xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc
mà phạm vi giới hạn của từng quốc gia sẽ khác nhau. Đơn cử, có thể thấy ở các
quốc gia như Brazil, Canada, Isarel,… hợp pháp hóa ngành nghề mại dâm hay
Australia, Singapore, Tây Ban Nha,… cho phép công dân được quyền kinh doanh
ngành, nghề casino nhưng ở Việt Nam, các ngành nghề này bị liệt vào danh mục
cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện vì lý do vi phạm nghiêm trọng đạo
đức, an ninh xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cuộc sống cũng đặt ra yêu cầu các quy
định về ngành, nghề cấm kinh doanh hay điều kiện cho các ngành, nghề kinh doanh
có điều kiện phải minh bạch, rõ ràng và thủ tục gọn ghẽ, tối thiểu hóa sự phương hại
quyền tự do kinh doanh.
Thứ hai, quyền tự do thành lập doanh nghiệp là nhóm quyền đầu tiên của chủ
thể kinh doanh khi bắt đầu tiến hành kinh doanh. Quyền tự do thành lập doanh
nghiệp bao gồm các quy định về chủ thể, trình tự, thủ tục thành lập, tên và con dấu
doanh nghiệp; lựa chọn, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. Trong đề tài này, quyền
tự do thành lập doanh nghiệp tập trung vào vấn đề thủ tục đăng ký thành lập doanh
nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh và quyền tự do lựa chọn, chuyển đổi loại
hình doanh nghiệp. Cải cách Luật Doanh nghiệp 2014 đã dành sự quan tâm ưu ái tới
tất cả các vấn đề nêu trên, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp gia nhập thị
trường, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh quốc gia trên đấu trường quốc tế.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật đã xảy ra những sự việc không như dự kiến
ban đầu, để lại bài học kinh nghiệm cho các chủ thể kinh doanh và cơ quan quản lý
Nhà nước.

Thứ ba, quyền tự chủ tổ chức, quản lý của công ty cổ phần. Cơng ty cổ phần là
loại hình cơng ty dành được nhiều sự quan tâm của Nhà nước và xã hội bởi tính thu
hút và sử dụng nguồn vốn lớn. Tổ chức, quản lý doanh nghiệp hay còn gọi là quản
trị doanh nghiệp, “là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ
doanh nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất tiềm năng và cơ hội để thực hiện hoạt
động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo
đúng luật định và thông lệ xã hội” 20. Quản trị cơng ty chỉ được cho là có hiệu quả
20

Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2013), Giáo trình Quản trị doanh nghiệp, NXB Đại học Kinh tế quốc
dân, tr. 8


khi khích lệ được Ban giám đốc và Hội đồng quản trị (HĐQT) theo đuổi được các
mục tiêu vì lợi ích của công và của các cổ đông, cũng như phải tạo điều kiện thuận
lợi cho việc giám sát hoạt động của cơng ty một cách hiệu quả, từ đó khuyến khích
cơng ty sử dụng nguồn lực một cách tốt hơn. 21 Như vậy, muốn thành công trong
kinh doanh, chủ doanh nghiệp phải hoàn toàn nắm trong tay quyền quản trị doanh
nghiệp mà không bị chủ thể khác ngăn cản, cản trở quá trình thực hiện. Để bảo đảm
được điều này, pháp luật cần đưa ra các quy định quản trị doanh nghiệp phù hợp với
thực tiễn áp dụng như quy định về mơ hình quản trị, tỷ lệ tối thiểu tiến hành họp
hay thông qua các quyết định của Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ), HĐQT, cơ chế
bảo vệ cổ đông thiểu số của công ty cổ phần,…
1.2 Bảo đảm quyền tự do kinh doanh
1.2.1 Yêu cầu phải bảo vệ quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là một quyền cơ bản trong các quyền tự do của con
người. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 nêu rõ “Các
quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm
quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng cơng việc do họ tự do lựa
chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp để đảm

