Đề tài: Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng BIDV
chi nhánh Lào Cai
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BIDV
NH
NHTM
NHNN
TD
TDCN
RRTDCN
Từ đầy đủ
Bank for Invesment and Development of Vietnam
Ngân hàng
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Tín dụng
Tín dụng cá nhân
Rủi ro tín dụng cá nhân
DANH MỤC HÌNH VÀ BẢNG
Danh mục hình
Danh mục bảng
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong một nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được coi là mạch máu với vai trò là
kênh dẫn vốn quan trọng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Với vai
trị là các trung gian tài chính, mục đích của các ngân hàng là giúp sức vào cơng cuộc
phát triển kinh tế bền vững và trao quyền cho mọi người xây dựng tương lai tốt đẹp
hơn (UNEP Finance Initiative, 2018). Trên thực tế, trình độ phát triển kinh tế của một
quốc gia có thể được đánh giá thơng qua sự phát triển của hệ thống ngân hàng. Do đó,
nếu như hệ thống ngân hàng lâm vào tình trạng khủng hoảng hoặc tệ hơn là sụp đổ thì
những hậu quả nó mang lại là rất nghiêm trọng, khơng chỉ đối với nền kinh tế quốc gia
mà còn đối với nền kinh tế khu vực và thậm chí là tồn thế giới (Phạm Thu Hồ, 2017).
Các cuộc khủng hoảng trên thế giới và trong khu vực trong lịch sử đã chứng
minh thực tế đó. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 bắt nguồn
từ việc bong bóng giá nhà được hình thành từ năm 2006 vỡ tung, tạo nên những khoản
nợ xấu khổng lồ, đánh sập hoạt động của các ngân hàng vốn đang có nhiều khoản vay
được thế chấp bằng đất động sản (Nguyễn Đình Cung, 2017). Trên lý thuyết, khủng
hoảng của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ những rủi ro mà ngân hàng gặp phải trong
quá trình hoạt động kinh doanh. Một trong những rủi ro căn bản gây ra khủng hoảng
trong ngành ngân hàng là rủi ro tín dụng.
Tại Việt Nam, rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân khiến cho ngân
hàng mất đi khả năng thanh toán. Năm 2015, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam
đã lần lượt ra quyết định mua lại bắt buộc với giá 0 đồng đối với các ngân hàng gồm
Ngân hàng Xây dựng (Việt NamCB, nay đổi là CBBank), Ngân hàng Dầu khí Tồn
cầu (GPBank) và Ngân hàng Đại Dương (OceanBank). Trước khi bị mua lại, tất cả các
ngân hàng này đều phải đối mặt tình trạng tài chính trì tệ, hoạt động kinh doanh tiếp
tục thua lỗ lớn, và đặc biệt là việc thu hồi nợ xấu khó khăn khiến cho ngân hàng
khơng thể tiếp tục duy trì hoạt động. Thực tế này cho thấy tầm quan trọng của việc
ngăn chặn và hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV),
trong những năm trở lại đây, các chính sách kinh doanh chuyển hướng tập trung đẩy
mạnh hoạt động bán lẻ, tăng cường cung cấp tín dụng cá nhân. Điều này mang lại
5
những lợi ích lớn cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro liên quan
đến tới tín dụng cá nhân.
Theo định hướng phát triển chung của BIDV, từ năm 2017, ngân hàng BIDV
chi nhánh Lào Cao đã chuyển hướng phát triển mơ hình “Ngân hàng bán lẻ” và trở
thành một trong những chi nhánh trọng điểm của BIDV ở khu vực trung du và miền
núi phía bắc. Năm 2020, tổng số dư nợ vay đạt 2.300 tỷ đồng trong đó thị phần tín
dụng bán lẻ có dư nợ 900 tỷ đồng, chiếm khoảng 39% doanh số cho vay. Trong đó tỷ
lệ nợ xấu chiếm khoảng 1,7% trên tổng dư nợ cá nhân. Trong thời gian tiếp theo, theo
chỉ đạo của lãnh đạo BIDV và lãnh đạo chi nhánh, việc cần thiết phải làm là thực hiện
các biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng cho các khoản vay phát sinh mới đưa tỷ lệ nợ
xấu xuống mức thấp nhất.
Xuất phát từ thực tế này, người viết đã lựa chọn đề tài “Các nhân tố ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng BIDV chi nhánh Lào Cai” làm đề
tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1 Các nghiên cứu trong nước
Trương Đông Lộc (2010) ”Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân
của các ngân hàng thương mại nhà nước ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long”. Số
liệu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm 202 hồ sơ vay được thu thập từ 4 ngân
hàng thương mại Nhà Nước là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công Thương và Ngân hàng Phát Triển Nhà
Đồng Bằng Sông Cửu Long. Đề tài sử dụng mơ hình hồi quy nhị phân để phân tích
các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân của các ngân hàng thương mại nhà
nước. Kết quả phân tích cho thấy rủi ro tín dụng sẽ tăng lên khi tỷ lệ số tiền vay trên
giá trị tài sản đảm bảo tăng. Tương tự, rủi ro tín dụng cũng tăng khi mục đích của
người đi vay là ni trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, rủi ro tín
dụng có mối tương quan nghịch với các yếu tố: khả năng tài chính của người vay, q
trình kiểm tra giám sát của ngân hàng, kinh nghiệm của cán bộ tín dụng và kinh
nghiệm của người vay. Hạn chế của nghiên cứu này là chỉ nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng của các Ngân hàng thương mại Nhà nước, chưa đề cập đến
rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần.
6
Nguyễn Chí Tín (2012) ”Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại
tổng Cơng ty Tài chính cổ phần Dầu khí Việt Nam chi nhánh Cần Thơ (PVFC Cần
Thơ)”. Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này bao gồm 96 mẫu khách hàng vay vốn tại
PVFC Cần Thơ. Đề tài sử dụng mơ hình Binary Logistic để phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng. Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố khả năng tài chính
của khách hàng đi vay; mục đích sử dụng vốn vay; kinh nghiệm của cán bộ tín dụng;
kiểm tra, giám sát khoản vay và lịch sử trả nợ có ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại
PVFC Cần Thơ. Trái ngược lại với kỳ vọng ban đầu, biến kinh nghiệm của khách
hàng vay, tài sản đảm bảo và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh khơng có ảnh hưởng
đến rủi ro tín dụng. Từ kết quả phân tích, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh. Đề tài có một hạn chế là chỉ phân tích rủi ro tín dụng
cá nhân xuất phát từ ngân hàng và khách hàng mà không đề cập đến các yếu tố bên
ngoài như lãi suất, lạm phát, cạnh tranh, khủng hoảng kinh tế,....
