BÀI THI MƠN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Hình thức thi: Tiểu luận
Thời gian thi: 3 ngày
Đề tài: Từ chủ trương chống thù trong giặc ngoài của Đảng cộng sản Đông
Dương giai đoạn 1945-1946 hãy bày tỏ suy nghĩ của bản thân về đường lối, chính sách
đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp hiện
nay.
BÀI LÀM
MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................................
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................1
2. Mục tiêu của đề tài...............................................................................................1
NỘI DUNG .....................................................................................................................2
1. Bối cảnh lịch sử ....................................................................................................2
1.1. Thuận lợi............................................................................................................2
1.2. Khó khăn............................................................................................................2
2. Chủ trương của Đảng và triển khai chính sách đấu tranh giữ vững chính
quyền, bảo vệ nền độc lập tự do ................................................................................3
2.1. Mục tiêu và nội dung chính chủ trương của Đảng .........................................3
2.2. Chính sách chống thù trong giặc ngồi ...........................................................4
3. Ý nghĩa chủ trương của Đảng giai đoạn 1945-1946..........................................6
3.1. Về mặt lý luận ....................................................................................................6
3.2. Ý nghĩa lịch sử ...................................................................................................6
3.3. Ý nghĩa hiện thực trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay .........................7
4. Phương hướng phát huy chủ trương đối ngoại của Đảng hiện nay ................9
KẾT LUẬN ...................................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác đối ngoại là lĩnh vực hoạt động đa dạng và phức tạp, mang ý nghĩa quan
trọng trong quan hệ chính trị quốc tế nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. Đất nước có
chính sách đối ngoại hợp lý sẽ góp phần thúc đẩy phát triển đời sống, đạt được những
mục đích về kinh tế, chính trị, qn sự, văn hóa…, quan hệ quốc tế ngày càng được mở
rộng. Với Việt Nam cũng không ngoại lệ, đối ngoại mang ý nghĩa quan trọng, có sứ
mệnh to lớn trong việc “đi trước, mở đường” cho phát triển đất nước trong bối cảnh hội
nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Đảng ta luôn thể hiện được bản lĩnh, trí tuệ
của một chính quyền lãnh đạo sáng suốt qua việc hoạch định chủ trương, chính sách đối
ngoại phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Đặc biệt trong thời kỳ sau Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, khi đất nước đang ở trong hồn cảnh khó khăn chồng chất, dưới sự lãnh
đạo tài tình, khơn khéo của Đảng ta thông qua các chủ trương ngoại giao cùng sự đồng
lịng của tồn dân đã giải quyết từng khó khăn, đưa đất nước thốt khỏi sự bao vây, kìm
hãm của kẻ thù. Có thể thấy, những chủ trương đối ngoại của quốc gia mang tính cấp
thiết trong nhận thức với mỗi cơng dân, vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Chủ
trương chống thù trong giặc ngoài của Đảng cộng sản Đông Dương giai đoạn 19451946 và suy nghĩ của bản thân về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản
Việt Nam trong bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay” làm đề tài nghiên cứu,
nhằm làm rõ tính đúng đắn trong chính sách đối ngoại của Đảng xuyên và có ý nghĩa
to lớn đến tận ngày nay.
2. Mục tiêu của đề tài
Đề tài với mục địch xác định bối cảnh lịch sử thời kỳ 1945-1946, phân tích rõ
những điểm thuận lợi và khó khăn trong tình hình lúc bấy giờ, nêu ra nội dung chủ
trương và thực hiện triển khai của Đảng để từ đó thấy được ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa
hiện thực của đường lối. Qua đó đưa ra những nhận xét và phương hướng phát huy
chính sách đối ngoại của Đảng.
2
NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập tự do. Chính quyền vừa mới
được thành lập có những thuận lợi cơ bản nhưng cũng phải đối mặt với những khó
khăn, thử thách rất nghiêm trọng.
