Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Đánh giá thực trạng stress của điều dưỡng tại Bệnh viện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.76 KB, 72 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT

BV

Bệnh viện

BVĐK

Bệnh viện đa khoa

DASS

Depression Anxiety Stress Scale
Thang đánh giá lo âu - Trầm cảm - Căng thẳng

ĐD

Điều dưỡng

ĐDV

Điều dưỡng viên

ĐDT

Điều dưỡng trưởng

ĐTV



Điều tra viên

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

ENSS

Expanded Nursing Stress Scale
(Thang đo stress điều dưỡng mở rộng)

JDC-S

Job Demand Control (-Support)
Kiểm sốt nhu cầu cơng việc - Hỗ trợ

GDP

Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm trong nước

GSV

Giám sát viên

NSS

Nursing Stress Scale
Thang đo stress điều dưỡng


NVĐD

Nhân viên điều dưỡng

OR

Odds Ratio
Tỷ số chênh

PSS

Perceived Stress Scale

WHO

World Organization Health
Tổ chức y tế thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG - BIỂU ĐỒ
Bảng 3. 1429
Bảng 3. 1530
Bảng 3. 1631
Bảng 3. 1732
Bảng 3. 1832
Bảng 3. 1933
Bảng 3. 2034
Bảng 3. 2135
Bảng 3. 2236

Biểu đồ 3. 117
Biểu đồ 3. 217
Biểu đồ 3. 318
Biểu đồ 3. 418
Biểu đồ 3. 519
Biểu đồ 3. 6 19


4

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), loài người đã trải qua “thời đại
bệnh truyền nhiễm”, “thời đại bệnh thể xác” và đang chuyển sang “thời đại
bệnh tinh thần” trong thế kỷ XXI [1]. Việc áp dụng nhiều thành tựu khoa học
và công nghệ trong sản xuất đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, năng suất và chất
lượng của sản phẩm không ngừng tăng lên. Nhưng đồng thời với hiệu quả
trên, đặc điểm của nhiều quá trình lao động đang thay đổi nhanh chóng ở
khắp mọi nơi trên thế giới, khiến cho nhiều người lao động, đặc biệt là người
lao động ở các nước đang phát triển khơng kịp thích nghi và họ đã bị stress
dưới nhiều dạng khác nhau[2].
Thống kê tại Mỹ gần đây cho thấy có hơn 50% trong số 550 triệu ngày
nghỉ việc của người dân nước này mỗi năm là do stress; gần 50% cơng nhân
có triệu chứng kiệt quệ. Đặc biệt, có tới 60% đến 80% tai nạn nghề nghiệp do
stress. Cịn tại Canada, khảo sát ghi nhận có gần 50% dân nước này cảm thấy
bị stress do cố tình tìm cách cân bằng giữa công việc và cuộc sống riêng tư
(10 năm trước tỷ lệ này là 27%)[3]. Ở khu vực Nam Âu, 21 bệnh viện tại
Slovenia công bố tỷ lệ điều dưỡng bị stress cao là 56,5% vào năm 2018[4].
Khu vực tây nam Ethiopia vào năm 2016 chỉ ra mức độ stress trung bình là
58,46 ± 12,62 của điều dưỡng viên theo thang đo ENSS [5]. Tại Việt Nam, kết
quả nghiên cứu của Trần Văn Thơ và Phạm Thu Hiền cho thấy có 42,5% điều

dưỡng viên Bệnh viện Nhi Trung Ương bị mắc stress năm 2017 [6]. Nghiên
cứu của Dương Thành Hiệp và cộng sự tại bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu tỉnh
Bến Tre năm 2014 chỉ ra tỷ lệ stress chung của điều dưỡng, hộ sinh là 56,9%
[7].
Bệnh viện Đa khoa tỉnh ........................... là Bệnh viện Đa khoa hạng I,
là Bệnh viện tuyến cuối của tỉnh ..........................., với quy mô 800 giường
bệnh kế hoạch, thực kê hơn 900 giường. Năm 2021, đại dịch COVID - 19 vẫn


5

đang có diễn biến hết sức phức tạp, Bệnh viện vừa phải đảm bảo công tác
khám, chữa bệnh vừa phải đảm bảo cơng tác phịng chống dịch. Song song
với đó, Bệnh viện Đa khoa tỉnh ........................... cũng phải thực hiện tự chủ
theo lộ trình, bên cạnh những lợi ích thì việc tự chủ tồn bộ cũng tạo ra khơng
ít những thách thức và khó khăn cho Bệnh viện: yêu cầu về hiệu quả, năng
suất công việc, áp lực công việc tăng lên do đó các nhân viên y tế, đặc biệt là
đội ngũ điều dưỡng mang áp lực nặng nề[8].
Bệnh viện gồm 43 khoa, phòng, tổng số viên chức, người lao động là
853, có 369 điều dưỡng trong đó 327 điều dưỡng làm việc tại các khoa lâm
sàng. Theo Báo cáo thống kê và tổ chức nhân lực y tế năm 2020 của phòng Tổ
chức cán bộ, tổng số nhân viên y tế xin nghỉ việc là 46, trong đó có 24 điều
dưỡng chiếm 51,2%, tổng số nhân viên y tế chuyển cơng tác là 18, trong đó
điều dưỡng là 11 người chiếm 61,1%. Tại Bệnh viện Đa khoa
tỉnh ........................... chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về stress của đối tượng
này[9].
Do đó chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài này, nhằm đánh giá thực
trạng stress của điều dưỡng tại các khoa lâm sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Lạng Từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Đánh giá thực
trạng stress của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh ...........................

năm 2021” với hai mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng stress của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh ........................... năm 2021.
2. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng stress và một số
giải pháp giảm thiểu tình trạng stress của điều dưỡng lâm sàng tại Bệnh viện
Đa khoa tỉnh ........................... năm 2021.


