Đề bài
Công ty A là chủ sở hữu nhãn hiệu “Honda và hình cách chim” đăng ký cho
sản phẩm xe máy, xe ô tô, và các linh kiện, phụ tùng khác theo GCNĐKNH số
39647 cấp ngày 18/9/2000, GCN đã được gia hạn hiệu lực. Gần đây, Công ty A
phát hiện:
Cơ sở B tại Thanh Oai, Hà Nội sản xuất mũ bảo hiểm xe máy, mũ bảo hộ
lao động gắn dấu hiệu “Hongda” với chữ H cách điệu và hình cánh chim trên
sản phẩm;
Cơ sở C tại Hoài Đức, Hà Nội sử dụng dấu hiệu “Honda và hình cánh
chim” trên biển hiệu và tờ rơi quảng cáo dịch vụ sửa chữa xe máy các loại.
Các bạn hãy phân tích và xác định:
-Cơ sở B và C có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của Cơng ty A
khơng?
1
Trả lời:
Cở sở B và C có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của Cơng ty
A.
Quyền của cơng ty A đối với nhãn hiệu “Honda và hình cách chim”
Theo Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ thì đối tượng quyền sở hữu trí tuệ gồm:
“1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình
được mã hố.
2. Đối tượng quyền sở hữu cơng nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên
thương mại và chỉ dẫn địa lý.
3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật
liệu thu hoạch.”
Theo bài thì đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là nhãnhiệu, nên đối tượng
-
được bảo hộ trong trường hợp này là nhãn hiệu.
Theo khoản 16 Điều 4: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá,
-
dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.”
Mặt khác, theo Điểm a, Khoản 3, Điều 6 thì: ”Quyền sở hữu cơng nghiệp đối
với sáng chế, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý
được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng
ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
2
Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập
trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký”.
Công ty A là chủ sở hữu nhãn hiệu “Honda và hình cách chim” đăng ký cho
sản phẩm xe máy, xe ô tô, và các linh kiện, phụ tùng khác theo GCNĐKNH số
39647 cấp ngày 18/9/2000, GCN đã được gia hạn hiệu lực. Đây chính là văn
bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân nhằm
xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,
nhãn hiệu,..
Thời hạn bảo hộ đối với nhãn hiệu theo Khoản 6 Điều 93 Luật SHTT thì
“Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm
kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm”.
Như vậy, tính tới thời điểm hiện tại thì cơng ty A là chủ sở hữu hợp pháp
dối với nhãn hiệu “Honda và hình cánh chim”. Cơng ty A sẽ được hưởng các
quyền quy định tại Điều 123 Luật sở hữu trí tuệ.
3
Cơ sở pháp lý xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, thì hành vi bị xác
định là xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải đáp ứng các căn cứ sau:
- Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ;
- Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét;
- Người thực hiện hành vi bị xem xét khơng phải chủ thể của quyền sở hữu
trí tuệ;..
Như vậy, để xem xét một hành vi có phải là hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ phải đáp ứng các yếu tố trên. Căn cứ khoản 3 Điều 11 Nghị định
105/2006/ NĐ – CP:
“3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm
quyền đối với nhãn hiệu hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu,
đồng thời phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch
vụ thuộc phạm vi bảo hộ. Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp
ứng cả hai điều kiện sau đây:
a) Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với
nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với nhãn
hiệu thuộc phạm vi bảo hộ nếu có cùng cấu tạo, cách trình bày (kể cả màu sắc);
một dấu hiệu bị coi là tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc
phạm vi bảo hộ nếu có một số đặc điểm hồn tồn trùng nhau hoặc tương tự
đến mức khơng dễ dàng phân biệt với nhau về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm
4
đối với dấu hiệu, chữ, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc và gây nhầm lẫn cho
người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;
b) Hàng hoá, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự về
bản chất hoặc có liên hệ về chức năng, cơng dụng và có cùng kênh tiêu thụ với
hàng hố, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.”
Đối với những nhãn hiệu nổi tiếng, chỉ cần đáp ứng một trong hai yếu tố
trên đã đủ để khẳng định có sự xâm phạm đối với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi
tiếng.
5
Nhãn hiệu “ Honda và hình cánh chim” là nhãn hiệu nổi tiếng
Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi
trên toàn lãnh thổ Việt Nam”(Khoản 20 Điều 4 Luật SHTT).
