BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP NHĨM
MƠN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ BÀI:
Phân tích chủ trương của Đảng về hình thức và phương pháp
đấu tranh qua hai phong trào cách mạng 1936-1939 và 1939-1945.
LỚP
NHÓM
: N08 –TL2
: 03
Hà Nội - 2020
1
MỤC LỤC
2
A. MỞ ĐẦU
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, cuộc đấu tranh chống
thực dân Pháp, phát xít Nhật xâm lược cùng bọn phản động và bè lũ tay sai luôn
được Đảng tiến hành kiên quyết, kịp thời. Những chủ trương của Đảng trong giai
đoạn 1936-1939 và 1939-1945 đã cho thấy rõ sự chuyển hướng chiến lược của
Đảng ta, đồng thời thể hiện sự đúng đắn, phù hợp qua từng thời kỳ. Để nghiên cứu
rõ hơn về vấn đề này, bài tiểu luận xin được trình bày và phân tích chủ trương của
Đảng về hình thức và phương pháp đấu tranh qua hai phong trào cách mạng
1936-1939 và 1939-1945.
B. NỘI DUNG
I. Chủ trương của Đảng về phương pháp và hình thức đấu tranh trong
phong trào cách mạng 1936 – 1939
I.1. Hồn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới:
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929 – 1933 ở các nước hệ
thống tư bản chủ nghĩa đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày
càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và thắng thế ở một số nơi như Đức, Tây Ban
Nha, Nhật Bản,.. Nguy cơ chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm
trọng nền hịa bình và an ninh quốc tế.
Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản họp tại
Matxcova xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt là chủ nghĩa phát xít; vạch ra
nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo
vệ dân chủ và hịa bình. Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các đảng cộng sản và
nhân dân các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân
rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hịa bình.
3
Tình hình trong nước:
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đã tác động sâu sắc không những đến
đời sống các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động. Trong khi đó, bọn cầm quyền
phản động ở Đơng Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột , bóp nghẹt mọi quyền tự do,
dân chủ và thi hành chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân
ta.
Tình hình trên đã làm cho các giai cấp và tầng lớp đều muốn đấu tranh đòi
quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hịa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ
chức của Đảng và các cơ sở cách mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt
khác, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp ban hành một số chính sách dân chủ có lợi
cho thuộc địa.
I.2. Nội dung chủ trương của Đảng về phương pháp và hình
thức đấu tranh
Trước những chuyển biến đó, đặc biệt dưới ánh sáng của chủ trương chuyển
hướng chiến lược của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, trong những năm 1936
– 1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp đề ra chủ
trương mới trong đó xác định phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp với tình
hình nước ta.
Theo đó, Đảng đã chuyển sang phương pháp, hình thức đấu tranh cơng
khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Đây là phương pháp và hình
thức đấu tranh trong khn khổ pháp luật của giai cấp thống trị, có sự kết hợp giữa
cơng khai và bí mật về sự lãnh đạo của Đảng. Trong khi tranh thủ mở rộng các hình
thức tổ chức đấu tranh cơng khai, hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa công khai mà
phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động bí mật của
Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và cơng khai, hợp pháp với khơng hợp
pháp và phải bảo đảm sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức
và hoạt động công khai, hợp pháp.
4
Phong trào đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp
pháp trong giai đoạn này diễn ra hết sức sơi nổi dưới nhiều hình thức khác nhau.
Cụ thể, đã xuất hiện hình thức đấu tranh nghị trường – đưa người của Mặt
trận Dân chủ Đông Dương ra ứng cử vào Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ,.. nhằm
mở rộng lực lượng, vạch trần chính sách phản động.