1.1. Thuận lợi
Bối cảnh quốc tế giai đoạn năm 1945-1946 có nhiều sự biến động có lợi cho cách
mạng Việt Nam. Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc với thắng lợi thuộc về phe
Đồng minh, Liên Xô trở thành thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông
Trung Âu cũng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi dần lan sang Châu Âu và lan rộng toàn thế giới. Cách
mạng Việt Nam cũng nằm trong quỹ đạo của cách mạng thế giới nên được phong trào
cách mạng thế giới ủng hộ.
Sau cột mốc lịch sử tháng 8 năm 1945, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự
do. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, khéo léo, dày dặn kinh nghiệm của Đảng Cộng sản
Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh, chính quyền về tay nhân dân, nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Tồn thể dân tộc
Việt Nam đồn kết một lịng trong mặt trận dân tộc thống nhất, kiên quyết giữ vững
nền độc lập, hịa bình của dân tộc.
1.2. Khó khăn
Về mặt quốc tế, sau Thế chiến II, mặc dù một số nước thuộc hệ thống tư bản chủ
nghĩa bị thiệt hại nặng nề, nhưng phe Đế quốc vẫn âm mưu chia lại thế giới, tấn công
quyết liệt vào phong trào cách mạng thế giới. Trong những năm đầu sau Cách mạng
Tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa chưa có nước nào công nhận và đặt quan
hệ ngoại giao với Chính phủ ta, đất nước bị bao vây bốn phía, tình thế vơ cùng khó
khăn.
Cùng lúc đó, nước ta phải gánh chịu những hậu quả nặng nề là những tàn dư do
chế độ cũ để lại như nạn đói, nạn dốt, chính quyền chưa được củng cố, cịn nhiều thiếu
sót, ngân quỹ quốc gia cạn kiệt. Chính quyền cách mạng mới thành lập, chưa được củng
cố, lực lượng vũ trang cịn non yếu. Bên cạnh đó, tình hình tài chính nước ta cũng
khơng khả quan hơn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách.
Tiếp đó là
3
thiên tai xảy ra liên miên, lũ lụt hạn hán nghiêm trọng khiến ruộng đất không thể canh
tác, gây ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt của người dân. Nơng nghiệp chưa
được hồi phục, ngoại thương đình trệ, cơng nghiệp đình đốn, đời sống nhân dân vơ
cùng khó khăn. Hậu quả của nạn đói năm 1945 ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra khiến
hơn 2 triệu người chết chưa được khắc phục. Chính sách ngu dân của thực dân Pháp
khiến trình độ văn hóa của nhân dân thấp kém, 95% dân số không biết chữ, các hủ tục
lạc hậu, mê tín dị đoan chưa được xóa bỏ, ảnh hưởng do chế độ cũ để lại hết sức nặng
nề, nghiêm trọng.
Đặc biệt, nước ta phải chịu sự đe dọa của các thế lực đế quốc và phản động trong
và ngoài nước câu kết với nhau bao vây và chống phá quyết liệt. Từ vĩ tuyến 16 trở ra
Bắc, gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch, đằng sau có đế quốc Mỹ giật
dây, ồ ạt kéo vào nước ta làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, theo sau là các đảng
phái tay sai phản động hịng đánh đổ chính quyền cách mạng, phá tan Việt Minh, lập
chính quyền phản động tay sai của chúng. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh
với danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật đã đồng lõa, dọn đường cho
Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, với mục đích chiếm đóng miền Nam, chia cắt nước ta.