Căn cứ vào điều 75, Luật SHTT thì các tiêu chí sau đây được xem xét khi
đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng:Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết
đến nhãn hiệu thơng qua việc mua bán, sử dụng hàng hố, dịch vụ mang nhãn
hiệu hoặc thông qua quảng cáo;Phạm vi lãnh thổ mà hàng hoá, dịch vụ mang
nhãn hiệu đã được lưu hành;Doanh số từ việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch
vụ mang nhãn hiệu hoặc số lượng hàng hoá đã được bán ra, lượng dịch vụ đã
được cung cấp;Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu;Uy tín rộng rãi của hàng
hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu;Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;Số lượng quốc
gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng;Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền
sử dụng, giá trị góp vốn đầu tư của nhãn hiệu.
Trong tình huống này, Honda là một nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định của
pháp luật. (Trước khi gia nhập thị trường Việt Nam, Honda đã tạo tiếng vang với
dòng xe Cub, đây là một lợi thế cho Honda khi được mọi người biết tới từ trước
khi gia nhập thị trường. Kể từ khi xuất hiện tại Viêt Nam, thị phần xe máy của
Honda luôn đứng đầu. Năm 2015, Honda Việt Nam báo doanh số 2 triệu xe,
phục hồi trở lại sau 2 năm sụt giảm. Hiện Honda chiếm khoảng 70% thị phần xe
máy toàn Việt Nam).
6
Dựa vào những điều kiện trên ta xác định hành vi vi phạm của từng cơ sở
như sau:
Hành vi của cơ sở B
Theo Điểm i, Khoản 2, Điều 74 Luật SHTT: “ Dấu hiệu trùng hoặc tương
tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác
đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang
nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ khơng tương tự, nếu
việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của
nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn
hiệu nổi tiếng”
Khi so sánh giữa dấu hiệu “Hongda” và nhãn hiệu “Honda” có thể nhận
-
thấy rất nhiều điểm chung như:
Thứ nhất, về cấu trúc: nhãn hiệu của công ty A và cơ sở B tương tự nhau đều có
-
phần hình là hình cánh chim và phần chữ đều có “ Hon” và “da”
Thứ hai, về cách phát âm, cấu trúc cụm từ “Honda”và “Hongda” có các âm tiết,
trật tự sắp xếp, số ký tự gần như trùng nhau(chỉ khác ở chỗ có thêm chứ “g”) và
cùng thể hiện dưới phông chữ thường. Giống nhau 5/6 kí tự đều phát âm gồm 2
âm tiết, có cách đọc gần giống nhau. Do vậy kết luận hai nhãn hiệu này tương tự
-
nhau.
Thứ ba, về phần hình: Phần hình của cả hai dấu hiệu đều là hình cánh chim.
Thứ tư, hàng hóa của cơng ty A và cơ sở B là cùng nhóm đó là sản phẩm dành
cho việc sử dụng xe máy.
7
Mà pháp luật sở hữu trí tuệ quy định một hành vi được xem là hành vi xâm
phạm quyền đối với nhãn hiệu nếu như hành vi đó là: “Sử dụng dấu hiệu trùng
hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa,
phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hố,
dịch vụ khơng trùng, khơng tương tự và khơng liên quan tới hàng hố, dịch vụ
thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng
có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch
về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi
tiếng.”(Điểm d khoản 1 Điều 129 Luật sở hữu trí tuệ).
Trường hợp này có thể dẫn tới sự gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng rằng sản
phẩm của cơ sở B là của công ty X sản xuất, đãn tới ảnh hưởng tới uy tín của cơng
ty.
Như vậy, có thể kết luận Cơ sở B đã có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ đối với Cơng ty A.
Hành vi của cơ sở C
Nhãn hiệu là một trong các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp. Khi một chủ thể tiến hành đăng ký nhãn hiệu và được cấp giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu thì chủ thể đó với tư cách là chủ sở hữu nhãn hiệu có
độc quyền sử dụng, khai thác và định đoạt nhãn hiệu đó và có quyền ngăn cấm
người khác sử dụng nhãn hiệu của mình. Lúc này, mọi hành vi sử dụng nhãn
hiệu mà không được phép của chủ sở hữu đều là hành vi xâm phạm nhãn hiệu.
8
Như vậy, trong tình huống này, cơ sở C đã sử dụng nhãn hiệu “Honda và
hình cánh chim” trên tờ rơi quảng cáo và biển hiệu sửa chữa xe máy các loại là
một hành vi xâm phạm nhãn hiệu (hành vi của cơ sở C không thuộc các trường
hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 125 – tức là các trường hợp được
phép sử dụng nhãn hiệu), ngồi các trường hợp này thì mọi hành vi sử dụng
nhãn hiệu cho hàng hoá, dịch vụ (cụ thể trong tình huống này là dịch vụ sửa
chữa xe máy) đều bị xem là hành vi xâm phạm nhãn hiệu, làm cho người tiêu
dùng nhầm lẫn trong quá trình sử dụng dịch vụ.
9