Bùi Hữu Phước, Ngô Thành Danh và Ngô Văn Toàn (2016) trong nghiên cứu
”Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh
Kiên Giang” sử dụng dữ liệu thu được từ 120 hồ sơ tín dụng ngân hàng. Các tác giả sử
dụng kết hợp mơ hình logistic nhị phân và mơ hình logistic đa thức được sử dụng để
ước tính các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Kết quả cho thấy logistic đa thức
thực hiện tốt hơn logistic nhị phân. Trong nghiên cứu này, các tác giả chia rủi ro tín
dụng thành hai nhóm là rủi ro tín dụng 1 bao gồm các khoản vay có rủi ro trong khả
năng kiểm sốt bao gồm nợ nhóm 2, 3 và 4 và nhóm rủi ro tín dụng 2 là rủi ro mất vốn
ở nợ nhóm 5). Ở mức độ rủi ro tín dụng 1, tác động đến tín hiệu rủi ro bao gồm: Tài
sản đảm bảo, năng lực tài chính của khách hàng, hoạt động kinh doanh đa dạng, kinh
nghiệm của nhân viên ngân hàng và kiểm tra, giám sát khoản vay. Ở mức độ rủi ro tín
dụng 2, các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại chỉ là bốn
yếu tố liên quan đến tín hiệu, ít hơn một yếu tố như vậy với mức độ rủi ro tín dụng 1,
tài sản thế chấp không ảnh hưởng đến mức độ rủi ro tín dụng. Đây là một nghiên cứu
tương đối hồn thiện về mặt phương pháp khi các tác giả đã tiến hành so sánh giữa hai
phương pháp là logistic nhị thức và logistic đa thức trước khi tiến hành hồi quy. Tuy
nhiên, điểm yếu của nghiên cứu này là các tác giả đã bỏ qua các nhân tố kinh tế vĩ mô
như lãi suất của Ngân hàng Nhà nước hay sự ổn định của thị trường tài chính.
7
Nghiên cứu của Phạm Thu Hồ (2017) ”Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến rủi
ro tín dụng cá nhân tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
chi nhánh Bắc An Giang”. Đề tài sử dụng phương pháp hồi quy nhị phân Binary
Logistic để phân tích các nhân tố. Đặc biệt, khác với các nghiên cứu trước, nghiên cứu
này sử dụng hai mơ hình riêng biệt cho hai nhóm nghiên cứu là nhóm cho vay tín chấp
và nhóm cho vay thế chấp. Đồng thời, nghiên cứu cũng chia các yếu tố thành các
nhóm bao gồm nhóm các yếu tố thuộc về ngân hàng, nhóm các yếu tố thuộc về bản
thân khách hàng, và nhóm các yếu tố thuộc về mô trường kinh tế vĩ mơ. Đây là nghiên
cứu có giá trị tham khảo cao do việc lựa chọn các yếu tố để phân tích rất hồn chỉnh,
bao gồm cả 3 nhóm nhân tố thuộc về khách hàng, ngân hàng và các yếu tố vĩ mơ bên
ngồi. Đồng thời đề tài cũng được tiến hành đối với một chi nhánh của BIDV. Tuy
nhiên, do nghiên cứu được tiến hành vào thời điểm 5 năm trước, do đó, một số đặc
điểm kinh tế - xã hội và chính sách đã khơng cịn phù hợp.
2.2 Các nghiên cứu nước ngoài
Nghiên cứu của Al-abedallat, A. Z. (2016) sử dụng mơ hình 5Cs và phương
pháp hồi quy đa biến để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng tại các ngân
hàng thương mại tại Jordan. Các nhóm nhân tố được nghiên cứu bao gồm: Characters
(uy tín, thái độ của khách hàng), Capacity (Năng lực của khách hàng), Capital (Vốn
của khách hàng), Colatteral (Tài sản thế chấp) và Conditions (Các điều kiện khác).
Tác giả thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua 150 khảo sát tại 17 ngân hàng khác nhau.
Hạn chế của nghiên cứu này là việc chỉ tập trung vào các nhân tố từ phía khách hàng
mà chưa xem xét tới các nhân tố khác như năng lực của cán bộ tín dụng, chính sách
của ngân hàng,…
Nghiên cứu của Aiyuan, T. và Sihong, Z. (2020) sử dụng dữ liệu cụ thể về một
số ngân hàng thương mại niêm yết lớn của Trung Quốc, kết hợp với các yếu tố biến
kinh tế vĩ mô để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố này đến rủi ro tín dụng của các
ngân hàng thương mại bằng mơ hình tác động hỗn hợp (mixed-effect model). Theo kết
quả phân tích, rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại không chỉ chịu ảnh hưởng
của bản thân ngân hàng mà còn chịu tác động đáng kể của các yếu tố kinh tế vĩ mô
khác. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp khác so với các nghiên cứu đi trước. Tuy
nhiên, nghiên cứu này lại bỏ qua tác động của các yếu tố thuộc về khách hàng mà chỉ
8
tập trung vào các nhân tố có thể đo lường được thơng qua báo cáo tài chính của các
ngân hàng và các chỉ số cho biết tình hình kinh tế vĩ mô của quốc gia.
Nghiên cứu của Balina, R. và Idasz-Balina, M. (2021) xác định các yếu tố
chính quyết định mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng cá nhân trên ví dụ ngân hàng
hợp tác của Ba Lan theo các đặc điểm: đặc điểm giao dịch, đặc điểm nhân khẩu xã hội
của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, lịch sử hợp tác của khách hàng
với ngân hàng hợp tác nơi họ đăng ký khoản vay và lịch sử hợp tác của khách hàng
với các tổ chức tài chính khác. Trong nghiên cứu này, dữ liệu thu thập từ 1000 đơn
đăng ký tín dụng của các khách hàng cá nhân khi đăng ký tín dụng tại năm ngân hàng
hợp tác khác nhau đã được sử dụng để phân tích. Các tác giả sử dụng mơ hình hồi quy
logit. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng lịch sử hợp tác của khách hàng với ngân
hàng hợp tác nơi họ đăng ký vay có tác động đáng kể nhất. Đây là điểm mới của
nghiên cứu này so với các nghiên cứu đã được thảo luận trước đó. Tuy nhiên bản thân
nghiên cứu này cũng chỉ tập trung vào các yếu tố liên quan tới khách hàng mà bỏ qua
các yếu tố liên quan tới ngân hàng và tình hình kinh tế.