Ngồi ra, trên cả nước ta lúc đó cịn 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một số quân
Nhật nghe lệnh của quân Anh, hỗ trợ Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Như vậy, sau Cách mạng Tháng Tám, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, những
khó khăn chồng chất khiến nước ta rơi vào tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc” khi phải
đối phó với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, đặc biệt hơn khi giặc ngoại xâm bao
gồm cả “thù trong giặc ngoài” cùng cấu kết, đồng lõa và chống phá với mục đích lật
đổ chính quyền non trẻ nước ta. Trước tình hình đó, u cầu Đảng ta phải có những
chủ trương, chính sách hợp lý và nắm bắt thời cơ để đưa đất nước thốt khỏi tình cảnh
lâm nguy, duy trì và bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
2. Chủ trương của Đảng và triển khai chính sách đấu tranh giữ vững chính quyền,
bảo vệ nền độc lập tự do
2.1. Mục tiêu và nội dung chính chủ trương của Đảng
Với những thuận lợi và khó khăn sau Cách mạng Tháng Tám, trên cơ sở phân
tích, đánh giá tình thế, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc trong điều kiện lịch sử mới với mục tiêu duy trì thành quả của cuộc
Cách mạng
4
Tháng Tám, củng cố chính quyền nhân dân, diệt giặc ngoại xâm và nâng cao chất lượng
đời sống người dân.
Trước hết, Chỉ thị xác định tính chất cách mạng Đơng Dương vẫn là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng, khẩu hiệu đấu tranh là “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”.
Đồng thời, trên cơ sở phân tích âm mưu của từng kẻ thù, Chỉ thị xác định “Kẻ thù chính
của nhân dân Đơng Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa
đấu tranh vào chúng. Nhiệm vụ riêng trong nước là phải củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân [3, tr26-27]”.
Như vậy, nhiệm vụ của cách mạng nước ta lúc bấy giờ là vừa kháng chiến vừa kiến
quốc. 2.2. Chính sách chống thù trong giặc ngồi
Dưới tình hình đất nước khó khăn bủa vây, Đảng đã ra sức nhằm khắc phục nhữn
khó khăn về kinh tế, xã hội và đạt được những thành tựu nhất định. Trong vịng một
năm, giặc đói, giặc dốt đã phần nào được đẩy lùi nhờ những phong trào, phát động của
Chính phủ cùng sự đồn kết, đồng lịng của người dân. Những khó khăn về tài chính
cũng đã phần nào được giải quyết thông qua cuộc vận động xây dựng quỹ do Chính
Phủ phát động. Tuy nhiên, như trong Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu rõ, đất nước ta
vẫn đứng trước mối đe dọa của giặc ngoại xâm và lực lượng phản động. Điều đó địi
hỏi Đảng và nhân dân phải có đường lỗi lãnh đạo và đấu tranh đúng đắn, kịp thời nhằm
chống quân xâm lược, bài trừ nội phản, giữ vững nền độc lập tự do dân tộc.
2.2.1. Đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ
Ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn ngày 2-9-1945, Thường
vụ Trung ương Đảng cùng xứ uỷ Nam Bộ đã nhất trí, quyết tâm lãnh đạo nhân dân miền
Nam đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng thời đưa ra những quyết định
quan trọng, ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân,
tăng cường công tác trừ gian, xây dựng củng cố cơ sở.
Đảng đã phát động phong trào cả nước hướng về miền Nam với mục đích tăng
cường sức người sức của, chi viện cho cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ. Nhân
dân Nam Bộ với tinh thần “thà chết tự do cịn hơn sống nơ lệ” đã đồng lịng nổi dậy
chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp, kiên quyết giữ vững nền độc lập dân tộc và
chính quyền cách mạng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc đã thành công làm thất
bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp.
5
2.2.2. Thực hiện sách lược “Hòa để tiến”.
Cùng với việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và đẩy mạnh kháng chiến ở
miền Nam, Đảng ta đã chủ trương thực hiện sách lược “lợi dụng mâu thuẫn kẻ thù để
phân hóa chúng, hịa hỗn, nhân nhượng có ngun tắc” để tranh thủ củng cố sức mạnh,
tránh trường hợp phải đối phó với nhiểu kẻ thù cùng một lúc.
Từ 2-9-1945 đến 6-3-1946, trên cơ sở xác định kẻ thù chính của nhân dân ta lúc
này là thực dân Pháp, Đảng và Chính phủ chủ trương hồ hỗn, nhân nhượng với quân
Tưởng ở miền Bắc để tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam, tranh thủ thời gian
để củng cố, xây dựng chính quyền cách mạng. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo
léo thực hiện sách lược nhân nhượng, vơ hiệu hóa các hoạt động chống phá của quân
đội Tưởng, đảm bảo cho việc tập trung lực lượng chống Pháp ở miền Nam. Kết quả là
cách mạng nước ta khơng những được duy trì mà cịn phát triển về mọi mặt.