6

Chương I.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Các khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm stress
Thuật ngữ stress hay căng thẳng xuất hiện rất nhiều trong đời sống
thường ngày. Nó được hiểu như là những điều khó chịu và áp lực cho cá nhân.
Tuy nhiên trong tâm lý học, một ngành khoa học có rất nhiều ứng dụng và
nghiên cứu về hành vi và sức khỏe tâm thần lại hiểu stress dưới một góc độ
khác.
Walter Cannon (1927) là người đầu tiên đưa ra khái niệm về stress. Ông
quan sát một loạt phản ứng bản năng trong giới tự nhiên gọi là phản ứng
“chống hoặc chạy”. Mỗi khi các loài vật đối mặt với kẻ săn mồi, chúng phải
quyết định chống cự hay chạy chốn. Trong cả hai tình huống này, nhịp tim và
huyết áp tăng cao, nhịp thở, tăng hoạt động cơ bắp. Thị lực và thính lực hoạt
động mạnh hơn để đạt được hiệu quả tốt hơn. Theo ông, đây là một phản ứng
được “cài đặt sẵn” về mặt sinh học, cho phép mỗi cá nhân có thể ứng phó với
những tác nhân gây đe dọa từ mơi trường bên ngồi. [8].
Định nghĩa của J.Delay cho rằng stress là một tình trạng căng thẳng cấp
diễn ra khi cơ thể bị bắt buộc phải điều động những tổ chức phịng vệ của nó
để đương đầu với một tình huống đe dọa [10].

Theo Đào Duy Duyên, stress là một quá trình biến đổi trạng thái cân
bằng hiện tại của con người gây ra sự căng thẳng về tâm lý, nảy sinh do con
người phản ứng lại với những nhân tố tác động, trong đó một phần do bản
chất của những kích thích đa dạng từ bên ngồi hoặc do chính bản thân gây
ra, một phần do nhận thức của cá nhân lý giải về những kích thích đó, về khả
năng, tiềm lực của bản thân, các nguồn lực sẵn có để ứng phó, quá trình này


7

gây ra những ảnh hưởng cho con người biểu hiện ở các mặt sinh lý, tâm tý, xã
hội[9].
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, dưới góc độ tâm lý học chúng tôi
hiểu: Stress là trạng thái căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở con người trong quá
trình hoạt động của đời sống thường ngày. Stress như sự đáp ứng của con
người trước một nhu cầu hoặc sự tương tác trong mối quan hệ giữa con người
với môi trường xung quanh. Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp
ứng thích nghi về mặt tâm lý, sinh học và tập tính. Stress đặt cho con người
vào q trình sắp xếp thích ứng với mơi trường xung quanh, tạo cho cơ thể
một cân bằng mới sau khi chịu đựng những tác động của mơi trường. Nói
theo cách khác, stress bình thường góp phần làm cơ thể thích nghi. Nếu đáp
ứng của cá nhân với stress khơng đầy đủ, khơng thích hợp và cơ thể không tạo
ra được trạng thái cân bằng mới thì những chức năng của cơ thể ít nhiều bị rối
loạn, dẫn đến những thay đổi về sinh lý, tâm lý, hành vi tạo ra những stress
bệnh lý cấp tính hoặc kéo dài.
1.2. Các dấu hiệu của stress
Stress tiêu cực có thể phá vỡ cân bằng trong cuộc sống của con người
làm nảy dinh nhiều vấn đề về sức khỏe như suy kiệt, lo âu, trầm cảm ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống của bản thân và xã hội[10]. Nhưng nếu nhìn
nhận ở khía cạnh tích cực thì stress là phản ứng không thể thiếu ở con người,

là biểu hiện đáp ứng của cá nhân đối với những yếu tố tác nhân, hay tình
huống trong cuộc sống của con người phải đối mặt. Stress tích cực giúp chúng
ta thích nghi, hòa hợp để cùng sống chung với stress, biến nó thành động lực
giúp con người phát triển[11].
Các dấu hiệu của stress bao gồm những bất thường về thể chất, cảm
xúc, nhận thức và hành vi. Có thể là sự kiệt sức, tự dung them ăn hoặc bỏ ăn,
đau đầu rối loạn giấc ngủ cùng những biểu hiện khó chịu khác. Stress còn đi


8

kèm với cảm giác bất an, giận dữ hoặc sợ hãi. Người bị stress thường có các
biểu hiện thực thể (như tăng nhịp tim, tăng huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi, thở
ngắn hơi, ra mồ hôi). Biểu hiện về cảm xúc (như cảm thấy khó chịu, dễ cáu
gắt, buồn bã, chán nản, thờ ơ, không thân thiện, sa sút tinh thần, … Có những
hành vi như lạm dụng chất kích thích (rượu, bia, thuốc lá, …) dễ gây hấn, bất
cần đời, xáo trộn các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (ăn uống, giấc ngủ), mất
tập trung, hay quên, xa lánh mọi người, có vấn đề về tình dục,… Stress kéo
dài sẽ tổn hại hệ miễn dịch và các chức năng sinh lý khác, làm suy yếu khả
năng chống lại bệnh tật của cơ thể cũng như sự xâm nhập của vi khuẩn và làm
tăng nguy cơ tử vong[12].
1.3. Hậu quả của Stress:
Tổng hợp từ nhiều nghiên cứu cho thấy, stress khơng những tác động
xấu cho cá nhân mà cịn cho xã hội. Stress được xem là một trong những
nguyên nhân phổ biến nhất cho nhiều căn bệnh như[12], [13]:
- Bệnh tâm thần kinh: mất ngủ, đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, buồn
phiền, cáu gắt, loạn trí nhớ,...
- Bệnh tim mạch: Tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu
não, loạn nhịp tim, hồi hộp đánh trống ngực,..
- Các bệnh về da: Như mụn sưng đỏ, phồng rộp hay bệnh Zona, da dễ

bị mẩn ngứa, phát ban, hay chàm,… hay các bệnh về da có tính kinh niên,
mãn tính rất khó điều trị.
- Bệnh tiêu hóa: viêm loét dạ dày – tá tràng, chảy máu tiêu hóa, thủng
dạ dày, tiêu chảy, khô miệng, chán ăn, ăn không tiêu, rối loạn chức năng đại
tràng,…
- Bệnh tình dục: giảm ham muốn, di tinh, mộng tinh, xuất tinh sớm,..
- Bệnh phụ khoa: rối loạn kinh nguyệt, rối loạn nội tiết,…