bảo quyền này.” Việc công nhận và bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho mọi người
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tự
do kinh doanh thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, đưa mọi quốc gia tiến đến sự giàu có,
hưng thịnh; đồng thời bảo đảm vấn đề dân chủ và an ninh quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế thể hiện ở mức thu nhập của người dân tăng cao, phúc lợi
xã hội và chất lượng cuộc sống đều cải thiện: chất lượng y tế tốt; tuổi thọ trung bình
tăng; giáo dục, văn hóa phát triển; trẻ em được đi học, được bảo đảm phát triển thể
chất đầy đủ. Tự do kinh doanh khơng chỉ thúc đẩy mà cịn duy trì quá trình tăng
trưởng kinh tế bền vững, bảo đảm khả năng sản xuất và trao đổi hàng hóa, giải
phóng năng lực của con người. Kinh tế phát triển khiến đời sống con người được
cải thiện, giảm tỷ lệ đói nghèo và khoảng cách xã hội, mang lại công bằng xã hội
không chỉ dành cho bất cứ một cá nhân riêng lẻ nào. Quyền tự do kinh doanh được
bảo đảm thực hiện bởi các quy định pháp luật sẽ dẫn đến “sự đổi mới” hành vi
doanh nhân. Tự do kinh doanh cho phép các doanh nhân tiến hành mở rộng phạm vi
ngành nghề kinh doanh, sáng tạo ngành nghề kinh doanh mới, chủ động ứng dụng
khoa học, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
Việc sáng tạo ngành nghề kinh doanh và ứng dụng cơng nghệ khoa học cịn là động
21

Bộ ngun tắc quản trị công ty của các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển được trích dẫn tại Lê Vũ
Nam (2012), “Đánh giá khung pháp lý về quản trị công ty và các kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 14 (222) tháng 7/2012, tr. 38


lực phát triển cho ngành khoa học sản xuất. Joseph Schumpeter, nhà khoa học chính
trị và kinh tế người Mĩ, khẳng định hành vi doanh nhân là nguyên nhân quan trọng
của việc phát triển kinh tế.22 Sự đổi mới hành vi doanh nhân theo hướng tự do kinh
doanh sẽ mở rộng phạm vi kinh doanh, quy mô kinh doanh, ứng dụng khoa học
công nghệ kĩ thuật tiên tiến, tăng cường cạnh tranh lành mạnh và hệ quả tất yếu là
kinh tế phát triển. Một khi kinh tế phát triển thì khoảng cách giàu nghèo cũng được

cải thiện. Từ đó, góp phần giảm tỷ lệ tội phạm, an ninh quốc gia được nâng cao.
Quyền tự do kinh doanh còn bảo đảm vấn đề dân chủ và an ninh quốc gia.
Quyền tự do kinh doanh bản thân nó là sự biểu hiện của quyền tự do dân chủ. 23 Dân
chủ được thể hiện đầy đủ khi cơng dân có tiếng nói trong xã hội, nghĩa là mọi
nguyện vọng, nhu cầu, mong muốn của người dân được Chính phủ, cơ quan Nhà
nước lắng nghe và thực hiện trong khả năng có thể. Quyền tự do kinh doanh cũng
không ngoại lệ. Con người luôn khát khao được tự do kinh doanh. Có tự do kinh
doanh, con người có thể đứng ra thành lập doanh nghiệp, sáng tạo ngành nghề mới,
đầu tư nguồn vốn và thu về lợi nhuận. Việc Nhà nước bảo đảm quyền dân chủ của
cơng dân sẽ góp phần giữ vững an ninh quốc gia khi bất cứ người dân nào cũng
chăm chỉ làm ăn, phát triển kinh tế. Kinh tế phát triển bảo đảm công bằng xã hội.
“Tăng trưởng và phát triển kinh tế là điều kiện tiên quyết và cơ bản để giải quyết
công bằng xã hội. Công bằng xã hội vừa là mục tiêu phấn đấu của nhân loại, vừa là
động lực quan trọng của sự phát triển. Mức độ cơng bằng xã hội càng cao thì trình
độ phát triển, trình độ văn minh của xã hội càng có cơ sở bền vững.”24
1.2.2 Phương thức bảo đảm quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh được bảo đảm bằng việc doanh nghiệp được làm những
gì luật “khơng cấm”, cán bộ cơng chức Nhà nước được làm những gì luật “cho
phép”. Điều này có nghĩa phương thức bảo đảm quyền tự do kinh doanh chính là
doanh nghiệp được quyền tự do lựa chọn hình thức tổ chức, ngành nghề, địa bàn,
quy mơ kinh doanh, tìm kiếm thị trường, kí kết hợp đồng,… mà không vi phạm điều
cấm của pháp luật; trong khi các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước chỉ được
quyền làm những gì luật định, khơng được phép tự ý can thiệp vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, chủ thể kinh doanh.
Quyền tự do kinh doanh được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/4/1992: “Cơng dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật”. Quy định này được thể chế hóa tại Bộ Luật
22