Từ 6-3-1946 đến 19-12-1946, Đảng và Chính phủ chủ trương thương lượng với
Pháp dể buộc quân Tưởng rút về nước, tranh thủ thời gian để củng cố, bảo toàn lực
lượng tiến tới đánh Pháp lâu dài. Nguyên tắc căn bản cho việc đàm phán giữa ta với
Pháp là độc lập và hợp tác với Pháp trên cơ sở bình đẳng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ta ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt
vào 6-3-1946. Hiệp định sơ bộ thể hiện rõ thiện chí hồ bình của ta, việc ký hiệp định
sơ bộ đã buộc quân Tưởng phải rút về nước. Đồng thời, Đảng vẫn lên kế hoạch đề
phòng trường hợp Pháp bội ước. Cuộc hội nghị trụ bì ở Đà Lạt và hội nghị chính thức
họp ở Phôngtennơblô cũng không đi đến kết quả do phía Pháp ngoan cố giữ lập
trường thực dân. Để kéo dài hơn nữa thời gian hồ hỗn, gấp rút chuẩn bị kháng chiến
lâu dài, Bác Hồ đã ký với đại diện chính phủ Pháp Tạm ước ngày 14-9-1946 đồng ý
nhân nhượng hơn nữa một số quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hố cho thực dân
Pháp, đình chỉ xung đột ở miền Nam. Tranh thủ được thời gian hòa hoãn, Đảng lãnh
đạo nhân dân ta ổn định đời sống, củng cố sức mạnh, phát triển lực lượng vũ trang,
mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và phát triển chính quyền nhân dân vững
chắc hơn.
Đến cuối năm 1946, Pháp bội ước, với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, Pháp
ngang nhiên tuyên bố gây chiến tranh. Trước tình thế khơng cịn khả năng hịa hỗn,
Đảng ra chỉ thị toàn quốc kháng chiến vào ngày 19-12-1946, tất cả chiến trường trong
6
cả nước đồng loạt nổ súng, chấm dứt thời kì hịa bình. Nhưng một năm tạm hịa bình có
ý nghĩa rất lớn đối với nước ta trong việc củng cố mọi mặt của quốc gia.
3. Ý nghĩa chủ trương của Đảng giai đoạn 1945-1946
3.1. Về mặt lý luận
Các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng đều dựa trên cơ sở, nền tảng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, một hệ thống lý luận khoa học tiến bộ. Những chính
sách đối ngoại thời kỳ 1945-1946 được đưa ra với mục đích giữ vững chính quyền cách
mạng, bảo vệ độc lập dân tộc, từ đó tiếp tục phát triển đất nước theo con đường chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, ngay từ dầu Đảng khẳng định con đường phát triển tất yếu của
cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thực tiễn Việt
Nam.
3.2. Ý nghĩa lịch sử
Chủ trương chống thù trong giặc ngoài của Việt Nam trong giai đoạn 1945 – 1946
được đánh giá là rất khéo léo, linh hoạt. Những đối sách, chủ trương đúng đắn của Đảng
cùng với tinh thần quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân khỏi những thế lực thù trong giặc ngồi
những năm đầu chính quyền cách mạng vừa thành lập đã làm thất bại kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp. Điểm nổi bật của thắng lợi ngoại giao thời kỳ
này là chủ trương hịa hỗn và cách ứng xử tài tình, khôn khéo khi đối mặt với cùng
một lúc nhiều lực lượng kẻ thù với trên 30 vạn binh lính có mặt ở Việt Nam. Hơn
hết, chính quyền lãnh đạo của ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ địch
và có sách lược phù hợp với từng đối tượng. Cũng chính chiến thuật khéo léo đó đã
giúp Đảng ta tranh thủ thời gian đưa đất nước vượt qua những thử thách hiểm nghèo,
xây dựng, củng cố và chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiền trường kì.