9

- Bệnh cơ xương khớp: Co cứng cơ, đau lưng, đau khớp, chuột rút, run
rẩy, cảm giác kiến bò ở ngón tay, mí mắt,…
- Tồn thân: suy sụp, mệt mỏi, dễ mắc các bệnh dị ứng hay truyền
nhiễm.
Tình trạng stress còn gây nên các thay đổi về hành vi mà phổ biến là
việc lạm dụng bia rượu, thuốc lá, chất gây nghiện. Điều này càng làm làm suy
giảm đáng kể tình trạng thể chất, đồng thời làm tinh thần khơng ổn định dẫn
tới các mối quan hệ trở nên căng thẳng, cả trong gia đình và nơi làm việc. Nếu
khơng phát hiện sớm thì người bị stress sẽ mất dần tự tin, mất khả năng đưa ra
các quyết định chính xác và xuất hiện các hành vi bất thường. Dẫn đến việc bị
đồng nghiệp, bạn bè, người thân xa lánh, hoặc gây ra các tổn thất về tài chính,
vật chất, thậm chí xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của bản thân và những
người xung quanh[5].
1.4. Nguyên nhân của stress
Cũng giống như các chứng bệnh tâm thần khác, cho đến nay khoa học
vẫn chưa tìm được ngun nhân chính xác gây stress. Các nhà khoa học cho
rằng stress có tính chất tích tụ diễn tiến trong thời gian dài hoặc xảy ra một
cách đột ngột quá sức chịu đựng của cá nhân. Ngun nhân có thể xuất phát
từ mơi trường bên ngồi, cũng có thể xuất phát từ chính bên trong con người.

Cùng một sự kiện tác động nhưng mỗi người sẽ có những nhận định riêng về
sự kiện đó mang tính đe dọa, có hại hay thách thức và sẽ có các biểu hiện mức
độ stress khác nhau. Sự khác biệt đó là do ở mỗi người có quá trình nhận thức
diễn ra khơng như nhau. Như vậy ngun nhân xuất phát từ chính bản thân
mỗi người là nguyên nhân quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến mức độ
stress của mỗi cá nhân[14].
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các yếu tố liên quan gây ra stress như các
yếu tố thảm họa thiên nhiên (động đất, sóng thần, bão, lũ lụt,…), các yếu tố


10

xã hội nói chung (chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, tắc đường,…), các yếu tố
cá nhân (tuổi, giới tính, trình độ học vấn, vị trí cơng tác, …), các yếu tố về
công việc như (nội dung công việc, môi trường làm việc, mối quan hệ với
đồng nghiệp, sự động viên khuyến khích và phát triển trong nghề nghiệp,…),
Các yếu tố gia đình như (mất người thân, xung đột với các thành viên trong
gia đình, ly thân/ly hơn,…)[15],[16].
Như vậy các yếu tố gây ra stress, có thể được chia theo các cấp độ cá
nhân, gia đình, tổ chức đơn vị và môi trường tự nhiên và xã hội. Việc phân
chia các yếu tố gây stress chỉ mang tính tương đối. Trên thực tế, một cá nhân
bị stress có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau cùng tích hợp lại. Ví dụ: Một
nhân viên điều dưỡng bị rơi vào tình trạng stress, ngun nhân có thể xuất
phát từ việc cơ ấy bị quá tải trong công việc. Tuy nhiên, việc quá tải trong
cơng việc đã có thể khơng trở thành ngun nhân gây stress nếu cô ấy không
phải lo lắng về đứa con đang bị ốm ở nhà. Do đó, việc xác định chính xác
ngun nhân gây nên tình trạng stress của cá nhân không phải là việc đơn
giản[17].
1.5. Stress nghề nghiệp:
Stress nghề nghiệp được xem như thách thức mang tính tồn cầu đối

với sức khỏe của con người lao động theo định nghĩa về sức khỏe của WHO,
những người bị stress cũng được xem như khơng khỏe mạnh, khơng có động
cơ, làm việc khơng hiệu quả và có nguy cơ bị tai nạn cao[10].
Nhiều nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lạm dụng thuốc và tự tử cũng như tỷ lệ
stress nghề nghiệp ở nhân viên y tế cao hơn so với các ngành nghề khác.
Stress của nhân viên y tế còn góp phần đưa đến các hậu quả như kiệt sức,
vắng mặt, nhân viên y tế có ý định chuyển cơng tác, giảm sự hài lòng của
người bệnh, mắc nhiều lỗi trong q trình chẩn đốn, điều trị, chăm sóc [18].


11

Một số điều kiện phổ biến liên quan đến đặc thù ngành góp phần gây ra
stress cho nhân viên y tế trong đó có điều dưỡng.
- Mức biên chế chưa đầy đủ.
- Khối lượng công việc quá nhiều.
- Thời gian làm việc kéo dài.
- Mức độ ổn định của công việc.
- Mức độ rõ ràng của công việc.
- Mối quan hệ với người bệnh: thái độ của người bệnh và người nhà
người bệnh, sự mong đợi của người bệnh.
- Tiếp xúc với các chất lây nhiễm và độc hại.
- Sự căng thẳng khác nhau giữa các ngành nghề chăm sóc sức khỏe,
thậm chí trong cùng một ngành nghề lại tùy thuộc vào nhiệm vụ.
Tổng hợp những nghiên cứu từ tài liệu tham khảo cho thấy các yếu tố
sau đây liên quan đến tình trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng như [16],
[18], [19]:
- Nội dung công việc: khối lượng, nhịp độ, quá tải công việc, sự không
phù hợp công việc với chun mơn, tính chất ổn định của cơng việc,…
- Môi trường làm việc: Cơ sở vật chất thiếu thốn, diện tích chật hẹp,

tiếng ồn, nhiệt độ khơng phù hợp, nguy cơ lây nhiễm bệnh, nguy cơ tổn
thương do các vật sắc nhọn,…
- Các mối quan hệ trong công việc: xung đột với đồng nghiệp, bác sĩ,
thái độ không tốt của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân,…
- Sự động viên khuyến khích và phát triển nghề nghiệp: Chế độ chính
sách đối với viên chức, người lao động, cơ hội đi học tập nâng cao trình độ,
cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp, công bằng trong đánh giá thành quả lao
động.
Từ những nghiên cứu mới nhất cho thấy, hậu quả của stress nghề
nghiệp kéo dài là ảnh hưởng đến tâm lý và sức khỏe tâm thần, đồng thời ảnh


