Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

tiểu luận kinh điển KTCT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.04 KB, 17 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN KINH TẾ CHÍNH TRỊ HỌC

BÀI THU HOẠCH
MƠN: KINH ĐIỂN VỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

TÍNH KHOA HỌC VÀ TÍNH CÁCH MẠNG CỦA HỌC THUYẾT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ CỦA CÁC MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG HỌC
THUYẾT NÀY VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ
CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên:
Mã số học viên:
Lớp:
Khóa học: 2021 - 2023

Hà Nội 5/2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................................4
1. Khái quát chung về học thuyết giá trị thặng dư...............................................4
2. Tính khoa học của học thuyết “Giá trị thặng dư” của C.Mác........................6
3. Tính cách mạng của học thuyết “Giá trị thặng dư”.......................................10
4. Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam....................................11
KẾT LUẬN.................................................................................................................. 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO



3

MỞ ĐẦU
C.Mác (Karl Marx) là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại,
là lãnh tụ của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động tồn thế giới, ơng đã để lại cho
lồi người một di sản đồ sộ khơng chỉ có ý nghĩa lịch sử mà cịn có ý nghĩa to lớn cho
đến ngày nay - đó là chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng
lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa Mác “…ra đời là sự thừa kế trực tiếp từ những học thuyết của các
đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã
hội”. Dựa vào những thành tựu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, vận dụng
phương pháp biện chứng duy vật, duy vật lịch sử và trừu tượng hóa khoa học trong
nghiên cứu, C.Mác đã làm cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong kinh tế chính trị và xây
dựng nên học thuyết kinh tế của mình. Trong đó, học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá
tảng trong học thuyết kinh tế của C.Mác. Học thuyết giá trị thặng dư được xây dựng
trên cơ sở nghiên cứu lịch sử nền sản xuất hàng hố hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Cho
nên, chính Mác chứ không phải ai khác là một trong những người nghiên cứu sâu sắc
về nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hay gọi là kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay,
với nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, không thể phủ
nhận chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh hợp
pháp đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao mức sống của
người lao động. Tuy nhiên, xét một cách biện chứng thì thu nhập của chủ doanh nghiệp
tư bản tư nhân là lợi nhuận (tức giá trị thặng dư) nên vẫn tồn tại bóc lột giá trị thặng
dư. Cũng cần khẳng định chiếm đoạt giá trị thặng dư là đối lập với xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đang xây dựng nhưng chừng nào nó vẫn cịn có tác dụng, chúng ta vẫn
phải tạo điều kiện cho nó tồn tại và làm cho nó gia tăng. Và như vậy, việc vận dụng
học thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là cần thiết. Ngày nay, từ quan điểm đổi mới về chủ nghĩa xã hội,
học thuyết này cịn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Vì thế, mặc dù ra đời cách đây gần 200 năm, nhưng đến nay, học thuyết giá trị thặng
dư của C.Mác vẫn tràn đầy sức sống bởi tính khoa học và tính cách mạng của nó.


Trong khuôn khổ bài tiểu luận này, tác giả đi vào làm rõ tính khoa học và tính
cách mạng của học thuyết giá trị thặng dư của Mác, cũng như sự vận dụng học thuyết
này vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.

NỘI DUNG
1. Khái quát chung về học thuyết giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư (GTTD) được hình thành trên cơ sở học thuyết giá trị
- lao động mà trực tiếp là việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa. Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận, nó đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở khoa
học thực sự.
Trước C.Mác, ngay cả những nhà kinh tế học lỗi lạc của trường phái tư sản cổ
điển, như A.Smith và D.Ricardo đã khơng giải thích nổi vì sao các nhà tư bản trao đổi
hàng hóa đúng giá trị mà vẫn thu được GTTD. C.Mác đã khắc phục được những nhầm
lẫn, hạn chế của trường phái cổ điển và làm cho học thuyết giá trị - lao động đạt tới sự
hoàn bị. Sử dụng phương pháp đặc thù trong nghiên cứu kinh tế chính trị là trừu tượng
hóa khoa học, C.Mác đã tách GTTD ra khỏi những hình thái đặc thù của nó, xây dựng
nên học thuyết GTTD của mình.
Các nhà kinh tế trước C.Mác thấy được lao động tạo ra giá trị, nhưng không tách
ra được lao động nào (cụ thể hay trừu tượng) tạo ra giá trị. C.Mác cho thấy, chỉ có lao
động trừu tượng mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Nhờ phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa cùng với một loạt những kết quả nghiên cứu khác: Về
lượng giá trị, cấu thành lượng giá trị; nguồn gốc, bản chất, chức năng tiền tệ; quy luật
giá trị và tác động của nó; mâu thuẫn cơng thức chung của tư bản và đặc biệt là nhờ
phát hiện ra giá trị sử dụng đặc biệt của hàng hóa sức lao động có thuộc tính hết sức
đặc biệt là sản sinh ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó và nhờ phân biệt được quá