Những thành quả sau Cách mạng Tháng Tám cùng những kết quả tích cực của
việc áp dụng các chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong bảo vệ chính quyền
cách mạng là những minh chứng giúp nhân dân tin tưởng, góp phần nâng cao ý chí đấu
tranh, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh cách mạng quần chúng.
Như vậy, thực tế đã chứng minh rằng, nền ngoại giao Việt Nam lúc bấy giờ dưới
sự dẫn dắt của Đảng và Chính phủ đã góp phần lớn trong bảo vệ chủ quyền và nền độc
lập non trẻ, đồng thời tranh thủ những thuận lợi cơ bản để phát triển đất nước, mở rộng
ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế. Tựu chung lại, chính sách đối ngoại Việt
7
Nam thời kỳ này là ngoại giao đa phương, linh hoạt dựa trên cơ sở nhân nhượng có
nguyên tắc và lợi dụng, tranh thủ mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù.
3.3. Ý nghĩa hiện thực trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay
Sau giai đoạn đất nước lâm nguy trong tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” năm
1945- 1946, từ những chủ trương, chính sách ngoại giao mà Đảng và Chính phủ đưa ra
lúc đó để đối phó với những lực lượng kẻ thù lớn mạnh, đất nước ta đã rút ra được
những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá, góp phần làm phong phú thêm kho tàng
lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Những bài học về nguyên tắc “đặt lợi ích
dân tộc lên hàng đầu”, về chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, về phương châm “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”, về sách lược “lợi dụng mâu thuẫn giữa nội bộ kẻ thù” … được
đúc kết từ chiến lược sáng tạo, tài tình ngay khi chính quyền cịn non trẻ đó là cơ sở
đặt nền móng cho thắng lợi của các thời kỳ tiếp nối sau này.
Trong bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp hiện nay, đường lối đối ngoại tự chủ, hịa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc là trọng tâm xuyên suốt thời kỳ đổi mới và được
nhận thức ngày càng sâu sắc.
Bước vào thế kỷ 21 hiện nay, tình hình quân sự đã có những sự thay đổi theo chiều
hướng tích cực so với lịch sử mà nhân dân ta phải đấu tranh giành chính quyền, đất
nước đã hồn tồn độc lập tự do, tuy nhiên vẫn còn những nguy cơ, bất ổn tiềm tàng,
đặc biệt là tình thế phức tạp trên vùng lãnh thổ biển Đông. Việc tranh chấp lãnh thổ
giữa các quốc gia yêu cầu nước ta không được chủ quan, cần có những kế hoạch, đường
lối để sẵn sàng chiến đấu, giữ vững nền độc lập, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo hịa
bình lâu dài.
Giống như chủ trưởng của Đảng nêu ra trong giai đoạn sau Cách mạng Tháng
Tám, dựa trên nguyên tắc “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu”, từ Đại hội XI (năm 2011)
Đảng ta nhận thức sâu sắc và khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu cao nhất
của đối ngoại.
Trong thời kỳ đổi mới, chính sách đối ngoại ln đề cao, thực hiện nhiệm vụ bao
trùm là giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ các thuận lợi về mặt quốc tế
cho công cuộc bảo vệ và phát triển Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc
tế. Qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng nhiệm vụ này ngày càng được nhấn mạnh và nhận
thức sâu sắc hơn. Trong cuộc họp Đại hội XII (năm 2016), Đảng khẳng định rõ nhiệm
8
vụ quan trọng của đối ngoại gồm ba yếu tố gồm an ninh, phát triển và vị thế đất nước.
Từ chỗ bị bao vây, cô lập cả về kinh tế và chính trị, đến nay quan hệ ngoại giao của Việt
Nam đã được mở rộng với 180 nước, quan hệ kinh tế - thương mại - đầu tư với trên 220
quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực, các nước
lớn và các trung tâm kinh tế - chính trị hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối
tác tiềm năng ngày càng phát triển, mối quan hệ ngày càng ổn định, bền vững hơn.