12

hưởng cả trạng thái thực thể của người lao động như gia tăng nguy cơ cao
huyết áp, các bệnh lý tim mạch, rối loạn giấc ngủ, rối loạn hành vi. Stress
nghề nghiệp không chỉ ảnh hưởng ở mức độ cá thể mà cịn ảnh hưởng đến
chất lượng chăm sóc, khám, chữa bệnh của cả Bệnh viện[9]. Vì vậy vấn đề
quan trọng là phải nhận diện được các yếu tố nguy cơ gây stress nghề nghiệp,
đánh giá và đo lường được mức độ ảnh hưởng của stress nghề nghiệp đến sức
khỏe người lao động và đưa ra giải pháp dự phòng.
1.6. Ứng phó với stress:
Để có được kiến thức và kỹ năng ứng phó với các tác nhân hay tình
huống gây ra stress. Cá nhân cần học hỏi, trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng
sống, chủ động chuẩn bị cách ứng phó, dự tính cách giải quyết vấn đề, tình
huống nếu nó xảy ra. Chấp nhận thích nghi, hịa hợp sống chung với stress sẽ
biến nó thành động lực giúp con người phát triển[2].
1.7. Thực trạng stress ở điều dưỡng viên:
1.7.1 Một số thang đo đánh giá tình trạng stress nghề nghiệp ở điều
dưỡng

Thang đo nhận thức stress (PSS) là thang đo được Cohen và cộng sự
sáng lập nhằm đo lường mức độ mà các tình huống trong cuộc sống của một
người được đánh giá là stress. Các câu hỏi trong thang đo là cảm xúc và suy
nghĩ trong 1 tháng qua. Thang đo cũng bao gồm 1 số tình huống về mức độ
stress hiện tại. Thang đo có hai phiên bản là PSS-10 và PSS-14 sử dụng thang
điểm Likert từ 0-4 để đánh giá tương ứng với các mức độ gây stress là không
bao giờ, hầu như không bao giờ, đôi khi, khá thường xuyên và rất thường
xuyên. PSS có được bẳng cách đảo ngược các phản hồi (0=4, 1=3, 2=2, 4=0)
cho bốn mục đích tích cực (mục 4, 5, 7 và 8) và sau đó tổng hợp tất cả các
mục của thang đo. Thang đo có độ tin cậy cronbank α là 0,83[18].


13

Thang đo căng thẳng cuộc sống chuyên nghiệp (PLSS) của David
Fontana thiết kế năm 1989 có độ tin cậy Conback a là 0,64. Thang đo gồm 22
câu hỏi khác nhau trên các lĩnh vực, sự kiện của cuộc sống, tính cách, sự lạc
quan trong cuộc sống, sự hài lòng với bản thân, cơng việc và thích ứng với
mơi trường.Tổng sốđiểm của thang đo là 60 được phân loại thành 4 mức độ:
0-15: Stress không phải là vấn đề trong cuộc sống; 16-30: Stress vừa phải, có
thể hợp lý giảm; 31-45: Stress là một vấn đề cần có biện pháp khắc phục; 4660: Stress là một vấn đề lớn và phải thực hiện các biện pháp đối phó[19].
Thang đo DASS 21 được giới thiệu năm 1997 là phiên bản rút gọn của
thang đo DASS 42. Thang đo DASS 42 được Lovibond S.H và Lovibond P.F
thiết kế năm 1995. DASS được xây dựng gồm 21 mục để xác định, tìm hiểu
và đo lường các trạng thái cảm xúc phổ biến và có ý nghĩa lâm sàng thường
được mô tả như: trầm cảm, lo âu, stress. Thang đo được đánh giá theo thang
điểm Likert 4 điểm từ 0-3 cho tần suất hoặc mức độ nghiêm trọng. Điểm được
tính bằng cách cộng các đề mục thành phần rồi nhân 2. Mức độ stress được
xếp theo 5 mức độ: 0-14: bình thường; 15-18: nhẹ; 19-25: Vừa; 26-33: Nặng,
trên 34: Rất nặng. Thang đo có độ tin cậy Cronbackα là 0,966[20].

Thang đo căng thẳng điều dưỡng mở rộng (ENSS) được sử dụng phổ
biến để đo stress liên quan đến công việc của điều dưỡng. ENSS là bản sửa
đổi mở rộng và cập nhật của thang đo căng thẳng điều dưỡng cổ điển (NSS)
được phát triển bởi Gray-Toft & Anderson (1981). Độ tin cậy đồng nhất nội
bộ được đánh giá bằng hệ số alpha Cronbach. ENSS gồm 54 mục đã chứng
minh độ tin cậy được cải thiện α = 0,96 So với NSS ban đầu α = 0,91. Độ tin
cậy của từng vấn đề dao động trong khoảng từ a = 0,88 đến a bằng 0,65. Lĩnh
vực thang đo ENSS gồm 8 mục: Đối mặt với cái chết người bệnh (7 câu);
mâu thuẫn với bác sĩ (5 câu); chưa có sự chuẩn bị về mặt cảm xúc (3 câu); các
vấn đề liên quan đến đồng nghiệp điều dưỡng (6 câu); các vấn đề liên quan