trình lao động và quá trình làm tăng giá trị (quá trình sản xuất GTTD), C.Mác đã vạch
rõ bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN), thực chất của quá trình sản
xuất GTTD. Qua đó, C.Mác làm rõ GTTD được tạo ra trong sản xuất chứ không phải
là trong lĩnh vực lưu thông; lưu thơng rất cần cho q trình sản xuất và thực hiện
GTTD.


5

Tất cả thành quả đó, tạo nên cơ sở khoa học vững chắc giúp C.Mác giải thích
được nguồn gốc thực sự và quá trình vận động, biến tướng của GTTD thành lợi nhuận,
lợi tức, địa tô trong sản xuất, lưu thơng, phân phối; phân tích được bản chất của tư bản
bất biến và tư bản khả biến... xây dựng nên học thuyết khoa học về GTTD, về tích lũy,
về tái sản xuất và khủng hoảng kinh tế... Với học thuyết GTTD, C. Mác đã giải phẫu
toàn bộ hệ thống kinh tế TBCN, bóc trần bản chất và nguồn gốc của cái gọi là hình
thức “thu nhập” là lợi nhuận, lợi tức và địa tô.
Học thuyết GTTD cho thấy rõ bản chất và đặc điểm bóc lột của TBCN. Kinh tế
hàng hóa TBCN là sự phát triển của kinh tế hàng hóa giản đơn. Nhưng, kinh tế hàng
hóa TBCN khác với kinh tế hàng hóa giản đơn khơng chỉ về lượng (tức là không phải
chỉ khác ở số lượng lớn sản phẩm bị thu hút vào chu chuyển hàng hóa và hình thái
hàng hóa của sản phẩm trở thành hình thái thống trị) mà còn khác về chất. Trên vũ đài
hàng hóa xuất hiện một loại hàng hóa mới là sức lao động, do đó, thị trường hàng hóa
(nói chung) được bổ sung bằng một bộ phận đặc biệt là thị trường sức lao động. Tất
nhiên, thị trường sức lao động khơng phải do C. Mác khám phá ra, vì ai cũng biết đến
sự tồn tại của lao động làm thuê trong các xã hội trước TBCN. Nhưng điểm nhấn là ở
chỗ, chỉ có C.Mác mới nhìn thấy lao động làm thuê (hàng hóa sức lao động và chỉ trên
cơ sở sản xuất hàng hóa, lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất (TLSX) mới trở thành
lao động làm thuê) là một nhân tố cơ bản làm cho tiền chuyển hóa thành tư bản và kinh
tế hàng hóa giản đơn chuyển hóa thành kinh tế hàng hóa TBCN - thời đại mới của quá
trình sản xuất xã hội, thời đại của tư bản công nghiệp.

Phương thức sản xuất TBCN được xây dựng trên cơ sở của một hình thức bóc lột
đặc biệt, tức là hình thức chiếm đoạt lao động của người khác (lao động thặng dư) dưới
hình thái GTTD. Khác với phạm trù “lợi nhuận” vốn được nhà tư bản yêu thích,
GTTD biểu hiện một cách chính xác như sau: 1- là giá trị, tức lao động vật hóa; 2 - là
lao động thặng dư vật hóa, là phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động và bị nhà tư
bản chiếm dụng. Từ đó, đặc điểm bóc lột của CNTB khơng phải là ở sự tồn tại lao
động thặng dư, mặc dù dưới sự thống trị của tư bản, trình độ bóc lột được nâng lên rất
cao, mà đặc điểm của nó là lao động thặng dư đã hao phí mang hình thái GTTD, cịn tỷ
lệ giữa thời gian lao động thặng dư và thời gian lao động tất yếu thì mang hình thái tỷ
lệ giữa GTTD và tư bản khả biến. Quan hệ bóc lột bị vật hóa, bị che lấp đằng sau quan
hệ giữa vật với vật. Vì thế, sự bóc lột trong chủ nghĩa tư bản (CNTB) là rất tinh vi và
khơng có giới hạn.