2.3 Tổng hợp lược khảo các nghiên cứu
Kết quả lược khảo các nghiên cứu về rủi ro tín dụng cho thấy các tác giả
thường sử dụng phương pháp hồi qui nhị phân (binary logistic model) để phân tích
nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân tại các ngân hàng. Tuy nhiên, hầu hết
các nghiên cứu đều chưa bao quát được hết 3 nhóm nhân tố bao gồm nhóm nhân tố
thuộc về khách hàng, nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng và nhóm nhân tố thuộc về
tình hình kinh tế vĩ mơ. Bên cạnh đó, rất nhiều nghiên cứu bỏ qua các đặc điểm nhân
khẩu học của khách hàng như độ tuổi, ngành nghề kinh doanh,… Dây là những lỗ
hổng nghiên cứu mà người viết sẽ cố gắng khắc phục trong đề tài này.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chung
Đề tài hướng tới mục tiêu chung là đưa ra được các giải pháp hiệu quả và khả
thi dựa trên những phân tích định lượng đáng tin cậy nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng
cá nhân tại ngân hàng BIDV chi nhánh Lào Cai.
3.2 Mục tiêu cụ thể
9
Để hoàn toàn được mục tiêu cuối cùng trên, người viết đề ra một số mục tiêu
cụ thể như sau:
Thứ nhất, thiết lập mơ hình nghiên cứu dựa trên nền tảng các nghiên cứu đi
trước.
Thứ hai, xác định các yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến rủi ro tín
dụng cá nhân tại ngân hàng BIDV chi ngành Lào Cai.
Thứ ba, phân tích sự ảnh hưởng của các nhân tố này và liên hệ với thực tế tại
ngân hàng BIDV chi nhánh Lào Cai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rủi ro trong hoạt động tín dụng cá nhân tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Lào Cai.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian, nghiên cứu được tiến hành trong phạm vi Ngân hàng
BIDV chi nhánh Lào Cai.
Về phạm vi thời gian, dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu về các khoản
vay tín dụng cá nhân trong giai đoạn 3 năm từ năm 2018 đến 2020. Số liệu trích lọc từ
kho dữ liệu của ngân hàng bao gồm những khách hàng cá nhân có vay vốn tại BIDV
Lào Cai và cịn dư nợ đến thời điểm ngày 31/12/2021.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu hướng đến trả lời các câu hỏi sau:
Thứ nhất, các nhân tố nào có ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân
hàng BIDV Lào Cai?
Thứ hai, mức độ và chiều hướng ảnh hưởng của các nhân tố này là như thế nào?
Thứ ba, có những giải pháp nào để giảm thiểu rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân
hàng BIDV Lào Cai?
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là số liệu thứ cấp. Theo đó, người
viết sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu tại bàn đối với các dữ liệu như Doanh số
cho vay, dư nợ tín dụng của chi nhánh, dư nợ tín dụng cá nhân, tỷ lệ nợ xấu. Các dữ
10
liệu này được thu thập trực tiếp tại Phòng quản trị tín dụng, Phịng tài chính kế tốn,
phịng quản lý rủi ro, Phòng khách hàng cá nhân Ngân hàng BIDV Lào Cai.
Số liệu phục vụ cho việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng cá
nhân tại BIDV Lào Cai được tiến hành trích lọc từ hồ sơ khách hàng cá nhân có vay
vốn tại BIDV Lào Cai và còn dư nợ đến thời điểm ngày 31/12/2021 để thực hiện phân
tích định lượng đối với hai nhóm tín dụng tín chấp và thế chấp.
6.2 Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp định tính: Phương pháp định tính nhằm xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng bằng cách sử dụng phương pháp tham
vấn chuyên gia dưới hình thức tham vấn trực tiếp ý kiến một số lãnh đạo ngân hàng
am hiểu sâu về tín dụng cá nhân kết hợp với việc tổng hợp các ý kiến kết luận của
phòng Quản lý rủi ro trong báo cáo 3 năm từ 2018 đến 2020.
Phương pháp định lượng: Các phương pháp định lượng chính được sử dụng
trong nghiên cứu bao gồm:
Thứ nhất, phương pháp thống kê mô tả:
Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp các dữ liệu thứ cấp thu thập được trước
khi tiến hành phân tích định lượng. Phương pháp thống kê mô tả giúp đưa ra được một
số đặc trưng của dữ liệu bao gồm trung bình, số liệu lớn nhất, nhỏ nhất, phương sai và
độ lệch chuẩn.
Thứ hai, phương pháp hồi quy nhị phân – Binary logistic regression:
Đây là mơ hình khá phổ biến trong nghiên cứu dùng để ước lượng xác suất một
sự kiện sẽ xảy ra, được phát triển bởi Cox, D. R. (1970). Đặc trưng của hồi quy nhị
phân là biến phụ thuộc chỉ có 2 giá trị: 0 và 1. Đây là mơ hình phù hợp cho việc đánh
giá các yếu tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng cá nhân do biến phụ thuộc (khả năng trả
nợ của khách hàng) chỉ có 2 giá trị là 0 tương ứng với “khách hàng khơng có khả năng
trả nợ” và 1 tương ứng với “khách hàng có khả năng trả nợ”. Trong trường hợp này,
các phương pháp hồi quy tuyến tính thơng thường sẽ khổng thể sử dụng do khi biến
phụ thuộc ở dạng nhị phân thì nó sẽ vi phạm giả định rằng phần dư có phân phối
chuẩn, mà thay vào đó nó sẽ có phân phối nhị thức. Điều này sẽ làm mất hiệu lực
thống kê của các kiểm định trong phép hồi quy thông thường.
7. Cấu trúc của nghiên cứu
11
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nghiên cứu
này bao gồm 3 phần chính tương ứng với 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng
Chương 2: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân
hàng BIDV chi nhánh Lào Cai
Chương 3: Một số đề xuất nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng
BIDV chi nhánh Lào Cai.