14

đến cấp trên (7 câu); khối lượng công việc (9 câu); người bệnh và gia đình
người bệnh (6 câu).
Thang đo ENSS đã được dịch sang tiếng việt và khảo sát trên nhiều đề
tài tại Việt Nam. Cronbach’s Alpha của thang đo trong nghiên cứu của Tăng
Thị Hảo tại Bệnh viện Nhi Thái Bình dao động từ 0,73 - 0,89 trên từng
nhóm[21]. Đây là thang đo stress đặc thù cho ngành nghề điều dưỡng có độ
tin cậy cao, được dùng phổ biến trên thế giới và đã được dịch và sử dụng tại
Việt Nam. Vì vậy chúng tơi quyết định sử dụng thang đo ENSS làm công cụ
trong nghiên cứu của mình.
1.7.2. Thực trạng stress ở điều dưỡng trên thế giới
Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về thực trạng stress của điều
dưỡng viên và chủ yếu tới từ các nước đang phát triển. Những nghiên cứu này
chủ yếu thiết kế theo phương pháp nghiên cứu mô tả thông qua cuộc điều tra
cắt ngang có phân tích đã phát hiện ra rằng điều dưỡng viên bị stress khá cao.
Nhiều bộ công cụ đánh giá stress và sức khỏe tâm thần được sử dụng.
Ở khu vực Nam Âu, năm 2018, Mojca Bobik đã tiến hành nghiên cứu

cắt ngang với cỡ mẫu là 983 điều dưỡng viên đến từ 21 bệnh viện tại Slovenia
và các yếu tố liên quan. Tỷ lệ ĐDV bị stress cao là 56,5%. Stress trên ĐDV
liên quan có ý nghĩa thống kê với các yếu tố không hài lịng trong cơng việc
(p < 0,001), xáo trộn tại nơi làm việc (p < 0,001), khơng có thời gian nghỉ
ngơi sau khi làm việc vào cuối tuần (p = 0,003), công việc cố định (p=0,007)
và tăng số ngày làm việc vào chủ nhật (p=0,03)[22].
Nghiên cứu của Teris Cheung (2015) cùng cộng sự sử dụng thang lo âu,
stress trầm cảm DASS 21 khi tiến hành nghiên cứu 850 ĐDV tại Hồng Kông.
Nghiên cứu của Teris Cheung cho thấy tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở mức độ
lần lượt là 35,8%, 37,3% và 41,1%. Tình trạng stress có liên quan đáng kể tới
tuổi, kinh nghiệm, thay đổi vị trí làm việc, mối quan hệ với đồng nghiệp[20].


15

1.7.3. Thực trạng stress ở điều dưỡng Việt Nam
Nghiên cứu của Dương Thành Hiệp và cộng sự tại Bệnh viện Nguyễn
Đình Chiểu tỉnh Bến Tre năm 2014, chỉ ra tỷ lệ stress chung của điều dưỡng,
hộ sinh ở các khoa lâm sàng là 56,9% [21].
Kết quả nghiên cứu của Trần Văn Thơ và Phạm Thu Hiền cho thấy
42,5% ĐDV ở Bệnh viện Nhi TW bị mắc stress năm 2017. Kết quả phân tích
chỉ ra các yếu tố liên quan là: Chứng kiến người bệnh trải qua những cơn đau,
được người bệnh hỏi những điều mà không thoả mái trả lời, phải luân chuyển
đến các khoa khác và làm việc với máy tính là những yếu tố nghề nghiệp có
liên quan đến tính trạng stress của các điều dưỡng viên. Ngồi ra cịn các yếu
tố về mơi trường làm việc như: độ ồn gây tỷ lệ mắc stress cao gấp 2,11 lần
(95% CI 1,58-4,25) (p<0,05), những điều dưỡng viên được làm việc trong các
khoa nội trú và làm công việc chuyên mơn được đào tạo có cũng có nguy cơ
mắc stress thấp hơn những người khác (p<0,05). Những điều dưỡng viên có
lối sống lành mạnh như khơng hút thuốc lá, khơng uống rượu và tập thể thao

có tỷ lệ mắc stress thấp hơn những người khác. Phương pháp mô tả cắt ngang
định lượng kết hợp định tính. Phương pháp thu thập số liệu: Sự dụng bộ câu
hỏi phát vấn được thiết kế dựa trên thang đo NSS và cấu phần stress của thang
đo DASS 21. Cỡ mẫu nghiên cứu là 287 điều dưỡng viên[6].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Anh năm 2017 cho thấy tỷ lệ stress
của điều dưỡng, hộ sinh đang làm việc tại các khoa lâm sàng, cận lâm sàng
của Bệnh viện Sản – Nhi Bắc Giang là 13%. Theo mức độ stress, tỷ lệ điều
dưỡng, hộ sinh bị stress nhẹ là 3,5%, vừa là 3,5%, nặng 4% và rất nặng 2%.
Một số biểu hiện stress chiếm tỷ lệ cao là chán nản, thất vọng 34,8%, khô
miệng 29,3%, không cịn hứng thú 28,3%, lo lắng 26,8%, khơng cịn cảm xúc
tích cực 20,7%. Điều dưỡng, hộ sinh làm việc tại các khoa chăm sóc sơ sinh,
sản 1, tự nguyện có tỷ lệ stress cao lần lượt là 35,48%, 26,32%, 31,26%.