Hoàng Xuân Trung, “Nghiên cứu của CEPR: Mối quan hệ của tự do kinh tế, hành vi doanh nhân và tăng

trưởng kinh tế”, truy cập 28/5/2016.
23
Bùi Ngọc Cường, tlđd (3), tr. 43
24
Phạm Quang Phan – Tô Đức Hạnh (2008), Khái lược Kinh tế chính trị Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc
gia, tr. 44


Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/6/2005 (BLDS 2005): “Quyền tự do kinh
doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền lựa
chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết
hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật” và
Luật Doanh nghiệp 2005: “Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền
kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật không cấm”, cùng với Luật Đầu tư (Luật
số 59/2005/QH11) ngày 29/11/2005 (Luật Đầu tư 2005): “Nhà đầu tư được đầu tư
trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết
định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Dù vậy, quyền tự do
kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 2005 vẫn bị hạn chế ở chỗ doanh nghiệp phải
hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh
doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.25
Dưới sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2014, chủ thể kinh doanh được
quyền: (i) Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm; (ii) Tự
chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn
ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành,
nghề kinh doanh; (iii) Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử
dụng vốn; (iv) Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; (v)
Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; (vi) Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo
yêu cầu kinh doanh; (vii) Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao
hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh; (viii) Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt

tài sản của doanh nghiệp; (ix) Từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy
định của pháp luật; (x) Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại,
tố cáo; (xi) Tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật; (xii) Quyền khác theo
quy định của Luật có liên quan. Trong đó, quyền tự do kinh doanh những ngành,
nghề mà luật không cấm đã thể chế hóa quyền Hiến định theo quy định tại Điều 33
Hiến pháp 2013: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành, nghề
mà pháp luật khơng cấm.” Bên cạnh đó, Nhà nước cơng nhận sự tồn tại lâu dài và
phát triển của các loại hình doanh nghiệp theo Luật định; bảo đảm bình đẳng trước
pháp luật của các doanh nghiệp khơng phân biệt hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh; công nhận và
bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp
khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp.26

25
26

Điều 9 Luật Doanh nghiệp 2005
Điều 5 Luật Doanh nghiệp 2014


Nhằm hạn chế sự can thiệp trái phép của cơ quan Nhà nước vào hoạt động của
doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp 2014 đưa ra quy định cấm cơ quan đăng ký kinh
doanh yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm giấy tờ khác trái với quy
định của Luật này; gây chậm trễ, phiền hà, cản trở, sách nhiễu người thành lập
doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời, Luật Đầu tư
(Luật số 67/2014/QH13) ngày 26/11/2014 (Luật Đầu tư 2014) chỉ cho phép ba cơ
quan có thẩm quyền quy định về ngành nghề bị cấm kinh doanh là Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ dưới ba hình thức văn bản Luật, Pháp lệnh
và Nghị định. Các văn bản khác như thông tư, các văn bản của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân không được quy định về điều kiện