12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG CÁ NHÂN TẠI NGÂN HÀNG
1.1 Tổng quan về tín dụng cá nhân
1.1.1 Khái niệm tín dụng cá nhân
Trước khi đến với khái niệm tín dụng cá nhân, ta cần hiểu về khái niệm tín
dụng ngân hàng. Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), tín dụng ngân hàng là quan hệ
chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn
nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Trong khi đó, Hồ Diệu (2013) đưa ra định nghĩa về khái niệm tín dụng ngân
hàng như sau: Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng (NH), với
các doanh nghiệp hay các cá nhân (bên đi vay). Trong đó, NH sẽ chuyển giao tài sản
cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, khi đến hạn, bên đi vay phải
hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho NH.
Như vậy, có thể thấy, tín dụng ngân hàng được hiểu là mối quan hệ giữa NH và
bên đi vay bao gồm doanh nghiệp và các cá nhân. Theo đó, phần vốn của NH được
chuyển nhượng cho các bên đi vay sử dụng theo mục đích nhất định, trong thời gian
nhất định. Sau thời gian đó, bên đi vay có nghĩa vụ hoàn trả phần vốn này (gốc) cộng
với một khoản lãi phát sinh đã thỏa thuận trước với ngân hàng.
Từ định nghĩa về tín dụng ngân hàng, có thể hiểu tín dụng cá nhân là tín dụng
ngân hàng trong đó bên đi vay là các cá nhân chứ không phải là doanh nghiệp. Cụ thể,
tín dụng cá nhân (TDCN) là hình thức tín dụng mà trong đó ngân hàng thương mại
(NHTM) đóng vai trị là người chuyển nhượng quyền sử dụng vốn của mình cho
khách hàng cá nhân hoặc hộ gia đình sử dụng trong một thời hạn nhất định phải hồn
trả cả gốc và lãi với mục đích phục vụ đời sống hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh
dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể (Nguyễn Minh Kiều, 2009).
1.1.2 Đặc điểm của tín dụng cá nhân
Do đặc điểm là tín dụng dành cho đối tượng là các cá nhân và hộ gia đình, tín
dụng cá nhân có các đặc điểm riêng, khác với tín dụng doanh nghiệp (bảng 1.1).
13
Bảng 1.1: So sánh tín dụng cá nhân và tín dụng doanh nghiệp
Tiêu chí
Tín dụng cá nhân
Tín dụng doanh nghiệp
Số lượng khoản vay
Nhiều hơn
Ít hơn
Quy mơ khoản vay
Nhỏ hơn
Lớn hơn
Mức độ rủi ro
Cao hơn
Thấp hơn
Chi phí
Cao hơn
Thấp hơn
Nguồn: Hồ Diệu, 2013
Trước hết, so với tín dụng doanh nghiệp, số lượng khoản vay theo hình thức tín
dụng cá nhân nhiều hơn về mặt số lượng nhưng lại ít hơn về mặt quy mô. Nguyên
nhân là do khách hàng cá nhân thường có hai mục đích vay. Thứ nhất là cá nhân, hộ
gia đình vay để bổ sung vốn kinh doanh. Đối với mục đích vay này, quyền hoạt động
sản xuất kinh doanh của cá nhân, hộ gia đình được pháp luật thừa nhận, nhưng do
năng lực hạn chế nên hoạt động kinh doanh thường khơng có quy mơ lớn.
Mục đích vay thứ hai là cá nhân vay đáp ứng nhu cầu vốn để tiêu dùng. Khoản
vay cá nhân cho mục đích này trực tiếp phục vụ cho nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống
Số tiền cho vay hai mục đích này đều bị giới hạn bởi những điều kiện từ ngân hàng đó
là: tính hợp lý của nhu cầu vốn, khả năng trả nợ và tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, số
lượng các khoản tín dụng cá nhân là rất lớn do số lượng khách hàng cá nhân đông do
đối tượng của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội, từ những người có
thu nhập cao đến những người có thu nhập trung bình và thấp.
Bên cạnh đó, nhu cầu tín dụng của đối tượng khách hàng cá nhân rất phong phú
và đa dạng như mua nhà đất, mua sắm vật dụng gia đình, xây dựng, sửa chữa nhà, du
học… Khi chất lượng cuộc sống và trình độ dân trí được nâng cao, người dân càng có
nhu cầu vay ngân hàng để cải thiện và nâng cao mức sống.
Thứ hai, mức độ rủi ro đến từ tín dụng cá nhân là cao hơn so với tín dụng
doanh nghiệp. Rủi ro này đến từ việc thông tin bất cân xứng. Khi thẩm định cho vay
thì thơng tin về bản thân khách hàng là một trong những yếu tố quan trọng để ngân
hàng đưa đến quyết định cho vay, bên cạnh tính hợp lý và hợp pháp của nhu cầu vốn,
khả năng trả nợ và tài sản đảm bảo. Đối với khách hàng là tổ chức, việc nắm bắt thơng
tin khách hàng là tương đối thuận lợi do có rất nhiều nguồn thông tin được công khai
14
như: báo cáo tài chính, thơng tin xếp hạng tín dụng, tình hình nộp thuế, uy tín quan hệ
với các đối tác… Ngược lại, đối với khách hàng cá nhân, việc đánh giá nhân thân,
nguồn trả nợ, mục đích sử dụng vốn vay thường khó đầy đủ và rõ ràng dẫn đến rủi ro
thông tin bất cân xứng, khiến cho việc thẩm định khách hàng thiếu chính xác. Nguồn
trả nợ chủ yếu của khách hàng cá nhân là từ thu nhập ổn định ở thời điểm hiện tại. Do
vậy, nếu người vay gặp vấn đề về sức khoẻ, mất việc làm hay gặp các biến cố bất ngờ
ảnh hưởng đến thu nhập thì sẽ khơng trả được nợ vay cho ngân hàng.
Rủi ro đối với tín dụng cá nhân sẽ tăng cao hơn đối với cho vay tín chấp, do
ngân hàng cấp tín dụng trên cơ sở thẩm định uy tín của khách hàng tốt hay xấu mà
khơng có biện pháp đảm bảo bằng tài sản. Trong trường hợp đó, nếu khách hàng thực
sự khơng có khả năng trả nợ vay hoặc có khả năng, nhưng khơng có ý chí trả nợ vay
trong khi việc quản lý thông tin về sự thay đổi nơi cư trú, công việc của khách hàng là
một điều khơng dễ dàng thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng khi xử lý khoản vay để thu
hồi nợ.