16

Điều dưỡng, hộ sinh có cơng việc hiện tại là thường xuyên tiếp xúc với tình
huống xấu của người bệnh có tỷ lệ stress cao nhất là 41,7%[23].
Năm 2019, Phạm Thị Hằng cùng cộng sự tìm hiểu thực trạng stress của
điều dưỡng viên Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Phương pháp cắt ngang
kết hợp định tính và định lượng, được tiến hành trên 158 điều dưỡng viên
đang làm việc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định trong khoảng thời gian
từ tháng 3/2018 và 11/2018. Nghiên cứu sử dụng thang đo DASS 42 để đánh
giá, sàng lọc stress ở điều dưỡng và sử dụng bảng hỏi, bảng phỏng vấn sâu
nhằm thu thập thông tin từ các điều dưỡng viên đang làm việc tại Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Nam Định để tìm hiểu về sự hiểu biết về stress, các biểu hiện,
mức độ, nguyên nhân gây stress và cách ứng phó với stress của cán bộ điều
dưỡng. Stress của điều dưỡng viên đang làm việc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Nam Định biểu hiện về mặt thực thể dễ nhận thấy nhất là nhức đầu, mệt mỏi,
mất ngủ, suy nghĩ miên man, biểu hiện về mặt tâm lý tập trung chủ yếu ở biểu

hiện: Hay cáu giận, khó tính. Về cách phịng ngừa và ứng phó với stress của
điều dưỡng viên Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định gồm 11 cách phịng ngừa
và 6 cách ứng phó tương ứng với các mức độ thường xuyên, thỉnh thoảng,
không bao giờ. Trong đó, cách phịng ngừa được sử dụng thường xun nhất
là tâm sự với người khác, quản lý thời gian, đọc sách báo, xem tivi[24].
Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Phương Hà và cộng sự cho thấy mức
độ stress của các điều dưỡng viên làm việc tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú
Yên năm 2020 ở mức độ trung bình. Thấp nhất là khi có các vấn đề liên quan
đến đồng nghiệp điều dưỡng trung bình là 1,82 điểm, độ lệch chuẩn là 0,36.
Cao nhất khi có vấn đề về người bệnh và gia đình người bệnh trung bình là
2,45 điểm, độ lệch chuẩn là 0,46[2].


17

Chương 2.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Điều

dưỡng

viên

lâm

sàng

tại


Bệnh

viện

Đa

khoa

tỉnh ............................
Tiêu chuẩn lựa chọn: Là nhân viên điều dưỡng đang công tác tại các
khoa lâm sàng và đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ: Những điều dưỡng không đồng ý tham gia nghiên
cứu hoặc đang trong thời gian nghỉ ốm, nghỉ sinh đi công tác/học tập (khơng
có mặt tại thời điểm điều tra).
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3/2021 đến tháng 10/2021.
- Địa điểm:
2.3. Thiết kế nghiên cứu: Mơ tả cắt ngang có phân tích.
2.4. Cỡ mẫu:
Nghiên cứu áp dụng phương pháp chọn mẫu toàn bộ điều dưỡng lâm
sàng Bệnh viện Đa khoa tỉnh ............................
2.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
Công cụ thu thập số liệu
Bộ câu hỏi phát vấn soạn sẵn (phụ lục 2) gồm các câu hỏi đánh giá tình
trạng căng thẳng (một phần bộ thang đo DASS 21) và các câu hỏi liên quan
đến các đặc điểm cá nhân và nghề nghiệp (54 tiểu mục câu hỏi) được tham
khảo từ các nghiên cứu trước đây [7], [11], [15], [19].
Cách thức thu thập số liệu:
Trước tiên nghiên cứu viên liên hệ Ban lãnh đạo Bệnh viện để xin phép
tiến hành nghiên cứu. Tại mỗi khoa, nghiên cứu viên gặp trực tiếp lãnh đạo,

điều dưỡng trưởng các khoa để thông báo về nội dung, mục đích nghiên cứu


18

và đồng thời tổng hợp số lượng nhân viên điều dưỡng đang công tác trong
thời gian nghiên cứu (loại trừ các trường hợp nghỉ ốm, nghỉ sinh, học tập).
Vào ngày điều tra, nhân viên điều dưỡng được tập trung tại từng khoa
(phịng hành chính khoa). Cán bộ điều tra thơng báo mục đích của nghiên
cứu và cách trả lời phiếu theo quy định cho đối tượng nghiên cứu. Điều tra
viên gửi lại cho các điều dưỡng viên một phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu
và 1 phiếu điều tra. Nếu đối tượng đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ ký vào giấy
đồng ý tham gia nghiên cứu và tiến hành trả lời các câu hỏi trong phiếu phát
vấn, sau đó nộp lại luôn cho điều tra viên.
Trong các ngày tiếp theo điều tra viên sẽ đến từng khoa và thu thập lại
các phiếu điều tra của các đối tượng tham gia nghiên cứu.
2.6. Các biến số nghiên cứu
Biến độc lập:
- Các biên về thông tin chung của đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới tính,
tình trạng hơn nhân, trình độ chun môn, thâm niên công tác.
- Các biến về môi trường làm việc: khoa làm việc, cơ sở vật chất, số
buổi trực, kiêm nhiệm công việc, làm thêm giờ, chế độ nghỉ phép và lương,
nuôi con nhỏ dưới 5 tuổi, phải chăm sóc ơng/bà, bố/mẹ già cả, ốm yếu, nơi ở
thường xuyên gặp tình trạng trộm cắp, cướp giật, gặp tình trạng tắc đường.
Biến phụ thuộc:
- Phân loại stress nghề nghiệp.
- Tỷ lệ stress nghề nghiệp.
2.7. Tiêu chuẩn đánh giá
Đối với các biểu hiện của stress: người tham gia được đưa ra câu trả lời
bằng cách lựa chọn 1 trong 4 đáp án cho mỗi biểu hiện mà điều dưỡng viên

nhận thấy tần suất xuất hiện đối với mình trong thời gian 1 tuần gần đây (1=
không bao giờ, 2= đôi khi, 3= thường xuyên, 4= rất thường xuyên).


