Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tiểu luận LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI Đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.62 KB, 6 trang )

Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

BÀI THI GIỮA KỲ
Môn: Lịch sử văn minh thế giới
Học kỳ 1 (năm học: 2021-2022)
Họ và tên sinh viên: Huỳnh Phước Long
Mã số sinh viên: 2157060066
Số thứ tự: 62
Lớp: 02 – Quan hệ quốc tế (Học Online)
ĐIỂM BẰNG SỐ:
ĐIỂM BẰNG CHỮ:
TỔNG SỐ TRANG GIẤY THI: 5 trang (năm trang)
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN:

1


BÀI LÀM
Câu 1. Lý thuyết (5,0 điểm)
Tại sao nói: Văn minh phương Đông là "cái nôi" của văn minh thế giới?
Vận dụng tri thức lịch sử văn minh của Ai Cập cổ đại và Ấn Độ cổ-trung đại để làm sáng
tỏ quan điểm của anh/chị.
Nhắc đến văn minh, mọi người thường hay nghĩ đến những giá trị vật chất và tinh
thần to lớn mà loài người đã đạt được từ xa xưa đến nay. Lật lại từng trang sử, khám phá
những gì đã được ghi chép, được lưu truyền hàng nghìn năm nay, chúng ta có thể biết
được rằng: Văn minh phương Đông là nền văn minh lâu đời hơn cả và được xem là “cái
nôi” của văn minh thế giới. Dựa trên những kiến thức đã học của bộ môn Lịch Sử Văn
Minh Thế Giới, chúng ta sẽ cùng nhau làm rõ nhận định đó.
Trước khi đến với những phân tích, chứng minh từ đó đi đến kết luận: Văn minh
phương Đông là “cái nôi” của văn minh thế giới, trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ về


khái niệm Văn minh. Văn minh là trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật chất và tinh thần
của xã hội loài người tức là trạng thái phát triển cao của nền văn hố. Đến giai đoạn có
nhà nước thì loài người mới bước vào xã hội văn minh. Các nền văn minh là những
thành tựu đỉnh cao của xã hội loài người trên một địa bàn nhất định, vào một thời gian
xác định và gắn liền với chủ nhân của nền văn minh đó. Thơng thường, các nền văn
minh thường được tập trung và tổ chức tại những nơi tập trung dân cư đông đúc và sinh
sống với nhiều hình thức xã hội khác nhau. Những thành phần dân cư ở đây sẽ tham gia
vào hoạt động kinh tế, khai thác, sản xuất và bn bán.
Đồng thời, khi nói về khái niệm văn minh và nền văn minh, cuối thiên kỷ IV, đầu
thiên kỉ III TCN, cư dân Tây Á và Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, đến
những thế kỷ trước sau CN, ở phương Đông tức là ở châu Á và ở Đông Bắc châu Phi có
bốn nền văn minh lớn, đó là Lưỡng Hà, Ai Cập, Ấn Độ và Trung Quốc. Cũng chính nhờ
sự thuận lợi của điều kiện tự nhiên: khí hậu ấm áp, lượng nước dồi dào quanh năm, nằm
ven các con sông lớn mang lại nguồn phù sa khổng lồ, màu mỡ, phù hợp cho canh tác
nông nghiệp đặc biệt là trồng lúa nước. Các quốc gia cổ đại phương Đơng đã ra đời từ rất
sớm ven các dịng sông lớn với hoạt động kinh tế chủ đạo là nông nghiệp, gắn liền với
công tác thuỷ lợi, nên đây là một trong những lý do khiến văn minh phương Đông là ‘cái
nôi’ của văn minh thế giới.
Trong tất cả các nền văn minh trên thế giới, văn minh Ai Cập là một trong những
nền văn minh ra đời sớm nhất, nền văn minh ấy hình thành và phát triển rức rõ vào thời
kì cổ đại. Cư dân Ai Cập cổ đại sống ven bờ sông Nin - con sông dài nhất thế giới, đem
đến lượng phù sa màu mỡ bồi đắp cho đất đai nơi đây. Trải qua hàng trăm năm, sơng Nile
chứng kiến sự hình thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc Ai Cập cổ đại, góp
2


phần tạo nên nền văn minh sông Nin lâu đời. Nền văn minh Ai Cập được hình thành rõ
nét nhất vào năm 3150 TCN, những vương quốc ra đời từ rất sớm cùng với mơ hình nhà
nước qn chủ chun chế trung ương tập quyền chính là lý do tiên quyết để chứng minh
rằng Ai Cập từ xa xưa đã có sự hình thành của nhà nước và đã bước vào thời kì xã hội