Ngồi ra, cịn có hình thức đấu tranh trên lĩnh vực báo chí, thu về kết quả to
lớn về văn hóa, tư tưởng. Nhiều tờ báo ra đời, các nhà xuất bản của Đảng ta và
Đảng Cộng sản Pháp đã in và phát hành nhiều tập sách về chủ nghĩa Mác, về duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trên văn đàn, các tác phẩm như “Tắt đèn” của
Ngô Tất Tố, “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công
Hoan, “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng,... đã phản ánh sinh động một hiện thực đau
khổ, lầm than của xã hội Việt Nam dưới ách thực dân-phong kiến.1
Cũng trong thời kỳ này, đã có nhiều phong trào mít tinh, biểu tình địi quyền
tự do dân chủ, dân sinh nổ ra. Tiêu biểu có thể kể đến phong trào Đông Dương Đại
hội – các ủy ban hành động thành lập khắp nơi để thảo luận dân chủ, dân sinh nhằm
giúp quần chúng giác ngộ và đứng lên đấu tranh; phong trào đón Gơ-đa – lợi dụng
sự kiện để tổ chức quần chúng mít tinh, đưa yêu sách về dân sinh, dân chủ; cùng
nhiều cuộc biểu tình ở Sài Gòn, Hà Nội từ 1937 – 1939. Tất cả những phong trào
đều là đấu tranh công khai, thể hiện tinh thần và ý chí đấu tranh vì hịa bình, tự do.
Tuy vậy, nhưng những bí mật về đường lối, cách thức tổ chức và phân bố,
trang bị lực lượng vẫn được đảm bảo giữ bí mật để đề phịng qn địch. Trong nghị
quyết của Hội nghị Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đơng Dương năm 1938, cũng
đã nêu:
“a) Bí mật với công khai là làm cho công tác của Đảng được thống nhất và
chóng phát triển, vơ luận cơng khai hay bí mật đều phải phục tùng cơ quan chỉ huy
của Đảng, bộ phận công khai không phải là một cơ quan bình hàng với Trung
1 Nguyễn Quang Ngọc (2006), “Chương X – Việt Nam trong những năm 1930-1945”, Tiến trình Lịch sử
Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr.280-284.
5
ương hay các cấp bộ tương đương, nó chỉ là một bộ phận trong công tác của
Đảng; vậy những chỗ nào những đảng bộ bí mật khơng chỉ đạo nổi cơng tác cơng
khai thì các đồng chí bí mật và công khai phải thương lượng với nhau mà làm việc.
[…]
b) Các đồng chí phụ trách bí mật khơng nên trực tiếp tới các Cơ quan công
khai mà chỉ nên gián tiếp với một vài đồng chí hết sức chắc chắn trong chi bộ cơng
khai thơi, có như vậy mới tránh sự đổ bể bất ngờ.”2
I.3. Nguyên nhân lựa chọn và ý nghĩa của chủ trương Đảng về
phương pháp và hình thức đấu tranh
Nguyên nhân Đảng ta lựa chọn phương pháp và hình thức đấu tranh này
xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng trước mắt và trực tiếp lúc đó là đấu tranh đòi
quyền tự do, dân sinh, dân chủ với nhiều tầng lớp nhân dân tham gia nên Đảng cần
phải mở rộng quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng
đấu tranh bằng nhiều hình thức và khẩu hiệu thích hợp.
Bên cạnh đó, Đảng cũng muốn khắc phục những thiếu sót của phương pháp
đấu tranh trong giai đoạn trước đây. Ở giai đoạn 1930-1931, ta lựa chọn con đường
vũ trang bạo động, phát động phong trào cách mạng hết sức quyết liệt với các cuộc
đấu tranh, biểu tình của cơng nhân và nơng dân, đỉnh cao là phong trào XôviếtNghệ tĩnh. Sự công khai và quy mô rộng lớn này khiến ta không giữ được lực
lượng một khi bị thực dân Pháp đàn áp. Kết quả là “hàng nghìn chiến sĩ cộng sản,
hàng vạn quần chúng yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Các cơ quan lãnh đạo
của Đảng ở Trung ương và các địa phương lần lượt bị phá vỡ. Toàn bộ Ban Chấp
hành Trung ương bị bắt.”3 Sang đến giai đoạn 1936-1939, trước hoàn cảnh các tổ
chức Đảng vừa mới khôi phục lại, Đảng ta chủ động kết hợp giữa cơng khai và bí
2 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr. 359
- 360.
3 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 49.
6
mật, hợp pháp và bất hợp pháp để nếu bị thực dân Pháp đàn áp thì sẽ sẵn sàng rút
vào hoạt động bí mật, bảo tồn lực lượng.