19

Đối với phần stress ở điều dưỡng viên: người tham gia nghiên cứu
được đưa ra câu trả lời bằng các lựa chọn 1 trong 4 đáp án cho mỗi câu hỏi
(1= chưa bao giờ stress, 2= thỉnh thoảng stress, 3= thường xuyên stress, 4= vô
cùng stress). Tổng số điểm dao động từ 54 – 216. Điểm càng cao có nghĩa là
điều dưỡng càng stress. Phân loại stress được chia làm 3 mức độ
(Polit&Hungler, 1999).
Điểm trung bình
1.00 - <2.00
2.00 - 3.00
>3.00 - 4.00

Mức độ stress
Thấp
Trung bình
Cao

2.8. Xử lý số liệu
Nhóm nghiên cứu sẽ làm sạch số liệu, nhập liệu bằng phần mềm
Epidata 3.1 và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 bằng các thuật toán
thống kê cơ bản. Các phân tích mơ tả sử dụng để đưa ra số liệu tỷ lệ stress
nghề nghiệp, tần suất các biểu hiện stress ở điều dưỡng viên. Các phân tích
tìm mối liên quan sử dụng kiểm định thống kê khi bình phương với mức ý
nghĩa thống kê P<0,05 để xác định một số yếu tố liên quan đến thực trạng
stress nghề nghiệp ở điều dưỡng viên.

2.9. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu
Tất cả các điều dưỡng viên được giải thích về mục đích và nội dung
nghiên cứu, việc tham gia nghiên cứu là hồn tồn tự nguyện. Mọi thơng tin
của đối tượng nghiên cứu đều được giữ bí mật và chỉ sử dụng cho mục đích
nghiên cứu. Tất cả phiếu điều tra không ghi tên, người nghiê n cứu mà chỉ mã
hoá theo số.
Nghiên cứu được thực hiện sau khi đề cương nghiên cứu được Hội
đồng Khoa học và kỹ thuật Bệnh viện thông qua và được sự cho phép của Ban
lãnh đạo Bệnh viện Đa khoa tỉnh ............................


20

Chương III.
KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1 Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1 cho thấy đa số điều dưỡng viên có tuổi từ 25 - 35 (43,1%),
đứng thứ hai là lứa tuổi từ 35 - 45 tuổi chiếm 38,8%, thấp nhất là trên 45 tuổi
chiếm 7,7%.

Biểu đồ 3.2 Đặc điểm về giới tính của đối tượng nghiên cứu
Về giới tính, nữ giới chiếm tỷ lệ đa số (78,5%) gấp 3,7 lần so với nam
giới (21,5%).

Biểu đồ 3.3 Đặc điểm tình trạng hơn nhân của đối tượng nghiên cứu
Về tình trạng hơn nhân, chiếm tỷ lệ cao nhất là có vợ/chồng chiếm
74,2%, đứng thứ hai là chưa lập gia đình chiếm 21,5%, ly hơn, ly dị, gố
chiếm tỷ lệ thấp nhất 4,3%.
Biểu đồ 3.4 Đặc điểm trình độ chun mơn của đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3.4 cho thấy đa số điều dưỡng viên có trình độ cao đẳng chiếm
66,5%, khơng có điều dưỡng viên nào có trình độ sau đại học.

Biểu đồ 3.5 Đặc điểm thâm niên công tác của đối tượng nghiên cứu


21

Về thâm niên công tác, chiếm tỷ lệ cao nhất (44,3%) là những điều
dưỡng viên làm việc từ 11 đến 20 năm và thấp nhất thuộc nhóm điều dưỡng
làm việc trên 20 năm (5,2%).

Biểu đồ 3.6 Đặc điểm phân bố điều dưỡng theo khoa
Về phân bố điều dưỡng theo khoa, chiếm tỷ lệ cao nhất là các chuyên
khoa khác chiếm 33,5%, đứng thứ hai là nội khoa chiếm 27,1%, đứng thứ 3 là
ngoại khoa chiếm 24,9% và thấp nhất là điều dưỡng hồi sức, cấp cứu chiếm
14,5%.
Bảng 3.1. Đặc điểm một số thói quen của điều dưỡng viên (n=325)

Hút thuốc lá
Uống
rượu bia
Hoạt động thể
lực hàng ngày
Đánh giá về
tình trạng sức
khỏe

Đặc điểm


Khơng
Khơng bao giờ
Thỉnh thoảng (1-2 lần/tuần)
Thường xun (trên 3 lần/tuần)
Khơng
Dưới 6 lần/tuần
Từ 6 lần/tuần trở lên
Khơng khỏe, yếu
Bình thường
Khỏe mạnh

n
36
289
176
142
7
147
152
26
12
270
43

(%)
11,1
88,9
54,2
43,7
2,2

45,2
46,8
8
3,7
83,1
13,2

Bảng 3.1 cho thấy tỷ lệ hút thuốc lá ở điều dưỡng là 11,1%. Tình trạng
uống rượu bia, thỉnh thoảng uống chiếm 43,7%, uống thường xuyên chiếm
2,2%. Về hoạt động thể lực, có 46,8% điều dưỡng hoạt động thể lực dưới 6
lần/tuần, tỷ lệ hoạt động thể lực đạt 6 lần/tuần trở lên đạt 8%. Kết quả tự đánh
giá về tình trạng sức khoẻ của bản thân của điều dưỡng viên như sau: tỷ lệ
điều dưỡng cho rẳng mình bình thường chiếm tối đa 83,1%, đứng thứ hai là
điều dưỡng viên cho rằng mình khoẻ mạnh chiếm 13,2% và thấp nhất là điều
dưỡng cho rằng mình khơng khoẻ, yếu chiếm tỷ lệ thấp nhất là 3,7%.