Trong hơn 30 năm đổi mới đất nước, ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về
nhiều mặt, nhiệm vụ trọng tâm phát triển kinh tế-xã hội gắn liền với củng cố quốc
phòng an ninh; tăng cường, mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa đất nước vượt qua khủng
hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, phát triển kinh tế với tốc độ
tăng trưởng nhanh chóng, chất lượng đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao tiềm
lực quốc phòng, quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, vị thế của nước ta trên trường
quốc tế không ngừng được nâng cao.
Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm, khẩu hiệu chỉ đạo xuyên suốt đối
ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới dựa trên chủ trương ‘thêm bạn, bớt thù” là nhất quán
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
đa dạng hóa, đa phương hóa; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế; nắm vững hai mặt đối tác - đối tượng, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, giữ quan điểm trung lập đối với những xung đột ngoài nước…
Từ nhận thức Việt Nam là một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng được triển khai mạnh mẽ, sau đó dần mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình
thành nên sự chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Chủ trương này là định hướng
chiến lược lớn, là cơ sở để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân, toàn
quân và cả hệ thống chính quyền. Đảng ta nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng gắn kết, từ đó nhất quán kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Những chuyến ghé thăm ngoại giao của Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng cùng các lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới các quốc gia khác được triển
khai rộng khắp, cùng với việc chúng ta tiếp đón những nguyên thủ và lãnh đạo các
quốc gia tới Việt Nam, là minh chứng cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được khẳng định và phát triển vững chắc.
9
Đặc biệt, trong bối cảnh quan hệ quốc tế diễn biến phức tạp cùng dịch bệnh
nghiêm trọng như hiện nay, ngoại giao Việt Nam đóng góp một phần khơng nhỏ trong
việc kiểm soát, đẩy lùi và khống chế dịch bệnh, duy trì ổn định xã hội. Đồng thời, Việt
Nam tích cực chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, hỗ trợ và giúp đỡ bạn bè quốc tế, tạo ra
môi trường đầu tư ổn định trong nước. Đại dịch Covid-19 đã và đang gây ra nhiều tổn
thất, khiến Việt Nam phải gánh chịu khơng ít những khó khăn, thử thách. Nhưng hơn
hết, ngoại giao cũng góp phần lớn trong cơng cuộc phục hồi, thúc đẩy phát triển kinh tế
đất nước.
Có thể nói, những chủ trương, chính sách đối ngoại, đặc biệt là những chủ trương
được kế thừa từ giai đoạn 1945-1946 qua nhiều kỳ đại hội là những nhân tố vô cùng
quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước.
4. Phương hướng phát huy chủ trương đối ngoại của Đảng hiện nay
Đảng ta vẫn đã và đang kế thừa, phát huy tính đúng đắn của những chủ trương đối
ngoại mang ý nghĩa chiến lược trong lịch sử một cách phù hợp với bối cảnh xã hội hiện
nay. Để đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển, hòa nhập của đất nước, Đảng và Chính phủ
cần đề ra những chính sách mang tính chủ động, sáng tạo hơn, đặc biệt cần đưa ra chính
sách đãi ngộ tốt nhằm thu hút nhân tài, cống hiến cho đất nước để phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao trình độ sản xuất, từ đó đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhanh hơn. Bên cạnh đó, cơng tác đối ngoại cần thể hiện được tính đồng
bộ thơng qua sự phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối
ngoại nhân dân, giữa các mối quan hệ với các đối tác, các lĩnh vực, nhất là đối ngoại
quốc phòng, an ninh, giữa song phương và đa phương… Ngồi ra, tính tồn diện của
nền ngoại giao Việt Nam cũng đặc biệt quan trọng thể hiện ở tất cả các chủ thể thực
hiện đối ngoại từ hệ thống chính trị cho đến các tổ chức doanh nghiệp và nhân dân;
trên tất cả các lĩnh vực phát triển của đất nước; cùng tất cả đối tác trên địa bàn, khu
vực, lấy đẩy mạnh mối quan hệ với các quốc gia khác, nâng cao tình đồn kết hữu
nghị làm trọng tâm, chủ động tham gia và phát huy vai trò của một nước có tinh thần
trách nhiệm trên cộng đồng quốc tế. Quan trọng hơn hết là cần nâng cao hơn nữa vai
trị của Đảng, Đảng có vững thì đất nước mới phát triển tốt đẹp, để đi tới đoàn kết quốc
tế với các quốc gia trên thế giới, giữ gìn tình hữu nghị để tạo nên khối liên minh đa
quốc gia vững chắc.