Thứ ba, chi phí mà NH phải bỏ ra cho các khoản vay tín dụng cá nhân là cao
hơn so với tín dụng doanh nghiệp. Do đặc điểm của khách hàng cá nhân là số lượng
nhiều và phân tán rộng nên để duy trì và phát triển tín dụng cá nhân sẽ tốn kém nhiều
chi phí cho các cơng tác. Các chi phí này liên quan tới việc mở rộng hệ thống mạng
lưới, quảng cáo, tiếp thị tạo thuận lợi trong việc tiếp cận đối tượng khách hàng cá
nhân ở từng địa bàn, khu vực. Đồng thời với đó là chi phí phát triển nhân sự đầy đủ
nhằm phục vụ khách hàng nhanh chóng, chính xác từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định
đến quyết định cho vay, giải ngân và thu nợ.
1.1.3 Vai trị của tín dụng cá nhân
1.1.3.1 Vai trò đối với nền kinh tế - xã hội
Mặc dù có các đặc điểm bất lợi và tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với tín dụng
doanh nghiệp, nhưng TDCN vẫn có vai trị khơng thể thiếu đối với hoạt động của NH
và với nền kinh tế nói chung. Theo đó, trên phương diện kinh tế - xã hội, TDCN góp
phần quan trọng tạo sự năng động cho các thành phần kinh tế và đồng thời góp phần
tạo sự ổn định về mặt xã hội.
Tín dụng cá nhân là kênh hỗ trợ vốn để người dân trang trải các chi phí phát
sinh trong cuộc sống từ thỏa mãn nhu cầu thiết yếu cho đến nhu cầu xa xỉ với chi phí
15
đắt đỏ, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của khách hàng, buộc các thành phần kinh tế phải đẩy mạnh sản xuất, do đó tạo
nhiều việc làm, tạo ra những khác biệt tích cực giúp tăng khả năng cạnh tranh trước
các đối thủ trong và ngoài nước trên thị trường.
Bên cạnh đó, TDCN góp phần khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong
xã hội rồi lưu thông các nguồn vốn này một cách trôi chảy và hiệu quả, từ nơi thừa
vốn đến nơi thiếu vốn, từ nơi hiệu quả thấp đến nơi hiệu quả cao.
Như vậy, có thể thấy vai trò của TDCN trong nền kinh tế và xã hội là việc kích cầu
nền kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đẩy sản xuất trong nước. Từ đó thu
hút nhiều lực lượng lao động tham gia xây dựng, sản xuất, tạo việc làm, hướng đến
các mục tiêu xã hội như xóa đói, giảm nghèo, tăng thu nhập, giảm tệ nạn xã hội góp
phần ổn định trật tự xã hội.
1.1.3.2 Vai trò đối với ngân hàng
Đối với NH, TDCN đóng góp phần quan trọng trong việc phát triển thương
hiệu của ngân hàng. Do đối tượng của TDCN là bất kỳ cá nhân, hộ gia đình nào trong
nền kinh tế, bất chấp khả năng kinh tế, địa vị xã hội, tuổi tác, giới tính, nơi cư trú,...
nên việc phát triển tín dụng cá nhân sẽ giúp hình ảnh thương hiệu của ngân hàng được
phổ biến rộng khắp. Khả năng cung cấp gói sản phẩm dịch vụ tài chính cá nhân đồng
bộ thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng sẽ tạo nét khác biệt cho ngân hàng trong cạnh
tranh với đối thủ, do đó góp phần nâng cao thương hiệu cho ngân hàng.
Không những thế, việc cấp TDCN bên cạnh tín dụng doanh nghiệp cũng là một
cách phân tán rủi ro cho ngân hàng. Nếu một ngân hàng chỉ tập trung cho vay các
khách hàng doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn, vì lý do nào đó mà hoạt động kinh
doanh của các khách hàng này gặp khó khăn gây ảnh hưởng đến khả năng trả nợ sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy, như một cách
thức để phân tán và giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng phát triển tín dụng cá nhân vì với
số lượng khách hàng cá nhân đơng, số tiền vay ít thì khi có một khách hàng hoặc một
số ít khách hàng gặp rủi ro dẫn đến khơng có khả năng trả nợ thì ít gây ảnh hưởng đến
tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
16
1.1.3.3 Vai trò đối với khách hàng
Đối với khách hàng là các cá nhân và hộ gia đình, tín dụng cá nhân giúp cho
các khách hàng linh hoạt hơn trong việc giải quyết vấn đề tài chính và thỏa mãn nhu
cầu. Thay vì phải tích lũy đủ vốn để thực hiện kế hoạch của bản thân, người tiêu dùng
sẽ khéo léo phối hợp giữa thoả mãn nhu cầu ở hiện tại với khả năng thanh toán ở hiện
tại và tương lai. Nghĩa là họ sẽ tiêu dùng trước bằng cách lựa chọn phương án vay vốn
ngân hàng rồi tích lũy và hồn trả sau cho ngân hàng. Vai trị này hết sức có ý nghĩa
đối với những trường hợp mua sắm các hàng hố thiết yếu có giá trị cao như nhà cửa,
xe hơi… hay chi tiêu cấp bách như chữa bệnh. Điều này được thể hiện rõ nét nhất tại
các nước phát triển vì thơng qua các khoản cấp tín dụng của ngân hàng hết sức nhanh
chóng và thuận tiện thì khách hàng hầu như được đáp ứng các nhu cầu cá nhân thiết
yếu của cuộc sống như mua nhà, mua ơ tơ, học tập, du lịch... góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Ngồi ra, tín dụng cá nhân còn là kênh các NH tài trợ vốn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của các hộ gia đình giúp họ có điều kiện để mở rộng quy mơ sản
xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành. Với điều kiện cấp tín dụng đơn giản
hơn đối với khách hàng doanh nghiệp, tín dụng cá nhân phù hợp với hình thức kinh
doanh nhỏ lẻ, phù hợp với đặc tính và tập quán kinh doanh của đối tượng này.