Như vậy, điểm mấu chốt của học thuyết GTTD là:
Thứ nhất, chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị của hàng hóa, tạo ra GTTD.
Nguồn gốc tạo ra GTTD là sức lao động của công nhân làm thuê, chỉ có lao động sống
(sức lao động đang hoạt động) mới tạo ra giá trị, trong đó có GTTD, nguồn gốc của
GTTD là sự tiêu dùng sức lao động kéo dài ngoài thời gian tái sản xuất ra giá trị của
nó;
Thứ hai, GTTD là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN,
khơng có sản xuất GTTD thì khơng có CNTB, GTTD là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ
bản, nội tại của xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa lao động và tư bản, giữa giai cấp tư sản
và giai cấp công nhân), mâu thuẫn này ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu
CNTB bằng một xã hội cao hơn.
Thứ ba, chừng nào còn chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX, còn hàng hóa
sức lao động, chừng nào mà người lao động còn phải thêm vào thời gian lao động cần
thiết để ni sống mình một số thời gian lao động dơi ra để sản xuất những tư liệu sinh
hoạt cho người chiếm hữu TLSX, chừng đó, học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác
vẫn cịn ngun giá trị.

2. Tính khoa học của học thuyết “Giá trị thặng dư” của C.Mác
Nghiên cứu kĩ học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác có thể thấy tính khoa học của học
thuyết này thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, trong học thuyết này, C.Mác đã trình bày, xâu chuỗi và thể hiện
các vấn đề, các phạm trù rất logic, kết cấu vô cùng chặt chẽ để làm toát lên được
nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư. Từ đó, liên hệ với thực tiễn cuộc sống và
đề ra các biện pháp giải quyết các mâu thuẩn trong xã hội TBCN, đưa đến lí giải một
cách có hệ thống sự vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản bằng tư duy kinh tế.
C.Mác đã hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư sau khi lấy điểm xuất phát là đi từ
lý luận giá trị, giá trị thị trường (giá trị trao đổi) và giá cả. Sở dĩ như vậy là vì giá trị là
cơ sở của giá trị thặng dư.
Trước hết, C.Mác nghiên cứu sự chuyển hoá của tiền thành tư bản 1. Thơng qua
sự phân tích phân biệt tiền thông thường và tiền là tư bản từ hai công thức: H-T-H và
1

phần 2, quyển 1, tập 23


7

T-H-T’, Mác khẳng định: tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột lao
động của người khác. Gọi là cơng thức chung của tư bản vì mọi tư bản dù kinh doanh
trong ngành nào (công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng…) đều vận động theo công
thức chung. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hố
thành tư bản.
Do mục đích của lưu thơng hàng hố giản đơn là giá trị sử dụng nên vịng lưu
thơng chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng
mà người đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng của tiền tệ với tư cách là tư bản không
phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu
bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải

lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó
T’= T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị thặng dư.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thơng T-H-T’ là sự lớn
lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là khơng có giới hạn, vì sự
lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.
Sau khi đưa ra cơng thức chung C.Mác phân tích là trong lưu thơng 2 trường
hợp: ngang giá và không ngang giá, kể cả gian lận trong mua bán đều không làm tiền
tệ lớn lên (đều không sinh ra ∆T). Và từ đây, C.Mác chỉ ra mâu thuẫn của công thức
chung tư bản: “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất
hiện ở bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không
phải trong lưu thông” 2. Và C.Mác đã giải quyết mâu thuẫn đó bằng cách phát hiện ra 1
loại hàng hóa đặc biệt đó là : Hàng hóa sức lao động.
Cũng giống như các hàng hố thơng thường, hàng hố sức lao động có khả năng
thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng giá trị sử dụng của
hàng hoá sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hồn tồn với hàng hố thơng
thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì khơng những khơng bị tiêu biến
theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà ngược lại nó lại tạo ra một lượng giá trị
mới c + m (c + m > v, với v là giá trị sử dụng của bản thân nó). Khoản lớn lên được
sinh ra trong quá trình sử dụng sức lao động chính là ∆T hay giá trị thặng dư.
Từ đó C.Mác kết luận: Hàng hố - sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị hơn
thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
2