văn minh. Dịng sơng Nin mang đến lượng phù sa khổng lồ, thích hợp cho việc phát triển
nơng nghiệp. Đó cũng là đặc điểm chung của những nền văn minh lớn ra đời ở phương
Đông – đều nằm ven những con sơng lớn, có nhiều điều kiện thuận lợi để trồng cây lương
thực như: trồng đay, sáng tạo ra lưỡi cày, tận dụng sức kéo của trâu bị để làm nơng và
biết làm thuỷ lợi trong nơng nghiệp. Họ có chữ viết là chữ tượng hình được khắc trên đá,
gỗ, đồ gốm nhưng chất liệu phổ biến nhất vẫn là giấy Papyrus – loại giấy ra đời sớm nhất
trên thế giới Hơn thế nữa, các di sản kiến trúc đồ sộ, các tuyệt tác về hội hoạ, điêu khắc
và phong tục mai táng của người Ai Cập cổ đại đã vươn đến tầm kì quan của thế giới tiêu
biểu là nghệ thuật ướp xác, xây dựng được tượng Nhân sư, Kim tự tháp - “Mọi thứ đều
sợ thời gian, nhưng thời gian phải sợ kim tự tháp”.
Người Ai Cập chịu ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo đa thần, các tín ngưỡng dân
gian và tư tưởng thần quyền của Pharaoh. Tuy nhiên, sự khám phá tri thức của họ vẫn có
giá trị đến tận ngày nay. Với nhu cầu tìm hiểu những quy luật của tự nhiên để tính tốn
cho gieo trồng và bầu trời trong trẻo dễ quan sát thiên văn, Thiên văn học ở Ai Cập cổ đại
đã gặt hái được nhiều thành tựu có giá trị: biết được 5 hành tinh trong hệ mặt trời, sáng
tạo ra lịch (365 ngày tương ứng với 1 năm). Song song đó, với nhu cầu đo đạt trong lao
động sản xuất, tính tốn trong bn bán, Tốn học ở Ai Cập cổ đại ra đời là kết quả tất
yếu của quá trình lao động sản xuất: người Ai Cập cổ dùng hệ đếm cơ số 10, thành thạo
phép tính cộng trừ, tính được diện tích và thể tích hình học, sáng tạo định lý Pytago, tính
gần đúng số pi= 3,16. Những thành tựu về Toán học nêu trên đã phần nào ảnh hưởng đến
các nền văn minh lớn khác ra đời sau này như Ấn Độ, văn minh phương Tây và vẫn còn
giá trị thực tiễn đến ngày nay. Y học ở Ai Cập cổ đại cũng đạt được nhiều thành tựu to
lớn: họ biết mô tả bộ não, biết mối quan hệ giữa tim và mạch máu, biết chữa bệnh bằng
thảo mộc và họ biết rằng bệnh khơng phải do ma quỷ.
Từ q trình lao động cần mẫn kết hợp với trí tuệ khoa học tuyệt vời trong cả lĩnh
vực Khoa học tự nhiên lẫn Khoa học xã hội, Ai cập đã đóng góp khơng ít thành tựu vĩ đại
cho nhân loại. Văn minh Ai cập là “hịn đá tảng” góp phần định hướng và tác động đến
nền văn minh Tây Âu đồng thời thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của loài người.
Cũng giống như nền văn minh phương Đơng nói chung gắn với các dịng sơng lớn,
người dân xây dựng nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ là người Dravidian đã xây dựng

nền văn minh của mình ven sơng Ấn vào khoảng thời gian từ năm 2800 -1800 TCN . Đến
khoảng năm 2000-1500 TCN, người Arya đến lưu vực sông Hằng để khai phá đất đai,
làm nông nghiệp. Tương đồng với các nền văn minh khác ở phương Đông, văn minh Ấn
Độ cổ-trung đại cũng bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp: trồng trọt, chăn nuôi. Họ
biết làm gốm, dệt, rèn đúc các công cụ lao động, biết làm mộc, nhuộm, đan lát để làm đồ
3