1.1.4 Phân loại tín dụng cá nhân
1.1.4.1 Phân loại tín dụng cá nhân tại các nước phát triển
Các hoạt động ngân hàng đầu tiên trong lịch sử loài người được ghi nhận tại
Hy Lạp vào thế kỷ thứ 4 trước công nguyên (Hildreth, 2001) và sau đó lan rộng ra các
quốc gia tại châu Âu. Trải qua hàng nghìn năm phát triển, hoạt động ngân hàng nói
chung và tín dụng cá nhân tại các nước phát triển đã có sự đa dạng cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu. Tuy nhiên, về cơ bản có hai loại TDCN là cho vay có bảo đảm (Secured
Loan) và cho vay khơng có bảo đảm (Unsecured Loan) (Podpiera và Cihak, 2017)
(hình 1.1).
17
Hình 1.1: Phân loại tín dụng cá nhân tại các nước phát triển
Nguồn: Podpiera và Cihak, 2017
Với hai loại hình cho vay cơ bản như trên thì có các gói sản phẩm chuyên biệt
như: cho vay ngắn hạn (Short Term Personal Loans), cho vay theo ngày (Fast Cash
Advance Loan), cho vay đối tượng quân nhân (A Military Payday Loan), cho vay đối
với cá nhân khơng có/có ít lịch sử giao dịch (No Credit Person loans), cho vay đối với
người theo đạo Tin lành (Christian Lending Personal Loans), cho vay , phát hành thẻ
tín dụng (Personal Signature Loans)… Các gói sản phẩm tín dụng cá nhân được thiết
kế chuyên biệt cho từng nhóm đối tượng khách hàng, đáp ứng tối đa nhu cầu khách
hàng trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
1.1.4.2 Phân loại tín dụng cá nhân tại Việt Nam
Tại Việt Nam, hoạt động ngân hàng có thời gian phát triển ít hơn và tín dụng cá
nhân chỉ mới phát triển trong thời gian gần đây, đặc biệt là kể từ khi hệ thống NHTM
có sự phát triển nhanh về số lượng và chất lượng trong những năm đầu thập kỷ 90
(Phạm Thu Hồ, 2017).
Trước đây hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam bị hạn chế, do lo
ngại ngân hàng nước ngoài chiếm lĩnh thị phần và chi phối chính sách tiền tệ gây xáo
trộn nền kinh tế quốc gia. Nhưng từ khi Việt Nam bắt đầu thực hiện cam kết mở cửa
sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO),
chức năng hoạt động của ngân hàng nước ngoài đã được mở ra gần như bình đẳng với
ngân hàng trong nước theo đúng lộ trình đã cam kết. Vì vậy trên thị trường ngân hàng
bán lẻ hiện nay, có sự cạnh tranh gay gắt để giành thị phần dẫn đến sự phát triển tín
18
dụng cá nhân tập trung chủ yếu vào ba nhóm chính là: cho vay cá nhân, bảo lãnh cá
nhân và phát hành – thanh tốn thẻ tín dụng (bảng 1.2).
Bảng 1.2: Phân loại tín dụng cá nhân tại Việt Nam
Loại hình
Định nghĩa
Mục đích
Đối tượng
Cho vay bất động sản (mua
nhà, đất, nhà dự án), xây
dựng, sửa chữa nhà
Cho vay cá
nhân
Các khoản vay cho khách
hàng cá nhân, hộ kinh
doanh
Cho vay bổ sung vốn cho Áp dụng cho hầu
hộ kinh doanh cá thể
hết
Cho vay mua ô tô
tượng
Cho vay tiêu dùng
hàng
các
đối
khách
Cho vay kinh doanh chứng
khoán
Cho vay du học
NH cung cấp cho khách Bảo lãnh vay vốn
hàng (bên được bảo lãnh) Bảo lãnh thanh toán.
Bảo
lãnh dịch vụ bảo lãnh theo yêu Bảo lãnh dự thầu.
cá nhân
cầu của bên thứ ba (bên Bảo lãnh thực hiện hợp
nhận bảo lãnh)
đồng.
Khách
hàng
được bảo lãnh
bởi bên thứ ba
Bảo lãnh đối ứng.
Là loại hình TDCN trong
đó
khách
hàng
được
quyền chi tiêu trước (số
Thẻ
dụng
tín tiền trong thẻ tín dụng Thường là mục đích tiêu
theo hạn mức mà NH dùng cá nhân
cấp) và trả tiền sau thông
Bất
kỳ
khách
hàng nào đủ điều
kiện mở thẻ
qua phương thức chi trả
thẻ
Nguồn: Người viết tổng hợp từ Phạm Thu Hồ (2017), Bùi Hữu Phước và cộng sự
(2016)
19
1.2 Tổng quan về rủi ro tín dụng cá nhân
1.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng cá nhân
Theo Koch (1995), một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi
khách hàng sai hẹn, có nghĩa là khách hàng khơng thanh tốn vốn gốc và lãi theo thỏa
thuận. Theo đó, rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của
vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh tốn hay trễ hẹn.
Bên cạnh đó, theo Fitch (1997), rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay
khơng thanh tốn được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ
trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong
hoạt động cho vay của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng cũng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi
trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng.
Điều này gây ra sự cố, đối với dòng chu chuyển tiền tệ và gây ảnh hưởng tới khả năng
thanh khoản của ngân hàng (Greuning và Bratanovic, 2009).
Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu rủi ro tín dụng cá nhân là trường hợp
người vay như cá nhân, hộ gia đình trả nợ không đúng hạn theo hợp đồng hoặc không
thanh toán nợ, bao gồm vốn gốc hoặc lãi phát sinh. Rủi ro tín dụng cá nhân có thể dẫn
đến những tổn thất tài chính gây giảm thu nhập rịng và làm giảm giá trị thị trường
vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến nguy cơ phá sản của NH.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng cá nhân
Theo quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự
phịng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, các khoản cho vay của NHTM được
phân thành 5 nhóm cụ thể như sau (bảng 1.3):
Bảng 1.3: Phân loại rủi ro tín dụng cá nhân theo quy định của NHNN Việt Nam
Nhóm
Nhóm 1
Tên nhóm
Tiêu chí phân loại
Nợ đủ tiêu chuẩn
Khách hàng có nợ trong hạn và được đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn
Khách hàng có nợ quá hạn dưới 10 ngày và được
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc, lãi
20
q hạn, lãi cịn lại đúng hạn.
Khách hàng có nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày
Nhóm 2
Nợ cần chú ý
và khách hàng có nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần
đầu
Khách hàng có nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày
Nhóm 3
Nợ
dưới
tiêu
chuẩn
Khách hàng có nợ gia hạn nợ lần đầu
Khách hàng có nợ được miễn hoặc giảm lãi do
không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín
dụng
Khách hàng có nợ q hạn từ 181 ngày đến 360
ngày và nhóm có nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ
Nhóm 4
lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ.