C.Mác: Tư bản. NXB Sự thật, HN, 1987, Q1, tập 1,tr 216


Trong học thuyết về giá trị thặng dư của mình, Mác chỉ ra:
Nguồn gốc của giá trị thặng dư (m) chính là hao phí sức lao động của người
cơng nhân. Khi sức lao động trở thành hàng hoá giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao
động chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là q trình lao động

tạo ra hàng hố. Trong q trình ấy, chính lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn
hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động, tức là tạo ra giá trị thặng dư.
Từ đó C.Mác khẳng định bản chất của giá trị thặng dư là một phần giá trị mới do
lao động của người cơng nhân tạo ra ngồi giá trị sức lao động, là kết quả lao động
không công của người công nhân bị nhà tư bản chiếm lấy.
C.Mác chỉ ra 2 phương pháp làm tăng giá trị thặng dư là: sản xuất giá trị thặng
dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Trong đó:
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do
kéo dài thời gian lao động vượt qua thời gian lao động cần thiết, trong khi đó năng suất
lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động cần thiết không đổi.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp ngày lao động
không thay đổi nhưng nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và do đó thời
gian lao động thặng dư tăng lên.
Sau khi nghiên cứu giá trị thặng dư trong lĩnh vực sản xuất, C.Mác chỉ ra các
hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: trong giai đoạn cạnh tranh tự do, quy luật giá
trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình
quân. Trong giai đoạn độc quyền, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi
nhuận độc quyền.
Theo C.Mác: sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản trên cơ
sở khơng ngừng hồn thiện và phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa, là quy luật kinh tế
cơ bản của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì:
+ Nó quyết định bản chất, nguồn gốc và nguyên tắc phân phối cơ bản của xã hội
tư bản.
+ Nó chi phối hoạt động của các quy luật kinh tế khác trong nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa.


9

+ Nó quy định sự ra đời, tồn tại, phát triển và chuyển tiếp tất yếu của chế độ tư

bản, đồng thời khẳng định tính lịch sử của nó.
Như vậy, cùng với việc phát minh ra quy luật giá trị thặng dư ra đời, Mác đã cho
thấy: sản xuất giá trị thặng dư quyết định các mặt chủ yếu, các quá trình kinh tế chủ
yếu của chủ nghĩa tư bản. Nó là động lực vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản,
đồng thời nó cũng làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn
cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư
bản bằng một xã hội cao hơn.
Thứ hai, tính khoa học của học thuyết này còn thể hiện ở chỗ nó là cơ sở cho sự
ra đời và phát triển của các học thuyết khác của Mác như: học thuyết về tiền cơng, học
thuyết về tích luỹ Tư bản, học thuyết về q trình lưu thơng Tư bản, khủng hoảng kinh
tế, học thuyết về các hình thức biểu hiện giá trị thặng dư, để từ đó hình thành tồn bộ
lý luận của chủ nghĩa Mác.
Thứ ba, tính khoa học của học thuyết này còn được thể hiện ở chỗ nó có giá trị
thực tiễn rất cao.
Từ việc nghiên cứu của mình, C.Mác chỉ ra bản chất của chủ nghĩa tư bản, vạch
rõ thủ đoạn bóc lột của giai cấp tư sản, mà chính giai cấp này khơng thể bác bỏ được.
Ngày nay, các nhà tư bản thực hiện cải tiến kỹ thuật hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ
chức lao động để tăng năng suất lao động, nâng cao vai trị ngày càng tăng của quản lý,
của trí tuệ và kỹ thuật cao trong nền sản xuất tư bản hiện đại cũng không hề bác bỏ học
thuyết giá trị thặng dư của C.Mác. Mặc dù cơ cấu lao động sản xuất ra giá trị thặng dư
trong xã hội tư bản có những biểu hiện mới. Nhưng xét đến cùng, giá trị thặng dư bao
giờ cũng bắt nguồn từ lao động sống của tất cả những người lao động chân tay và lao
động trí óc trong hệ thống phân cơng lao động xã hội ngày càng phức tạp. Bóc lột giá
trị thặng dư vẫn là mục tiêu cơ bản mà phương thức sản xuất tư bản hiện đại theo đuổi,
vẫn là quy luật kinh tế quyết định bản chất của nó. Chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn đang
chứng minh cho sự tồn tại của quy luật này, mặc dù hình thức biểu hiện quy luật này
có những điểm mới, tinh vi hơn, đem lại cho giai cấp tư sản lợi nhuận cao hơn nhiều
so với trước, đặc biệt trong quan hệ giữa các nước tư bản phát triển với các nước chậm
phát triển.
Do khơng hiểu thấu đáo tính khoa học của học thuyết giá trị thặng dư nên khơng