của các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Cũng theo quy định của Luật này,
Chính phủ rà soát các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và các ngành, nghề đầu
tư kinh doanh có điều kiện căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu quản lý Nhà
nước trong từng thời kì chứ khơng cịn quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung Danh
mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện như Luật Đầu tư 2005 nữa. Quyền sửa đổi, bổ
sung các điều kiện này thuộc về Quốc hội.27
Thực tế, hiện nay vẫn chưa có cơ chế bảo đảm quyền tự do kinh doanh như một
quyền cơ bản của con người. Khi doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp bị xâm phạm
quyền tự do kinh doanh, phương thức duy nhất để bảo vệ quyền lợi là các chủ thể
này tiến hành khiếu nại và khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan hành chính Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
Nhà nước theo quy định của Luật Khiếu nại (Luật số 02/2011/QH13) ngày
11/11/2011 và Luật Tố tụng hành chính (Luật số 93/2015/QH13) ngày 25/11/2015.
Theo đó, tổ chức kinh tế có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính Nhà
nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong thời hạn 30 hoặc 45 ngày kể từ ngày hết
thời hạn giải quyết khiếu nại lần một, người khiếu nại có quyền khiếu nại lần hai
hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành
chính.
Đồng thời, Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép doanh nghiệp có quyền khiếu nại,
tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Đối với nội bộ công ty:
thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên tự mình,
hoặc nhân danh cơng ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, người đại diện theo pháp luật và cán bộ
quản lý khác vi phạm nghĩa vụ của người quản lý; cổ đơng, nhóm cổ đơng sở hữu ít
27

Khoản 3 Điều 7; Điều 8 Luật Đầu tư 2014



nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn sáu tháng có quyền tự mình
hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Phòng đăng ký kinh doanh
chậm thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy xác nhận về việc
thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp hoặc không được thay đổi nội dung đăng
ký doanh nghiệp trong cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp mà không
thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì người thành lập
doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo. Các tranh chấp, khiếu nại và hành vi vi phạm liên quan đến việc
quản lý, sử dụng chữ ký số công cộng, tài khoản đăng ký kinh doanh thực hiện theo
quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, cách giải quyết này thực sự gây tốn kém về mặt thời gian và tiền bạc
cho doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp. Sẽ tốt hơn nếu quyền tự do kinh doanh
được bảo đảm ngay từ khi các chủ thể kinh doanh thực hiện quyền tự do kinh
doanh.
KẾT LUẬN CHƯƠNG
Kinh doanh là hệ quả tất yếu của xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, cung
cấp và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của con người. Quyền tự do kinh doanh được biết
đến như một phần khơng thể thiếu trong nhóm quyền con người – nhóm quyền cơ
bản tồn tại trong xã hội. Đi sâu vào tìm hiểu về nội hàm quyền tự do kinh doanh, có
thể thấy quyền tự do kinh doanh là một phạm trù pháp lý có phạm vi tương đối
rộng, bao phủ khắp các quyền tự do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh; quyền tự do
góp vốn, định đoạt vốn; quyền quản lý; quyết định các vấn đề điều hành doanh
nghiệp; quyền tự do hợp đồng; quyền tự do cạnh tranh…
Quyền tự do kinh doanh đóng một vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng, phát triển cuộc sống con người, bảo vệ an ninh quốc gia. Điều kiện tiên
quyết để chủ thể kinh doanh muốn thực hiện các quyền này chính là Nhà nước phải
ghi nhận và bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền tự do
kinh doanh vẫn bị xâm phạm bởi một số tổ chức, cá nhân kém hiểu biết hoặc lạm

dụng chức vụ, quyền hành do chưa có cơ chế bảo đảm quyền tự do kinh doanh.
Những vi phạm này đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để giữ
vững môi trường kinh doanh tự do và lành mạnh./.