Nợ nghi ngờ
Khách hàng có trên hai lần cơ cấu lại thời hạn trả nợ
và nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã
quá thời hạn thu hồi đến 60 ngày
Khách hàng có nợ quá hạn trên 360 ngày
Nhóm 5
Nợ có khả năng
mất vốn
Nhóm có nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, lần
hai và lần thứ ba quá hạn thời hạn trả nợ
Khách hàng có nợ phải thu hồi theo kết luận thanh
tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày.
Nguồn: Thơng tư 02/2013/TT-NHNN
Trong các nhóm từ 1 đến 5 được trình bày trong bảng 1.3 trên, rủi ro tín dụng cá
nhân sẽ tỉ lệ nghịch với chất lượng khoản vay với nhóm 1 là những khoản vay có rủi
ro thấp nhất và nhóm 5 là những khoản vay có rủi ro cao nhất. Các khoản nợ thuộc
nhóm 3,4,5 được gọi là nợ xấu và là tiêu chí để phản ánh rủi ro tín dụng, các khoản nợ
xấu càng cao thì rủi ro càng lớn và ngược lại.
1.2.3 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cá nhân
1.2.3.1 Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Nguyên nhân đầu tiên có thể kể đến là sự yếu kém của đội ngũ cán bộ. Sự yếu
kém ở đây bao gồm cả về năng lực và phẩm chất đạo đức. Trong trường hợp một cán
21
bộ tín dụng non kém về trình độ, thiếu kiến thức và kinh nghiệm sẽ khơng có khả
năng thẩm định và xử lý thông tin cũng như đánh giá khách hàng chính xác để từ đó
đưa ra mức vay, lãi suất vay và kỳ hạn phù hợp. Điều này có thể dẫn đến chất lượng
tín dụng thấp, rủi ro cao. Ngồi ra, nếu cán bộ tín dụng khơng tn thủ theo đúng quy
trình tín dụng như giải ngân trước khi hồn thành chứng từ hay khơng kiểm tra giám
sát việc sử dụng vốn của khách hàng thì việc mất vốn rất dễ xảy ra.
Nguyên nhân thứ hai có thể kể đến là sự thiếu sát sao trong quá trình giám sát
của các cấp quản lý trong ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần có sự phê duyệt của lãnh
đạo trước khi giải ngân. Do đó, nếu cấp trên khơng có sự kiểm tra, đánh giá quyết
định của cán bộ sẽ dễ dàng bỏ qua những sai sót trong q trình cho vay, nguy cơ cao
xảy ra rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân cuối cùng là định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của
khách hàng. Cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức đảm bảo
bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong muốn và phần
bù đắp rủi ro của khoản vay. Khách hàng được đánh giá có mức độ rủi ro càng cao,
phần bù rủi ro càng lớn. Nhưng vì cạnh tranh nên một số ngân hàng có thể chấp nhận
mức giá cho vay thấp, thậm chí chỉ đủ chi phí vốn đầu vào và chi phí quản lý, khơng
tính đến phần bù rủi ro. Việc làm đó trong dài hạn khơng những làm giảm lợi nhuận
mà cịn làm tăng tính rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
1.2.3.2 Nguyên nhân thuộc về người vay
Nguyên nhân thứ nhất thuộc về phía người vay là việc khách hàng kinh doanh
thua lỗ nên mất khả năng trả nợ. Trường hợp này rất phổ biến do khách hàng có trình
độ và kiến thức yếu kém trong lĩnh vực kinh tế, trong năng lực quản lý, sử dụng vốn
sai mục đích, sản phẩm chất lượng thấp khơng bán được… Hơn nữa có nhiều khách
hàng vay vốn để đầu tư kinh doanh mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, mà
khơng tính tốn kỹ hoặc khơng có khả năng tính tốn những rủi ro nên khả năng xảy
ra tổn thất với ngân hàng là rất lớn.
Nguyên nhân thứ hai do khách hàng cố tình chiếm dụng vốn của ngân hàng. Để
đạt được mục đích thu được lợi nhuận, nhiều khách hàng sẵn sàng tìm cách để ứng
phó với ngân hàng như mua hoặc cung cấp các báo cáo sai lệch. Trong trường hợp
này, nếu không phát hiện ra, ngân hàng sẽ đánh giá sai về khả năng tài chính của
22
khách hàng và cho vay vốn với khối lượng và thời hạn không hợp lý, dẫn đến rủi ro
tiềm ẩn là rất cao. Ngồi ra, cũng có những trường hợp người kinh doanh có lãi song
vẫn khơng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn mà cố tình kéo dài với ý định tiếp tục sử
dụng vốn vay trong thời gian dài nhằm thu về nhiều lợi nhuận hơn.
1.2.3.3 Nguyên nhân khác
Các nguyên nhân khác không bắt nguồn từ ngân hàng và người vay bao gồm
những biến động kinh tế không dự báo được. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng ổn
định thì nhu cầu đầu tư trong xã hội có xu hướng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, khi xuất hiện những biến động kinh tế như lạm phát,
dịch bệnh,..., khả năng trả nợ của người vay sẽ bị ảnh hưởng xấu. Trong các biến động
đó, một số người vay có thể thích ứng và vượt qua nhưng cũng có một phần khơng
nhỏ người vay lâm vào tình trạng bị đình trệ hoạt động sản xuất, kinh doanh thua lỗ
nên khả năng trả nợ ngân hàng khơng được đảm bảo.
Bên cạnh đó, sự thay đổi trong các chính sách kinh tế, pháp luật cũng là một
nguyên nhân dẫn đến rủi ro TDCN. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách kinh tế
pháp luật gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của người đi
vay. Sự thiết ổn định trong các hoạt động này gây khó khăn có khách hàng về khả
năng trả nợ.
1.2.4 Hậu quả của rủi ro tín dụng cá nhân
1.2.4.1 Hậu quả đối với ngân hàng
a. Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cho vay, nếu các khoản
tín dụng cá nhân nói riêng và tín dụng nói chung gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ
gặp nhiều khó khăn trong khi đó các khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng hạn.