ít người cho rằng, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có sự thay đổi về cấu trúc bên trong và


đã “tư sản hố” giai cấp cơng nhân. Chủ nghĩa tư bản đã dường như là một thứ “chủ
nghĩa tư bản công cộng”, “chủ nghĩa tư bản hỗn hợp”, “nửa tư bản chủ nghĩa”. Với sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản như vậy, dường như “lịch sử đã kết thúc ở nó” và lồi
người đang chứng kiến chủ nghĩa tư bản tự chuyển thành chủ nghĩa xã hội. Do đó, học
thuyết giá trị thặng dư khơng cịn giá trị.
Ngày nay ở các nước tư bản phát triển, tuy có hiện tượng cơng nhân có tiền mua
cổ phiếu và do đó được tham dự vào việc quản lý kinh doanh ở mức độ nhất định
nhưng không phủ định được bản chất bóc lột của nó. Thực chất, hình thức sở hữu cổ
phần là một phương tiện để tư bản tồn tại trong cạnh tranh và xoa dịu, điều hồ khơng
khí làm bớt căng thẳng trong các công ty; là nhân tố để tư bản nâng cao chất lượng và
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất. Với tư cách là cổ đông, người lao động được
chia một phần lợi nhuận, nhưng đó chỉ là sự thu hồi lại một phần giá trị thặng dư của
chính mình sản xuất ra mà thôi. Hơn nữa, với một số cổ phiếu bé nhỏ, người lao động
khơng thể có điều kiện “lột xác” thành nhà tư bản.
Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác đã đúng với chủ nghĩa tư bản thời C.Mác và
vẫn đúng với chủ nghĩa tư bản thời nay. Chừng nào những cơ sở kinh tế của sự nảy
sinh bóc lột - sự tập trung sở hữu vào một nhóm người chưa bị loại bỏ, chừng nào lồi
người vẫn cịn chưa vượt qua được hệ thống tư bản chủ nghĩa, thì lý luận giá trị thặng
dư vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực tiễn, cho dù hình thức và mức độ bóc lột có
khác đi. Lý luận đó vẫn đang là vũ khí tư tưởng - lý luận để chống lại sự bất bình đẳng
trong xã hội.
3.

Tính cách mạng của học thuyết “Giá trị thặng dư”

Tính cách mạng của học thuyết giá trị thặng dư được thể hiện qua tính giai
cấp của nó, cụ thể như sau:

Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác xây dựng trên cơ sở lý luận giá trị lao động.
Mục đích của nó là triệt để vạch ra quan hệ bóc lột giữa tư bản và lao động, vạch trần
giai cấp tư sản làm thế nào bóc lột giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.
Trong lịch sử kinh tế chính trị học, có rất nhiều các nhà kinh tế học cổ điển của
giai cấp tư sản đã từng nghiên cứu vấn đề bóc lột, nhưng họ chỉ chú ý nghiên cứu hình
thức cụ thể của giá trị thặng dư (lợi nhuận, lợi tức, địa tơ…). Mà chưa có thể từ những
hình thức cụ thể này để trừu tượng rút ra giá trị thặng dư là phạm trù kinh tế chung,
khái quát. Bản chất giai cấp của giai cấp tư sản khiến cho các nhà kinh tế học tư sản