CHƯƠNG II. QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2014 liệt kê hàng loạt các quyền tự do của doanh
nghiệp. Trong đó các quyền cơ bản là: tự do kinh doanh trong những ngành, nghề
mà luật không cấm; tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh;
chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh
quy mô và ngành, nghề kinh doanh 28. Quyền tự do kinh doanh cịn bao gồm lựa
chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn; chủ động tìm kiếm
thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; khiếu
nại, tố cáo, tố tụng,…
Nhìn từ góc độ của pháp luật doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh bao gồm
các nhóm: quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh; quyền tự do thành lập
doanh nghiệp; và quyền tự chủ tổ chức, quản lý của công ty cổ phần.
2.1 Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh
2.1.1 Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh theo quy định pháp luật
Với mục đích thể chế hóa ngun tắc Hiến định “Mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, khoản 1 Điều 7 Luật
Doanh nghiệp 2014 quy định minh thị doanh nghiệp có quyền “tự do kinh danh
trong những ngành nghề mà luật không cấm.” Quyền tự do lựa chọn ngành, nghề
kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành ba mức độ: ngành, nghề cấm kinh
doanh; ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; và ngành, nghề kinh doanh còn lại.
Hiện nay, Luật Đầu tư 2014 liệt kê sáu hoạt động cấm đầu tư kinh doanh, bao gồm:
(i) Kinh doanh các chất ma túy theo quy định tại Phụ lục 1 của Luật Đầu tư; (ii)
Kinh doanh các loại hóa chất, khống vật quy định tại Phụ lục 2 của Luật Đầu tư;
(iii) Kinh doanh mẫu vật các loại thực vật, động vật hoang dã theo quy định tại Phụ

lục 1 của Công ước về bn bán quốc tế các lồi thực vật, động vật hoang dã nguy
cấp; mẫu vật các loại động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm Nhóm I có
nguồn gốc từ tự nhiên theo quy định tại Phụ lục 3 của Luật này; (iv) Kinh doanh
mại dâm; (v) Mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người; (vi) Hoạt động kinh doanh
liên quan đến sinh sản vơ tính trên người.
Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014 thống nhất quy định sáu ngành
nghề cấm đầu tư kinh doanh. Đây là một quy định có tính cải cách cao so với Luật
Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005. Luật Đầu tư 2005 chỉ quy định bốn lĩnh
vực cấm đầu tư: Các dự án gây phương hại đến quốc phịng, an ninh quốc gia và lợi
28

Phạm Hồi Huấn (chủ biên) (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam: tình huống – dẫn giải – bình luận, NXB
Chính trị quốc gia, tr. 56


ích công cộng; (ii) Các dự án gây phương hại đến di tích lịch sử, văn hố, đạo đức,
thuần phong mỹ tục Việt Nam; (iii) Các dự án gây tổn hại đến sức khỏe nhân dân,
làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường; (iv) Các dự án xử lý phế thải độc hại
đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác
nhân độc hại bị cấm theo điều ước quốc tế. Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày
22/9/2006 “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư”
(Nghị định 108/2006/NĐ-CP) ban hành kèm theo danh mục lĩnh vực cấm đầu tư
gồm 12 lĩnh vực thuộc năm nhóm dự án. Danh mục này chỉ quy định chung chung,
khơng rõ ràng và có chỗ khơng hợp lý, ví dụ quy định về cấm kinh doanh các loại
phế liệu nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường, các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ
bên ngoài vào Việt Nam đặt ra câu hỏi “liệu có được phép kinh doanh sản phẩm hay
phế liệu không nhập khẩu gây ô nhiễm môi trường?”. Bên cạnh đó, Nghị định số
102/2010/NĐ-CP ngày 1/10/2010 “Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Luật Doanh nghiệp” (Nghị định 102/2010/NĐ-CP) cũng đưa ra danh mục gồm 12
ngành, nghề cấm kinh doanh. So với danh mục lĩnh vực cấm đầu tư của Nghị định