Có thể thấy, chủ trương mới của Đảng ta trong giai đoạn này có ý nghĩa vơ
cùng sâu sắc. Việc đề ra các phương pháp và hình thức đấu tranh đầy đủ, linh hoạt,
thích hợp đã hướng dẫn cho quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày,
chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do. Hơn thế nữa, điều
này cũng thể hiện sự trưởng thành của Đảng trong chỉ đạo và lãnh đạo Cách mạng.
II. Chủ trương của Đảng về phương pháp và hình thức đấu tranh trong
phong trào cách mạng 1939 - 1945
II.1. Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến.
Chính phủ Pháp thi hành một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong
nước và phong trào cách mạng thuộc địa. Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp và
Chính phủ Pháp đã đầu hàng.
Tình hình trong nước:
Thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn
áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng
sản Đơng Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức
người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn.
Lợi dụng sự thất thủ của Pháp ở Đông Dương, tháng 9-1940 Nhật Bản cho
quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đơng Dương
cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng”, đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào
cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
7
II.2. Nội dung chủ trương của Đảng về phương pháp và hình
thức đấu tranh
Trước tình hình khó khăn và phức tạp của thế giới và trong nước, Đảng ta đã
có chủ trương đúng đắn, phù hợp về phương pháp và hình thức đấu tranh, thể hiện
qua 3 cuộc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương:
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (tháng 11-1939).
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 (11-1940)
- Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5-1941). Đây là hội nghị quan trọng
nhất, đánh dấu sự hoàn chỉnh chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng.
Theo đó, phương pháp cách mạng là khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị lần
thứ 8 dự kiến hình thức khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng
khởi nghĩa. Đây là phương pháp và hình thức đấu tranh sử dụng lực lượng vũ trang
và các biện pháp quân sự, có trang bị vũ khí, chủ động xuống đường biểu tình, thị
uy, vũ trang du kích, giành chính quyền ở từng bộ phận tới tổng thể, ở từng địa
phương cho tới cả nước.
Điều này thể hiện sự sáng tạo trong lựa chọn phương pháp đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra tính tất yếu phải sử dụng
bạo lực cách mạng nhằm lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng và bảo
vệ chế độ xã hội mới; đồng thời chỉ rõ những nguyên tắc cơ bản để khởi nghĩa vũ
trang giành thắng lợi. Ở Việt Nam, các văn kiện, nghị quyết của Đảng luôn khẳng
định, bạo lực cách mạng là phương thức để xoá bỏ các mâu thuẫn đối kháng trong
xã hội nước ta. Sức mạnh bạo lực là sức mạnh của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng bạo
lực kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang, lấy đấu tranh chính trị làm chính. Hình thái khởi
nghĩa là từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, gắn việc giành chính
quyền về tay nhân dân với việc bảo vệ thành quả cách mạng. Đây chính là một điển
hình sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin
8
về khởi nghĩa vũ trang.
Để phù hợp với phương hướng, chủ trương mới, Hội nghị đặc biệt nhấn
mạnh sự cần thiết phải thay đổi tổ chức và phương thức vận động của Mặt trận. Lúc
này, tên gọi Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương cần phải đổi sang
tên gọi khác có tính chất dân tộc hơn, tạo nên một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn. Theo
sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã nhất trí quyết định lập Mặt trận có tên
gọi: Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.
Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra sơi nổi ở
nhiều nơi. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Lúc này, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đang họp và nhanh chóng đưa ra những nhận định về thời cơ khởi nghĩa
đang đến rất gần và ra Chỉ thị: “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Đảng quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước.
Ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ, Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị quần chúng giải
phóng hàng loạt xã, châu, huyện tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, …
Ở Bắc Kỳ, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Bắc Giang nhận định:
“Tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần
kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng
cǎn cứ địa kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ.” 4 Hội
nghị thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân. Cùng với
đó, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”.
Ở Nam Kỳ, các cuộc khởi nghĩa từng phần cũng nổ ra, thành lập chính quyền
nhân dân tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.
Tiến tới Tổng khởi nghĩa:
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp tại Tân Trào (14 và 15/8/1945) chỉ rõ: “Tình thế vơ cùng khẩn cấp. Tất cả mọi
việc phải nhằm vào 3 nguyên tắc: Tập trung: tập trung lực lượng vào những việc
chính; Thống nhất: thống nhất mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động, chỉ
4 Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1977), Vǎn kiện Đảng 1930-1945, Hà Nội, t.III, tr. 524-544.