thủ cơng. Trong thương nghiệp, có tiền tệ (vàng, bạc, đồng) để trao đổi, bn bán, cho
vay lãi.
Thời kì văn minh lưu vực sông Ấn từ đầu thiên kỷ III đến giữa thiên kỷ II TCN,
đây là thời kỳ xã hội có sự phân hố giai cấp và đã có nhà nước hình thành. Đến thời kỳ
Vê đa (từ thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN), chế độ đẳng cấp do người Arya xây dựng
đã xuất hiện, họ dùng đạo Bà la môn và bộ luật Manu để bảo vệ tài sản, bảo vệ chế độ
đẳng cấp và chế độ gia trưởng phụ quyền của giai cấp thống trị.
Cũng giống như nền văn minh Ai Cập cổ đại, nền văn minh Ấn Độ cổ-trung đại
cũng để lại rất nhiều thành tựu văn minh to lớn, có giá trị đến tận ngày nay. Chữ Phạn
(Sanskrit) cổ xưa được sử dụng phổ biến trong các kinh Vê đa ở Ấn Độ, đó cũng là một
trong hai bộ phận quan trọng nhất trong văn học Ấn thời kì cổ-trung đại bao gồm kinh Vê
đa và sử thi. Vê đa ra đời vào khoảng TK XV TCN- TK X TCN, là kinh thánh đồng thời
cũng là một tác phẩm văn học, là bộ kinh thành văn cổ xưa nhất ở Ấn Độ và là cốt lõi của
đạo Bà la môn, suối nguồn của nền văn minh Ấn Độ. Sử thi gồm 2 bộ Mahabharata và
Ramayana với bộ Mahabharata là bộ sử thi dài nhất thế giới mà đến tận ngày nay vẫn
chưa có bộ sử thi nào vượt qua được về độ dài.
Những hiểu biết của văn minh Ấn Độ đã để lại dấu ấn riêng đặc sắc trong nền văn
minh thế giới: biết Trái Đất và mặt trăng có hình cầu, biết phân biệt được 5 hành tinh,
tổng kết những hiểu biết về Thiên văn học trong Siddhantas – có giá trị cho những nền
văn minh ra đời sau này. Trong toán học, phát minh ra được 10 chữ số tự nhiên cịn ứng
dụng cho đến ngày nay và tính được chính xác số pi=3,14. Các thầy thuốc ở Ấn Độ biết
phẫu thuật (chữa bệnh và làm đẹp), chế thuốc tê cho bệnh nhân. Đó cũng chính là những

thành tựu cịn ứng dụng cho đến ngày nay.
Và một khía cạnh quan trọng khơng thể khơng nhắc đến khi tìm hiểu nền văn minh
Ấn Độ cổ-trung đại đó chính là tơn giáo, Ấn Độ là cái nôi của tôn giáo và Đạo Hindu đã
trở thành quốc giáo của Ấn Độ cho đến tận ngày nay. Phật giáo cũng bắt nguồn từ Ấn Độ,
đến nay, Phật giáo là tơn giáo có ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và có tầm ảnh hưởng
sâu rộng đến các quốc gia phương Đông: Trung Quốc, Thái Lan, My-an-ma, Lào,…
Tóm tại, từ những tri thức đúc kết được qua quá trình học lịch sử văn minh về Ai
Cập cổ đại và Ấn Độ cổ-trung đại, chúng ta có thể nhận thấy được rằng: Ở phương Đông,
cư dân sống ven các con sông lớn, thuận lợi cho lao động sản xuất, từ đó hình thành nên
các đô thị và nhà nước nên họ sớm bước vào thời kì văn minh. Qua quá trình lao động và
học hỏi tri thức, người phương Đơng nói chung biết sáng tạo ra những công cụ lao động,
những phương thức lao động, ứng phó với thiên nhiên. Hơn thế nữa, những thành tựu của
họ về các mặt như: Chữ viết, Kiến trúc, Thiên văn học. Tốn học, Y học, Tơn giáo,… vẫn
có sức ảnh hưởng rất lớn với các nền văn minh phương Tây (ra đời sau khoảng 2000
năm) và vẫn còn giá trị thực tiễn to lớn cho đến ngày nay. Từ những lý do trên, chúng ta
có thể tự tin khẳng định rằng: Văn minh phương Đông là “cái nôi” của văn minh thế giới.
4