108/2006/NĐ-CP, danh mục ngành, nghề cấm kinh doanh của Nghị định
102/2010/NĐ-CP liệt kê thêm một vài ngành, nghề cấm kinh doanh như: kinh
doanh các loại pháo; kinh doanh tổ chức đánh bạc, gá bạc trái phép dưới mọi hình
thức; kinh doanh dịch vụ mơi giới kết hơn có yếu tố nước ngoài,… Các quy định về
lĩnh vực cấm đầu tư và các ngành, nghề cấm kinh doanh này có một khối lượng khá
lớn, thậm chí có sự mâu thuẫn như: Nghị định 102/2010/NĐ-CP quy định cấm kinh
doanh dịch vụ đánh bạc, gá bạc dưới mọi hình thức trong khi Nghị định
108/2006/NĐ-CP lại cho phép kinh doanh casino với tư cách lĩnh vực đầu tư có
điều kiện.
Quyền tự do kinh doanh nói chung không chỉ được bảo đảm trong Luật Doanh
nghiệp 2014 mà cịn được bảo đảm trong Bộ luật Hình sự (BLHS) khi “Nhà nước
chủ trương tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế - dân sự, tôn trọng và bảo đảm
nguyên tắc người dân, doanh nghiệp được kinh doanh những gì mà pháp luật khơng
cấm”29. BLHS (Luật số 100/2015/QH13) ngày 27/11/201530 đã bãi bỏ tội danh kinh
doanh trái phép. Trước đó, theo quy định tại Điều 159 BLHS (Luật số
15/1999/QH10) ngày 21/12/1999 sửa đổi bổ sung theo Luật số 37/2009/QH12 ngày
29

Đoàn Thanh Vũ (2016), “Bàn về quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam trong bối cảnh mới”, Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, số 10 tháng 5/2016, tr. 4
30
BLHS 2015 đã lùi hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành theo quy định tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội
ngày 29/6/2016 “Về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng Hình
sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra Hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm
giam số 94/2015/QH13 và bổ sung dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số
100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016”.


19/6/2009 (BLHS 1999), kinh doanh trái phép là kinh doanh khơng có đăng ký kinh

doanh, kinh doanh khơng đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh khơng có
giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép thuộc một
trong các trường hợp sau đây: (i) đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị
kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156,
157, 158, 160, 161, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 BLHS, chưa
được xóa án tích mà cịn vi phạm; (ii) hàng phạm pháp có giá trị từ một trăm triệu
đồng đến dưới ba trăm triệu đồng. Nay, với sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp
2014 và BLHS 2015, không người dân nào phải chịu trách nhiệm hình sự khi kinh
doanh khơng có đăng ký kinh doanh hay không đúng nội dung đã đăng ký.
Ngoại trừ sáu hoạt động đầu tư kinh doanh bị cấm nêu trên, người dân được
quyền kinh doanh ngành nghề kinh doanh có điều kiện và những ngành nghề cịn
lại; trong đó có 268 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện được quy định tại phụ lục
4 Luật Đầu tư 2014. Trước đây, để tìm hiểu thơng tin về điều kiện của ngành, nghề
kinh doanh có điều kiện, chủ thể kinh doanh phải tự tìm hiểu các văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, các Bộ, các ngành thì nay các điều kiện này đã được tập
hợp và công bố trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp quốc gia.
Danh mục cụ thể này được phân chia theo 16 ngành, lĩnh vực, gồm an ninh quốc
phòng, tư pháp, tài chính, cơng thương, lao động, thương binh và xã hội, giao thông
– vận tải, xây dựng, thông tin – truyền thông, giáo dục – đào tạo, nông nghiệp và
phát triển nông thôn, kế hoạch và đầu tư, y tế, khoa học và cơng nghệ, văn hóa, thể
thao và du lịch, tài nguyên và môi trường, ngân hàng.
2.1.2 Thực trạng quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh
Quy định không ghi ngành nghề kinh doanh lên Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp
Việc bỏ ghi ngành, nghề kinh doanh lên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
được xem là cải cách quan trọng của Luật Doanh nghiệp 2014 khi đã chuyển từ
doanh nghiệp chỉ được quyền kinh doanh theo những ngành, nghề mà Nhà nước
“cho phép” sang những ngành, nghề mà Nhà nước “không cấm”. Đồng thời quy
định này chuyển đổi phương thức quản lý “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, nghĩa là ở
giai đoạn đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp chưa phải đáp ứng điều kiện kinh