22

Bảng 3.2. Đặc điểm về môi trường làm việc của đối tượng nghiên
cứu (n=325)
Đặc điểm
Cơ sở vật chất của BV
Số buổi trực trong 1 tháng
Kiêm nhiệm công tác
Làm thêm giờ
Chấm thêm giờ
Nghỉ đủ lễ, tết, phép, bù,
trực
Mức lương

thỏa đáng
Là nguồn thu nhập chính
trong gia đình

Khơng đạt u cầu
Đạt u cầu
Rất tốt
Dưới 8
8 - 12
Trên 12

Khơng

Khơng

Khơng

Khơng

Khơng

Khơng

n
20
284
21
146
172
7

48
277
263
62
263
62
247
78
191
134
263
62

(%)
6,2
87,4
6,5
44,9
52,9
2,2
14,8
85,2
80,9
19,1
80,9
19,1
76
24
58,8
41,2

80,9
19,1

Đặc điểm về mơi trường làm việc, bảng 3.2 cho thấy đa số điều dưỡng
viên nhận định cơ sở vật chất của Bệnh viện đạt yêu cầu trở lên chiếm 93,9%,
cơ sở vật chất Bệnh viện không đạt yêu cầu chiếm 6,2%. Về số buổi trực
trong một tháng, đa số các điều dưỡng viên có số lượng buổi trực trong một
tháng từ 8 đến 12 buổi trực chiếm 52,9%, số buổi trực dưới 8 buổi chiếm tỷ lệ
thấp hơn là 44,9%, có 2,2% điều dưỡng viên có số buổi trực trong một tháng
là trên 12 buổi. Kiêm nhiệm cơng tác, trong 325 điều dưỡng thì tỷ lệ điều
dưỡng phải kiêm nghiệm công tác là 14,8%. Về làm thêm giờ, tất cả các
trường hợp làm thêm giờ đều được chấm thêm giờ theo quy định, tuy nhiên
có đến 24% điều dưỡng viên trả lời là không được nghỉ đủ lễ, nghỉ bù. Trong
325 điều dưỡng tham gia nghiên cứu, có đến 41,2% cảm thấy mức lương


23

nhận được không thoả đáng. Điều dưỡng viên là nguồn thu nhập chính trong
gia đình chiếm đến 80,9% tổng số điều dưỡng tham gia nghiên cứu.


24

Bảng 3.3. Đặc điểm về gia đình của đối tượng nghiên cứu (n=325)
Đặc điểm

Có con
dưới 5 tuổi
Khơng

Có ơng/bà,

bố/mẹ bị bệnh Không
tật, già cả
Mối quan hệ với Không tốt
thành viên gia Tương đối tốt
đình
Tốt
Về hồn cảnh gia đình điều dưỡng viên,

n
187
138
197
128

(%)
57,5
42,5
60,6
39,4

7
2,2
106
32,6
212
65,2
đa số điều dưỡng viên có con


dưới 5 tuổi chiếm 57,5%, tỷ lệ điều dưỡng viên có ơng/bà, bố/mẹ bị bệnh tật,
già cả chiếm 60,6%. Đa số có mối quan hệ tương đối tốt trở lên với các thành
viên gia đình chiếm 97,8%, chỉ có 2,2% có mối quan hệ khơng tốt với các
thành viên gia đình.
Bảng 3.4. Đặc điểm về xã hội của đối tượng nghiên cứu (n=325)
Đặc điểm
Gia đình anh/chị Khơng bao giờ
có các hiện
Thỉnh thoảng
tượng cướp giật,
Thường xun
trộm cắp, ...
Gặp tắc đường, Không bao giờ
TNGT trên
Thỉnh thoảng
đường đi làm Thường xuyên

n
305
20

(%)
93,8
6,2

0

0

53

260
12

16,3
80
3,7

Về xã hội, Gia đình điều dưỡng viên không bao giờ gặp hiện tượng
cướp giật, trộm cắp chiếm tỷ lệ 93,8%, thỉnh thoảng gặp chiếm 6,2%. Đa số
điều dưỡng tỉnh thoảng gặp tắc đường, tai nạn giao thông trên đường đi làm
chiếm 80%, thường xuyên gặp tình trạng này có 3,7%, khơng bao giờ gặp tình
trạng này có 38,2%.


25

3.2. Thực trạng nguy cơ stress và biểu hiện của stress của ĐTNC
3.2.1. Thực trạng nguy cơ stress theo thang đo ENSS
Bảng 3.5. Mức độ nguy cơ stress của điều dưỡng viên trong vấn đề
đối mặt với cái chết và sự chịu đựng của bệnh nhân (n=325)
ST
T

Nhóm 1: Đối mặt với cái chết và sự chịu
đựng của NB

1.1

Chứng kiến cái chết của người bệnh


1.2

Chứng kiến sự chịu đựng của người bệnh

1.3
1.4
1.5
1.6
1.7

Thực hiện các quy trình, thủ thuật làm bệnh
nhân phải đau đớn
Cảm giác bất lực khi thấy tình trạng của
bệnh nhân khơng được cải thiện
Bác sĩ khơng có mặt khi người bệnh tử vong
Cái chết của người bệnh mà Anh/Chị đã có
mối quan hệ thân thiện với họ
Phải nghe hoặc nói với người bệnh về khả
năng người bệnh sẽ chết
Mức độ nguy cơ stress chung

Trung
bình
(độ lệch)
1,89±0,7
4
2,12±0,7
3
1,78±0,7
2

2,07±0,6
9
1,57±0,7
5
1,82±0,7
1
1,76±0,6
7
1,86±0,5
1

Mức độ
stress
Thấp
Trung bình
Thấp
Trung bình
Thấp
Thấp
Thấp
Thấp

Bảng 3.5 cho thấy điều dưỡng viên thi thoảng gặp stress với 7 tiểu mục
trong vấn đề đối mặt với cái chết của người bệnh. Có 2/7 tiểu mục có mức độ
nguy cơ stress trung bình. Mức độ nguy cơ stress có điểm trung bình cao nhất
là 2,12±0,73 ở tiểu mục chứng kiến sự chịu đựng của người bệnh, Mức độ
nguy cơ stress có điểm trung bình đứng thứ hai là 2,07±0,69 ở tiểu mục cảm
thấy bất lực khi tình trạng bệnh nhân khơng được cải thiện. Điều dưỡng viên
có tình trạng nguy cơ stress ở mức thấp nhất đối với việc bác sĩ khơng có mặt
khi người bệnh tử vong có điểm trung bình mức độ nguy cơ stress là

1,57±0,75. Điểm trung bình cho nhóm đối mặt với cái chết của người bệnh là
1,86±0,51 tương ứng với điều dưỡng viên mắc stress ở mức thấp.


×