Câu 2. Liên hệ thực tế (5,0 điểm)
Có hay khơng mối liên hệ giữa văn hóa, văn minh Việt Nam với các nền văn minh thế
giới? Trình bày suy nghĩ của anh/chị dựa vào vốn kiến thức xã hội của bản thân (kèm
theo các dẫn chứng cụ thể).
Nhà nghiên cứu văn hoá Hữu Ngọc nhấn mạnh: Gốc văn hoá Việt Nam ở Đơng
Nam Á thuộc văn minh lúa nước. Ngồi vận động nội tại (các tộc người bản địa), gốc đã
qua tiếp biến văn hoá, được ghép thêm những yếu tố văn hoá ngoại lai (chủ yếu là Trung
Quốc), Ấn Độ (ít hơn) và phương Tây (Pháp).
Thật vậy, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, người Hán đã thống trị và áp đặt văn
hoá người Hán lên người Việt ta, thế nhưng, trong quá trình bảo vệ những giá trị văn hố
của ơng cha ta để lại, khơng thể phủ định rằng, tiếp nhận một cách có chọn lọc về mặt

văn minh, người Việt ta đã tiếp thu được nhiều kĩ thuật quan trọng:
+ Văn minh vật chất: Sử dụng lưỡi cày sắt thay cho đồ đồng, các nghề thủ công như
ngành dệt, ngành in giấy, ta còn xây dựng được những ngơi chùa trong thời Bắc thuộc
Ví dụ: Chùa Dâu (Bắc Ninh) được xây dựng vào năm 187 và hoàn thành năm 226 là ngôi
chùa lâu đời gắn liền với lịch sử và văn hoá Việt Nam dưới thời Bắc thuộc, được nhà
nước xếp hạng di tích vào 28/4/1962.
+ Văn hố phi vật thể: dưới ách thống trị và đơ hộ của người Hán, người Việt tuy phải
học tiếng Hán nhưng đã cải biến thành chữ Nôm, chữ Hán-Việt. Ta tiếp thu những tư
tưởng, đạo đức đúng trong Nho giáo: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín; tam cương ngũ thường.
Trong văn học và thơ ca: ta tiếp thu các thể thơ Đường luật: thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ
tuyệt,… từ đó tạo nên những bài thơ Đường luật hay, làm phong phú cho kho tàng văn
học, thơ ca nước nhà.
Ví dụ: bài thơ “Nam quốc sơn hà” được cho là của danh tướng Lý Thường Kiệt, tuy viết
bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nhưng với nội dung muốn phân định rõ chủ
quyền với giặc phương Bắc và khẳng định chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta
nên vẫn được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
Ảnh hưởng của nền văn hoá, văn minh của Trung Quốc đến với nước ta thường
qua chiến tranh, đơ hộ, cịn đối với Ấn Độ thì qua truyền giáo, bn bán nên khơng có sự
liên tục, ảnh hưởng lớn nhất từ nền văn hoá Ấn Độ đối với nước ta đó chính là Phật giáo.
Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ cho các giáo sĩ phương Tây truyền giáo đạo
Thiên chúa vào nước ta bằng chữ Quốc ngữ, phục vụ mục đích cai trị, nhưng chúng ta đã
sử dụng chữ Quốc ngữ để thể hiện lòng yêu nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc qua
báo chí. Hoặc các cơng trình kiến trúc do thực dân Pháp xây dựng giờ đây trở thành
những biểu tượng, những “nhân chứng” lịch sử: Cầu Long Biên do thực dân Pháp xây
5


dựng (1898-1902) ở Hà Nội đã trở thành một đề tài phổ biến trong văn học và thơ ca Việt
Nam, xuất hiện trong chương trình ngữ văn lớp 7 – “Cầu Long Biên chứng nhân lịch sử”.
Trong thời kỳ hiện đại ngày nay, ở nước ta có xây dựng những kiến trúc mang đậm

phong cách của các nền văn minh lớn trên thế giới
Ví dụ: Bảo tàng Hà Nội với lối kiến trúc kim tự tháp ngược mang đậm phong cách của
nền văn minh Ai Cập cổ đại nhưng không kém phần mới lạ và độc đáo.
Ví dụ: Cơng viên kì quan Đà Lạt thuộc Thung lũng tình u có những biểu tượng được
xây dựng để khách du lịch chụp ảnh như: Bãi đá cổ Stonehenge, tháp đôi Petronas, thành
cổ Petra, thành cổ Chichen Itza của nền văn minh Maya…..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Dương Ninh (Chủ Biên), Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Quốc Hùng, Đinh Ngọc
Bảo - Lịch sử văn minh thế giới (tái bản lần thứ 12) - Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam.
2. Văn minh phương Đông: />%A1i/
3. Lịch sử văn minh thế giới: Ấn Độ cổ-trung đại:
/>username=thanhvn&tsubject=2094

HẾT

6



×