doanh, yêu cầu về chứng chỉ hành nghề, xác nhận vốn pháp định trong hồ sơ đăng
ký doanh nghiệp. Quy định không yêu cầu điều kiện kinh doanh khi thành lập
doanh nghiệp là bước cải cách xác đáng bởi “đăng ký kinh doanh là một thủ tục
hành chính mà ở đó nhà đầu tư cơng khai hóa sự ra đời của mình với giới thương
nhân, cịn Nhà nước thì thừa nhận tư cách pháp lý, đồng thời cam kết bảo hộ quyền


và lợi ích hợp pháp của họ”31; việc bảo đảm các điều kiện tiến hành kinh doanh là
việc khi doanh nghiệp đã đi vào hoạt động. Lúc này, cơ quan quản lý Nhà nước chỉ
chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, không chịu trách
nhiệm về những vi phạm của doanh nghiệp xảy ra trước và sau khi đăng ký doanh
nghiệp.32 Đây được xem là một bước tiến mới trong cải cách Luật Doanh nghiệp của
các nhà lập pháp ở nước ta. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kĩ một số quy định liên quan
đến vấn đề này sẽ thấy cải cách bỏ ghi ngành nghề kinh doanh lên Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp chưa thực sự hoàn thiện.
Điều 25 Luật Doanh nghiệp 2014 u cầu Điều lệ cơng ty phải có ghi ngành,
nghề kinh doanh của doanh nghiệp; việc thay đổi, bổ sung Điều lệ phải có họ, tên
và chữ ký của những người sau đây: (i) Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công
ty hợp danh (CTHD); (ii) Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu
hoặc người đại diện theo pháp luật đối với công ty TNHH một thành viên; (iii)
Người đại diện theo pháp luật đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên và công
ty cổ phần (CTCP). Điều lệ doanh nghiệp là một trong số các điều kiện để được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Do đó, khi muốn thay đổi ngành, nghề
kinh doanh, doanh nghiệp phải tiến hành thay đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp và
tiến hành thủ tục thông báo thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp. Người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm thông báo thay đổi nội dung
đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có thay đổi. Cơ quan đăng
ký kinh doanh xem xét tính hợp lệ của hồ sơ và thực hiện thay đổi nội dung đăng ký
doanh nghiệp trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.
Trường hợp từ chối bổ sung vào hồ sơ đăng ký doanh nghiệp thì thơng báo bằng

văn bản cho doanh nghiệp biết, thông báo phải nêu rõ lý do, các yêu cầu sửa đổi, bổ
sung (nếu có). Như vậy, so với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014
khơng có gì thay đổi về bản chất của việc bắt buộc doanh nghiệp phải kinh doanh
theo đúng ngành, nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký, có khác chăng chỉ là chuyển
đổi từ ghi ngành, nghề đăng ký trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sang
Điều lệ công ty. Với quy định này, khi một doanh nhân muốn tìm hiểu về thơng tin
của đối tác, họ khơng những phải tìm hiểu thơng tin trên Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp mà còn phải tìm hiểu cả Điều lệ của doanh nghiệp đó, gây mất thời
gian và tốn kém chi phí. Đồng thời quy định này cũng cản trở doanh nghiệp trong
trường hợp họ muốn ghi ngành nghề kinh doanh lên Giấy chứng nhận đăng ký

31

Dương Đặng Huệ và Nguyễn Lê Trung (2004), “Về vấn đề kiện toàn hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2004, tr. 13
32
Điểm đ khoản 1 Điều 209 Luật Doanh nghiệp 2014


×