9
huy; Kịp thời: kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”.
Ngày 16/8/1945, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “…Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta…chúng ta không thể chậm trễ”5.
Từ 14-8-1945, khởi nghĩa nổ ra tại các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Sau đó, nhiều tỉnh đã khởi nghĩa và giành được
chính quyền
Ngày 19-8-1945, quần chúng nhân dân thủ đơ dưới sự lãnh đạo của Thành ủy
Hà Nội tổ chức mít tinh tại Nhà hát lớn, biểu tình, tuần hành, chiếm các cơng sở
của chính quyền bù nhìn,… và giành chính quyền. Điều này đã thúc đẩy cả nước
tiến lên khởi nghĩa. Đến 28-8-1945, Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những tỉnh
cuối cùng giành được chính quyền.
II.3. Nguyên nhân lựa chọn và ý nghĩa của chủ trương Đảng về
phương pháp và hình thức đấu tranh
Nguyên nhân Đảng ta quyết định lựa chọn phương pháp và hình thức đấu
tranh vũ trang xuất phát từ nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của Cách mạng lúc bấy giờ.
Tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh các nghị quyết của Trung ương tháng 11/1939 và
tháng 11/1940, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 đã cụ thể hóa chủ
trương chuyển hướng trong chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc
thành nhiệm vụ trung tâm và cao hơn hết thảy. Trong Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ:
cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền,
giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải
quyết một vấn đề cần kíp: dân tộc giải phóng. Do vậy, chính sách mới của Đảng là
phải đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới quyền lợi giải phóng của tồn thể
dân tộc; quyền lợi của nơng dân, thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng,
độc lập của toàn dân. Hội nghị đã khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương
phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
5 Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội, t.3, tr. 596.
10
Chủ trương mới của Đảng ta về phương pháp và hình thức đấu tranh trong
giai đoạn này có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Nó thể hiện sự quyết liệt của Đảng trong
việc đấu tranh chống giặc xâm lược, giúp ta thực hiện tốt nhiệm vụ chủ yếu của
cách mạng trong giai đoạn này là giải phóng dân tộc, giành lại độc lập. Cùng với
nhiệm vụ cách mạng, phương pháp và hình thức đấu tranh đã đánh dấu sự hoàn
chỉnh trong chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, góp phần giúp cho cuộc
Tổng khởi nghĩa- Cách mạng tháng Tám diễn ra thắng lợi.
III. So sánh phương pháp và hình thức đấu tranh qua hai phong trào
cánh mạng 1936-1939 và 1939-1945
III.1. Điểm giống nhau
Về địa bàn hoạt động, cả hai phong trào đều có quy mơ rộng khắp trên nhiều
mặt trận, lan rộng từ Bắc tới Nam.
Về lực lượng tham gia, nhờ chủ trương tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân
dân tham gia cùng sự thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi đã thu hút, huy
động được đông đảo quần chúng nhân dân đứng về phía cách mạng và hăng hái
tham gia vào đấu tranh với lực lượng nịng cốt là khối liên minh cơng nơng đã tạo
nên sức mạnh tồn dân để có thể đánh đổ kẻ thù.
Về vai trò lãnh đạo, cả hai giai đoạn nằm dưới sự lãnh đạo trực tiếp, sát sao
của Đảng. Đảng từng bước phân tích tình hình trong và ngoài nước để đề ra đường
lối cách mạng phù hợp cho từng giai đoạn.
Về vấn đề đoàn kết dân tộc, dù những chủ trương, mục đích Đảng đề ra trong
hai giai đoạn khác nhau, song chung quy luôn nhấn mạnh vấn đề đoàn kết tập hợp
mọi người nhằm đánh đổ kẻ thù để giành độc lập. Khơng chỉ đồn kết trong nước
mà cịn chú trọng đến đồn kết quốc tế, thực hiện tốt phân hóa kẻ thù. Nhờ vậy đã
tạo được sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
III.2. Điểm khác nhau
Về hoàn cảnh lịch sử, năm 1936 - 1939 hồn cảnh thế giới có một số thay đổi
11
mang lại lợi thế hơn cho cách mạng Việt Nam. Tháng 5 – 1936, Mặt trận nhân dân
Pháp giành thắng lợi, đồng thời thi hành nhiều chính sách tương đối mềm mỏng,
nới lỏng quyền tự do, dân chủ cho các nhà nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Ngược lại, trong giai đoạn 1939-1945, chiến tranh thế giới ngày càng lan rộng. Thế
lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy, thủ tiêu các quyền tự do, dân chủ nước ta.
Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và đế quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai
phát triển vô cùng gay gắt. Chính tình hình thế giới và trong nước thay đổi đã đem
đến nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam.
Về nhiệm vụ cách mạng trước mắt, giai đoạn 1936-1939 là đòi quyền tự do,
dân chủ, dân sinh, cơm áo - hịa bình. Song do mâu thuẫn dân tộc gay gắt trong giai
đoạn 1939-1945, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được Đảng đặt lên hàng đầu. Vì vậy,
tất cả nhiệm vụ khác như đánh đổ phong kiến, bọn phản động thuộc địa hay giải
quyết vấn đề giai cấp đều phải tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc để giải
quyết.
Về kẻ thù cách mạng, kẻ thù chính của giai đoạn năm 1936 – 1939 trước mắt
cần đánh đổ bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng. Cịn trong giai đoạn
1939-1945 thì kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất là đế quốc Pháp và phát xít Nhật.
Về hình thức - phương pháp đấu tranh, giai đoạn năm 1936-1939 đã diễn ra
nhiều hình thức đấu tranh đa dạng như biểu tình, mít tinh, chủ yếu là đấu tranh
chính trị, đấu tranh nghị trường, đấu tranh trên lĩnh vực báo chí nhưng khơng có
đấu tranh vũ trang. Bên cạnh đó, phương pháp đấu tranh Đảng sử dụng là công khai
và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Tuy nhiên đến giai đoạn năm 1939
-1945, bằng sự sáng tạo trong việc vận dụng lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ
trang, Đảng đã lựa chọn phương pháp và hình thức đấu tranh là kết hợp lực lượng
chính trị với lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Về mặt trận cách mạng được thành lập trong hai giai đoạn này cũng có điểm
khác biệt. Giai đoạn 1936-1939, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất
12
dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm tập
hợp mọi lực lượng dân tộc chống đế quốc còn giai đoạn 1939-1945 lại quyết định
thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập đồng
minh là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, dân
tộc, tơn giáo tín ngưỡng được gọi tắt là Việt Minh để tập hợp đơng đảo nhân dân,
đồn kết chống lại kẻ thù.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói, phương pháp và hình thức đấu tranh trong phong trào cách mạng
tại hai giai đoạn 1936-1939 và 1939-1945 mang tính chất tiêu biểu, có ý nghĩa to
lớn dẫn tới Cách mạng tháng Tám thành công, giành độc lập dân tộc. Nếu như ở
giai đoạn 1936-1939 có phương pháp đấu tranh cơng khai, nửa công khai, hợp pháp
và nửa hợp pháp dưới nhiều hình thức như đấu tranh nghị trường, mít tinh, biểu
tình thì sang đến giai đoạn 1939-1945 là phương pháp tiến hành khởi nghĩa vũ
trang từng phần. Để đề ra được những chủ trương, đường lối đúng đắn như vậy,
Đảng cộng sản Việt Nam đã phải căn cứ vào rất nhiều yếu tố, cho thấy sự trưởng
thành và linh hoạt hơn trong lãnh đạo của Đảng ta. Do vốn kiến thức cịn hạn hẹp
nên trong q trình làm bài, chúng em khơng tránh khỏi sai sót. Chúng em mong
thầy cơ sẽ góp ý để bài viết ngày càng hồn thiện hơn. Chúng em xin chân thành
cảm ơn!
13
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1977), Vǎn kiện Đảng 19301945, Hà Nội, t.III.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Giáo trình Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, tập 6.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, tập 7.
5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3.
6. Nguyễn Quang Ngọc (2006), “Chương X – Việt Nam trong những năm
1930-1945”, Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội.
7. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: Biên niên sự kiện lịch sử
- Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam (1930- 1954), tập 1, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
8. />9. />10. />
14