Điều này khiến cho ngân hàng gặp khó khăn trong việc thanh tốn.
b. Giảm uy tín của ngân hàng
Rủi ro tín dụng quá cao khiến cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút
và có thể dẫn đến nguy cơ phá sản của ngân hàng. Điều này có nghĩa là những người
gửi tiền vào ngân hàng đứng trước nguy cơ khơng lấy lại được tiền. Do đó, việc một
ngân hàng có rủi ro tín dụng q cao sẽ khiến cho khách hàng khơng cịn niềm tin vào
ngân hàng, hay nói cách khác, uy tín của ngân hàng bị giảm sút.
23
c. Giảm lợi nhuận của ngân hàng
Rủi ro tín dụng làm cho doanh thu của NH giảm xuống do không thu được lãi
vay, dẫn đến lợi nhuận thấp, thậm chí là thua lỗ. Kể cả trường hợp không dẫn đến thua
lỗ thì do rủi ro tín dụng cao, NH sẽ phải tăng trích lập dự phịng rủi ro khiến cho lợi
nhuận giảm. Trong nhiều trường hợp, trích lập rủi ro bằng đúng với phần lợi nhuận
của NH, khiến cho lợi nhuận về 0.
d. Dẫn đến phá sản ngân hàng
Nếu rủi ro xảy ra ở mức độ ngân hàng khơng có khả năng ứng phó thì sẽ gây
phản ứng dây chuyền trong cơng chúng. Khi đó, người dân sẽ ồ ạt đến ngân hàng rút
tiền gửi do lo ngại về khả năng thanh tốn của ngân hàng. Việc ngân hàng khơng cịn
khả năng thanh tốn là ngun nhân dẫn đến phá sản.
1.2.4.2 Hậu quả đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, các ngành và
các cá nhân. Vì vậy, khi một ngân hàng gặp rủi ro tín dụng hay thậm chí bị phá sản sẽ
ảnh hưởng tới hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh
hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn, nền kinh tế
bị trì trệ, kém phát triển, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Điều
quan trọng hơn là mức độ ảnh hưởng của nó khơng chỉ đối với một quốc gia mà cịn
mang tính quốc tế do nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực
và thế giới.
Một ví dụ cho ảnh hưởng của rủi ro tín dụng cá nhân đến toàn bộ nền kinh tế
quốc gia, nền kinh tế khu vực thậm chí là nền kinh tế thế giới là cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới năm 2008. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là mơi trường tín
dụng dễ dãi tại Hoa Kỳ khi những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo
hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là người dân vay ồ ạt
nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số
nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để khơng (Christie, 2006).
Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ
chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì khơng thu hồi được nợ dẫn đến đầu
năm 2007, nhiều tổ chức tín dụng trong đó có các ngân hàng tư nhân tại Mỹ tuyên bố
24
phá sản. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này đã lan rộng ra tồn nước Mỹ và sau đó
là tồn thế giới vào năm 2008.
1.2.5 Tiêu chí đánh giá rủi ro tín dụng cá nhân tại ngân hàng
1.2.5.1 Các tiêu chí bên trong ngân hàng
Các chỉ tiêu trực tiếp đánh giá rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
Các chỉ tiêu đánh giá RRTD tại các ngân hàng thương mại có vai trị đặc biệt quan
trọng vì nó trực tiếp phản ánh RRTD của ngân hàng, cụ thể:
- Nợ quá hạn: Là chỉ tiêu cơ bản phản ánh RRTD. Nợ quá hạn sẽ phát sinh khi đến
thời hạn trả nợ theo cam kết, người vay khơng có khả năng trả được nợ một phần hay
toàn bộ khoản vay cho người cho vay. Tùy theo thời gian quá hạn, khoản nợ này sẽ
được xác định là nợ đủ tiêu chuẩn, nợ cần chú ý, nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ,
hoặc là nợ có khả năng mất vốn... Nợ quá hạn được phản ánh qua 2 chỉ tiêu sau:
Nếu ngân hàng có chỉ tiêu nợ quá hạn và số khách hàng có nợ q hạn lớn thì ngân
hàng đó đang có mức rủi ro cao và ngược lại.
- Nợ xấu: Là các khoản tiền cho khách hàng vay, mà khó hoặc khơng thể thu hồi được
do DN đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản, nợ phải trả tăng, DN mất khả năng thanh
toán... Nợ xấu sẽ phản ánh một cách rõ nét chất lượng tín dụng của ngân hàng thông
qua việc đánh giá cả thời hạn quá hạn của khoản vay và tiêu chí đánh giá rủi ro của
khoản vay.
25
Nợ xấu được phản ánh rõ nhất qua các chỉ số:
Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu/Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu = Nợ xấu/Vốn chủ sở hữu
Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất = Nợ xấu/Quỹ dự phòng tổn thất
- Dự phòng RRTD: Dự phòng rủi ro đánh giá khả năng chi trả của ngân hàng khi rủi
ro xảy ra. Mục đích của việc sử dụng dự phịng rủi ro của một ngân hàng là nhằm bù
đắp tổn thất đối với những khoản nợ của ngân hàng xảy ra trong trường hợp khách
hàng khơng có khả năng chi trả do giải thể, phá sản, chết, mất tích, hoặc khi khoản nợ
được xếp vào nhóm 5.
Dự phịng tín dụng được tính trên số dư nợ gốc của khách hàng bao gồm: (i) Dự
phòng cụ thể - để bảo hiểm rủi ro cụ thể cho từng khoản vay; (ii) Dự phòng chung bảo hiểm các rủi ro chung không xác định trong danh mục tín dụng và tồn bộ dự
phịng được tính vào chi phí hoạt động của doanh nghiệp.
Việc sử dụng dự phòng được sử dụng theo nguyên tắc là sử dụng dự phòng cụ thể đối
với từng khoản nợ trước, phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, và cuối cùng nếu
phát mãi tài sản không đủ thu hồi nợ thì mới sử dụng dự phịng chung. Mỗi ngân hàng
cần có cách tính dự phịng phù hợp vừa đủ để bù đắp rủi ro vừa tránh để chi phí tăng
cao ảnh hưởng đến thu nhập ròng. Các chỉ số thể hiện dự phòng RRTD:
Các chỉ tiêu gián tiếp đánh giá rủi ro tín dụng
Các chỉ tiêu gián tiếp mặc dù không phản ánh cụ thể RRTD của ngân hàng, tuy nhiên
các chỉ tiêu này có sự thay đổi lớn của kỳ này so với kỳ trước hay so với trung bình