10
KẾT LUẬN
Như vậy, đề tài nghiên cứu đã xác định được bối cảnh lịch sử và nội dung chủ
trương đối ngoại của Đảng ta thời kỳ 1945-1946 nhằm đối phó với các thế lực “thù
trong, giặc ngoài”, cho thấy được những điểm sáng tạo, đúng đắn, những bài học kinh
nghiệm quý báu được áp dụng trong lĩnh vực đối ngoại trong bối cảnh hiện nay. Ngoại
giao Việt Nam thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 với nhiều biến động về tình
hình thế giới và trong nước đã phải phát huy hết khả năng để đồng thời giữ vững độc
lập, chủ quyền và đưa đất nước đi lên. Đây là thời kì mà cơng tác đối ngoại của Việt
Nam được thể hiện rõ nét với những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Thắng lợi của chính
sách đối ngoại thời kỳ 1945-1946 là minh chứng cho đường lối lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng, góp phần nâng cao, làm phong phú thêm sách lược ngoại giao của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, để lại nhiều những kinh nghiệm quý báu trong quan
hệ đối ngoại hiện nay. Các chủ trương ngoại giao của ta gắn liền với sự hình thành của
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Đến nay, những chủ trương đó vẫn là những
cơng cụ sắc bén giúp Việt Nam bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển
về các mặt và nâng cao vị thế đất nước. Đứng trước tình hình dịch bệnh căng thẳng và
bối cảnh quốc tế có nhiều xung đột, phức tạp như hiện nay, bản thân sinh viên phải
nhận thức được thực trạng những khó khăn, thách thức đang tồn tại, từ đó nâng cao ý
thức cá nhân, trách nhiệm đối với đất nước, góp phần hỗ trợ đất nước phát triển, xây
dựng hình ảnh đất nước tốt đẹp và quảng bá tới bạn bè quốc tế, góp phần nâng cao vị trí
quốc gia. Hy vọng rằng, với những thành tựu và kinh nghiệm mà thế hệ trước để lại, đất
nước ta có thể kế thừa và phát huy những di sản tư tưởng lý luận của Ðảng ta trong
những năm tháng gian khổ kháng chiến kiến quốc, tiếp thu, bổ sung những giá trị và
nhận thức mới, chúng ta sẽ từng bước hoàn thiện quan điểm, đường lối của Đảng nói
chung và chính sách ngoại giao của Đảng nói riêng, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đất nước trong giai đoạn mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Mậu Hãn, Trình Mưu (2005), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
CTQG, Hà Nội.
[2] Dương Minh Huệ (27-08-2020), Ngoại giao Việt Nam góp phần kiểm sốt, khống
chế đại dịch COVID-19, phục hổi và phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản [Trực
tuyến]
Địa chỉ: /
2018/817197/ngoai-giao-viet-nam-gop-phan-kiem-soat%2C-khong-che-dai-dichcovid-19%2C-phuc-hoi-va-phat-trien-kinh-te.aspx [Truy cập 23/04/2022 13:26]
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, 2000, t.8.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính
trị quốc gia, H.2011.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2016.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2021.
[7] Bùi Thanh Sơn (29/11/2021), Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát
triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Báo điện tử Đảng Cộng sản
Việt Nam [Trực tuyến]
Địa chỉ: />[Truy cập 22/04/2022 19:48]