11

không thể thực sự đi sâu nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư, do đó họ coi chế
độ tư bản chủ nghĩa là chế độ vĩnh hằng, coi giá trị thặng dư là một phạm trù vĩnh
viễn. C.Mác đứng trên lập trường của giai cấp vô sản trong bộ tư bản thơng qua phân
tích q trình tiền tệ chuyển hóa thành tư bản, đã phân tích một cách khoa học sức lao
động trở thành hàng hóa là đặc trưng cơ bản và điều kiện tất yếu của sản xuất TBCN,
đã xây dựng lý luận hàng hóa sức lao động, tức lý luận lao động làm thuê.
Theo Ph.Ăngghen, quan hệ tư bản và lao động là cái trục mà tồn bộ hệ thống
xã hội hiện đại xoay quanh nó. Quan hệ này lần đầu tiên được thuyết minh một cách
khoa học. C.Mác cịn trình bày rõ sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá
trình lao động và quá trình làm tăng thêm giá trị, đã vạch ra một cách sâu sắc thực chất
của giá trị thặng dư. C.Mác khẳng định: Sản xuất ra giá trị thăng dư là một quy luật
tuyệt đối của CNTB. Trong xã hội TBCN, quy luật m có tác dụng quyết định đối với
sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng và có tác dụng quyết định trong hệ thống các
quy luật kinh tế của xã hội.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác khơng những vạch trần thực chất bóc lột tư
bản chủ nghĩa và cội nguồn đối lập kinh tế giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản mà
cịn trang bị vũ khí lý luận cách mạng cho giai cấp vô sản và khiến cho giai cấp vơ sản
hiểu rõ ngun nhân thực sự của mình khi bị bóc lột về kinh tế, bị áp bức về chính trị,

chỉ ra sứ mệnh lịch sử của họ là lật đổ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và xây
dựng phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, từ đó thức
tỉnh giai cấp công nhân, đông đảo quần chúng lao động cầm vũ khí đứng lên làm cách
mạng.
Từ đó C.Mác cho rằng: giai cấp vô sản do nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa
đẻ ra, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất có khả năng lơi cuốn mọi giai cấp và
tầng lớp lao động khác đứng dậy làm cuộc cách mạng lật đổ chế độ tư bản để xây dựng
chế độ mới - cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa.
4. Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực
sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén


trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ
nghĩa xã hội, học thuyết này cịn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng,
phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, việc
nghiên cứu, khai thác để vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trở thành việc
làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trước hết phải nhận thức
đúng khái niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. “Bóc lột” là
một bộ phận người trong xã hội hoặc tập đoàn xã hội nào đó, chiếm đoạt khơng có
bồi thường thành quả lao động của một người khác hoặc của một tập đoàn khác.
Nhưng việc “chiếm hữu khơng có bồi thường” thành quả lao động của người khác
hoặc tập đồn xã hội, khơng chỉ dựa vào sở hữu tư liệu sản xuất hoặc tư bản tiền tệ
mà cũng có thể thơng qua bạo lực, quyền lực, chinh phục bằng vũ lực. Theo Mác,
việc bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước tới nay vận
động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư liệu sản xuất

tìm ra được người cơng nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột, và bóc lột người
cơng nhân đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá để thu được giá trị tăng thêm, chỉ
khi đó mới là bóc lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới mang tính chất đặc biệt là
tư bản. Vậy câu hỏi đặt ra trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam giá trị thặng dư còn tồn tại?
Để trả lời được câu hỏi trên, chúng ta cần tập trung khai thác, vận dụng những
vấn đề sau:
Một là, khai thác những di sản lý luận C.Mác về phương pháp sản xuất ra giá trị
thặng dư trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế hàng hóa,
thơng qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động,
mới bán được hàng hóa và bóc lột được giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.
Trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản, dưới sự tác động của các quy luật kinh tế,
trong đó có quy luật giá trị thặng dư, nhà tư bản thực hiện phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tuyệt đối là thực hiện kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động
nhưng phương pháp này vấp phải những phản kháng của người lao động nên các nhà
tư bản thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối bằng cách ứng dụng


13

những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để tăng năng suất lao động xã hội,
bên cạnh đó các nhà tư bản cịn tích cực cải tiến tổ chức sản sức, tiết kiệm chi phí sản
xuất, tìm hiểu nhu cầu của thị trường. Các tiềm năng về vốn, khoa học cơng nghệ,
trình độ quản lý sản xuất kinh doanh được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm
cho nền kinh tế năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế cần phải vận dụng các phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã vận dụng để phát triển sản xuất đặc biệt là
chú trọng vận dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối để năng cao
năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với phân phối

theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người lao động.
Những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực mạnh mẽ trong việc cải
thiện năng suất lao động (NSLĐ), nhờ đó đã có những cải thiện đáng kể, cả về giá trị
và tốc độ. Theo Báo cáo của Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) năm 2020 đã cho
thấy: năng suất lao động của Việt Nam được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn
2016-2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề
ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt
khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30-35%). Cũng theo Báo cáo 2020 của Tổ chức
Năng suất châu Á (APO), năng suất lao động Việt Nam tụt hậu so với Nhật Bản 60
năm, so với Malaysia 40 năm và Thái Lan 10 năm. Điều này cho thấy Việt Nam cần
phải có nhiều nỗ lực mạnh mẽ hơn nữa trong việc cải thiện năng suất quốc gia.
Hai là, khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn
nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản
lý thành phần kinh tế tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế ở
nước ta sao cho vừa khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi
vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Điều này cần có chính sách thúc đẩy thành phần
kinh tế này để qua đó thu hút được nhiều lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao
động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Trong thực tế, sau hơn 30
năm kể từ khi Luật đầu tư được ban hành năm 1987, đây là văn bản pháp quan trọng
nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngồi, tạo điều kiện mời gọi các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hơn 30 năm qua, khu vực có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) đang trở thành một phần không thể thiếu của
nền kinh tế, đóng góp khơng nhỏ sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. Theo


thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sau hơn 30 năm đón vốn FDI, từ năm 1988 đến
tháng 8/2018, 63 tỉnh, thành phố của cả nước thu hút 26.438 dự án FDI của 129 quốc
gia và vùng lãnh thổ còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 333,83 tỷ USD. Vốn FDI
đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Đầu tư nước

ngoài hiện là nguồn vốn bổ sung quan trọng chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư cả
nước, đóng góp khoảng 20% GDP. Năm 2017, khu vực FDI đóng góp khoảng 8 tỷ
USD, chiếm 14,4% tông thu ngân sách. 10 đối tác đứng đầu có số vốn đăng ký
khoảng 82%, trong đó phải kể đến Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapor và Đài Loan
(Trung Quốc).
Nhưng để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần phải quản lý
doanh nghiệp này để nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài
thời gian lao động vượt quá thời gian quy định của luật lao động mà khơng có sự
thống nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người
lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn
lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta thấy rằng chúng ta
thừa nhận bóc lột này khơng thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người
lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế,
nhà nước ta đã có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như: Luật lao động, Luật
bảo hiểm, quy định về tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp nhưng vẫn chưa
đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất hiện nay trong bảo vệ người lao động là thiếu sự
kiểm soát chặt chẽ và xử lý vi phạm nghiêm minh của các cơ quan chức năng đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Nhiều cuộc đình cơng, bãi cơng của cơng
nhân nước ta ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ khá cao trong
các cuộc đình cơng đặc biệt là năm 2011 đạt kỷ lục với 857 cuộc đình cơng. Hiện
nay, tuy đã giảm nhưng vẫn cịn diễn ra các cuộc đình cơng mà nguyên nhân dẫn đến
có liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm xã hội, tiền lương, chế độ ngày nghỉ, chất
lượng bữa ăn ca. Nếu khắc phục được những yếu kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy nền
kinh tế phát triển đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản để có cơ
chế, chính sách phân phối giá trị thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam



15

C.Mác đã khẳng định giá trị thặng dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư
vào sản xuất sinh ra, hoặc do máy móc tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng
dư của người lao động tạo ra. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta, người lao động không chỉ bao gồm người công nhân trực
tiếp đứng máy, mà cịn có những người lao động khác như lao động của những người
chủ doanh nghiệp, lao động của bộ phận quản lý sản xuất kinh doanh… Nếu người
chủ doanh nghiệp cũng là người trực tiếp quản lý thì lao động của họ cũng tạo ra giá
trị thặng dư. Lao động quản lý gọi là lao động phức tạp. Như vậy, chủ doanh nghiệp
được hưởng một phần giá trị thặng dư từ hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp là hồn tồn chính đáng. Vấn đề đặt ra làm sao lượng hóa chính xác số lượng
lao động thặng dư của từng bộ phận, từng người lao động để thực hiện phân phối giá
trị thặng dư một cách công bằng trong các doanh nghiệp hiện nay.
Doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đều có hai hình thức phân
phối: Theo tiền lương, tiền công và phân phối theo phúc lợi. Vấn đề là lượng hóa một
cách chính xác số lượng, chất lượng lao động. Số lượng thì đơn giản, nhưng về chất
lượng thì khó hơn. Mặc dù, lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn, nhưng
bội số là bao nhiêu thì rất khó. Vậy cần phải dựa vào hai yếu tố: Một là dựa trên sự
thỏa thuận hợp đồng của người thuê lao động và người lao động, mối quan hệ này
được điều chỉnh theo quy luật của thị trường, quy định mặt bằng chung về giá cả sức
lao động, về cạnh tranh của doanh nghiệp để thu hút lao động bằng tiền lương, tiền
thưởng. Hai là, sự điều chỉnh của Nhà nước bằng chính sách tiền lương và luật lao
động. Nhà nước quy định lương tối thiểu và điều kiện làm việc, về bảo hiểm…của
người lao động tại các doanh nghiệp.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung
và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên
cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN tìm ra bản chất
bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã
hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn nghiên cứu,

khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và
sâu sắc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN.


KẾT LUẬN
Học thuyết giá trị thăng dư là một trong 2 phát kiến vĩ đại của C.Mác. Đó là kết
quả của một cơng trình tiến hành trong suốt cuộc đời của Mác nhằm nghiên cứu quy
luật vận động của xã hội tư bản. Từ học thuyết này đã đưa ra kết luận hoàn chỉnh nhất
về xã hội tư bản:
Một là, vạch ra quy luật vận động kinh tế của xã hội tư bản – quy luật giá trị
thặng dư, và từ đó vạch ra bản chất bóc lột của xã hội tư bản.
Hai là, làm rõ địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong lịch sử nhân loại; làm rõ
vai trị và sứ mệnh của giai cấp cơng nhân là người lãnh đạo cuộc đấu tranh để lật đổ
chế độ tư bản chủ nghĩa và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay có nhiều thay đổi so với thời mà C.Mác còn sống,
nhưng lý luận giá trị thặng dư của C.Mác đã đúng với chủ nghĩa tư bản thời C.Mác và
vẫn đúng với chủ nghĩa tư bản thời nay. Chừng nào những cơ sở kinh tế của sự nảy
sinh bóc lột - sự tập trung sở hữu vào một nhóm người chưa bị loại bỏ, chừng nào lồi
người vẫn cịn chưa vượt qua được hệ thống tư bản chủ nghĩa, thì lý luận giá trị thặng
dư vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực tiễn, cho dù hình thức và mức độ bóc lột có
khác đi nhưng những thay đổi đó chưa hề xố bỏ được tình trạng phân chia giai cấp,
phân chia giàu nghèo trong xã hội; cũng như tình trạng áp đặt, áp bức dân tộc, chỉ có
điều, sự thống trị, áp đặt được ẩn chứa tinh vi hơn. Chỉ có điều cần lưu ý là, trong
những điều kiện thay đổi hiện nay, những người cộng sản hết sức sáng tạo, tránh giáo
điều, rập khn, máy móc khi vận dụng những nguyên lý của học thuyết Mác, vào
từng nước và từng giai đoạn cụ thể
Do đó, để khẳng định tính khoa học và cách mạng của học thuyết này cần vận
dụng luận giá trị thặng dư của Mác vào thực tiễn, tìm mối liên hệ của nó với những
thay đổi của thời đại, những điều kiện thực tiễn của cách mạng để vận dụng một cách

triệt để sáng tạo trong nghiên cứu và vận dụng.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội VII, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1991.
2. Các Mác, Tư bản, tập thứ nhất, phần 2, quyển I, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva- Sự thật, H.1984.
3. Các Mác, Tư bản, tập thứ nhất, phần 1, quyển I, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva- Sự thật, H.1984.
4. Lê Xuân Bình, Vấn đề bóc lột giá trị thặng dư và quan hệ giữa tư bản và lao động hiện nay, Tạp
chí Cộng sản, số 9, tháng 5 năm 2006.
5. Bùi Ngọc Chưởng, Ý nghĩa ngày nay của học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác, Tạp chí Cộng
sản, số 9, tháng 5 năm 2005.
6. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện thành phố Hồ Chí Minh, Học thuyết giá trị
thặng dư của C.Mác, Nxb. Chính trị quốc gia, H.19
7. C.Mác-Ph.Ănghen, Toàn tập, tập 23, tr 873.
8. Những nhận thức về kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, NXb Chính trị quốc gia,
Hà nội, 1998, tr5, 8, 34
9. Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020. NXB Thống kê. Tr 9,45.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×