BỘ NỘI VỤ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
TÊN ĐỀ TÀI:
NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN. THỰC
TRẠNG TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Tín ngưỡng và tôn giáo Việt Nam
Mã phách: ………………………………….......
HÀ NỘI, 2021
1
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................ 2
PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................... 2
1. Khái quát về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ................................................ 2
2. Nguồn gốc và bản chất ............................................................................ 3
2.1. Nguồn gốc ............................................................................................ 3
2.2. Bản chất ............................................................................................... 8
3. Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ........................................ 9
4. Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam hiện nay ...13
KẾT LUẬN ...............................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................20
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là loại hình tín ngưỡng dân gian
có sức sống lâu bền trong đời sống văn hóa người Việt nói riêng và cả dân
tộc Việt Nam nói chung, nó có sức lan tỏa, thẩm thấu và lưu truyền từ đời
này qua đời khác như dịng chảy giá trị văn hóa lịch sử tốt đẹp của dân tộc
ta. Vì vậy, tục thờ cúng tổ tiên có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần
của con người, cũng như vai trò quan trọng với đời sống tinh thần - đời sống
tâm linh con người và cộng đồng. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên khơng chỉ
chứa đựng những giá trị văn hố, đạo đức tốt đẹp của dân tộc mà còn thể
hiện quan niệm, thể hiện thế giới quan của con người đối với thế giới xung
quanh và giữa con người với nhau,... Hàng ngàn năm qua, tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên đem lại những mặt tích cực tới đời sống của mỗi cá nhân, cộng
đồng và xã hội, hun đúc lên tinh thần dân tộc, đạo lý tri ân, thành kính, tơn
thờ người có cơng, ghi tạc ơn người dưỡng dục sinh thành,... và, tất cả
những chiều kích tâm cảm ấy được truyền tải vào hoạt động giáo dục
nhân cách con người Việt làm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của mỗi cá
nhân, mỗi gia đình và mỗi cộng đồng tụ cư trên đất nước Việt Nam thân yêu
của chúng ta. Ngoài ra, trước xu thế phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên phải đối mặt với những tiềm ẩn tiêu cực mang tính
chất thương mại hóa, mê tín,… từ những vấn đề trên trên, em chọn đề tài “
Nội dung chính của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. thực trạng tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt” với mong muốn góp phần làm sáng tỏ vấn
đề liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong dịng chảy tín ngưỡng dân
gian của người Việt.
1
PHẦN NỘI DUNG
1.
Khái quát về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tục lệ thờ cúng tổ tiên, thờ những
người đã qua đời của nhiều dân tộc châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hóa
Việt Nam, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Triều Tiên, văn hóa Nhật
Bản và Văn hóa Đơng Nam Á, ở mỗi quốc gia, dân tộc việc thờ cúng tổ tiên
có sự khác nhau về mục đích, cách thức thờ cúng,… Đối với người
Việt, phong tục thờ cúng tổ tiên trở thành một thứ tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên và có ở hầu hết các dân tộc như dân tộc Thái, Tày, Nùng,… nhưng phổ
biến và điển hình nhất là ở người Việt. Đại đa số các gia đình đều có bàn thờ
tổ tiên trong nhà, ít nhất là có treo di ảnh một cách trang trọng, nhưng không
phải là một tơn giáo mà là do lịng thành kính của người Việt đối với cha
mẹ, ông bà, cụ kỵ. Đây là một một nét văn hóa tâm linh truyền thống của
người Việt, là một tập tục truyền thống có vị trí đặc biệt trong đời sống tinh
thần của dân tộc Việt Nam và đây là một trong các thành tố tạo nên bản sắc
văn hóa Việt Nam.
Điều làm cho tín ngưỡng thờ tổ tiên chiếm giữ vị trí thiêng liêng trong
đời sống tinh thần của con người là do tín ngưỡng phù hợp với đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Ý thức “con người có tổ có tơng” được bảo
tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Và đặc
biệt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chứa đựng nội dung bình dị với những ước
mong bình dị và niềm tin chất phác, đó là những lời cầu xin được che chở, phù
trợ cho sự bình yên của cuộc sống hàng ngày. Hình thức giản dị, thiết thực, vì
vậy nó dễ phổ cập trong mọi gia đình dù là ở nơng thơn hay thành thị, người
giàu hay nghèo. Do đó, khả năng truyền bá, bảo tồn của tín ngưỡng này là
một điều dễ hiểu. Mặt khác, đây là một hình thái tín ngưỡng được các thể
chế chính trị từ xưa đến nay ủng hộ, trân trọng và thừa nhận. Vì nó góp phần
2
quan trọng vào việc tổ chức xã hội, bảo đảm ngun tắc tơn ti trật tự trong
gia đình, dịng họ cho tới quốc gia.
2.
2.1.
Nguồn gốc và bản chất
Nguồn gốc
Hiện nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả trong
nước và ngồi nước để giải thích về sự ra đời của tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên tại Việt và có hai giả thiết được đưa ra: Giả thiết thứ nhất cho rằng tín
ngưỡng thờ tổ tiên được hình thành vào thời Bắc thuộc cùng với những ảnh
hưởng của văn hóa Hán. Có người căn cứ vào một số đặc điểm tương đồng
về mặt nghi thức thờ cúng tổ tiên của người Việt khi so sánh với người Hoa
mà khẳng định: “sự thờ cúng tổ tiên ở người Việt về cơ bản bắt nguồn từ sự
thờ cúng tổ tiên ở người Hán”. Cùng quan điểm này, cùng quan điểm đó Hà
Văn Tăng và Trương Thìn viết: “Thờ cúng tổ tiên có thể lúc đầu cử hành
trong người Hán, rồi lan sang người Việt. Và đến một thời điểm nào đó thì
trở thành phong tục phổ biến của người Việt” [8]. Ngược với giả thiết trên,
Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Việc thờ cúng tổ tiên của người Việt đã có cái
gốc, cái nền nội sinh chứ không phải do từ Trung Quốc xâm nhập vào như
nhiều sách báo từ trước tới nay đã khẳng định” [4], tức tín ngưỡng thờ tổ
tiên của người Việt có nguồn gốc nội sinh. Hai giả thiết này đã từng gây ra
nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu khoa học khoa học xã hội. Tuy nhiên,
chưa có cơ sở chắc chắn để khẳng định rằng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
được hình thành ở trong nước, hay được du nhập từ nước ngoài vào Việt
Nam. Vì vậy, mặc dù về nguồn gốc hình thành, có hai quan niệm khác nhau
nhưng các nhà nghiên cứu đã thống nhất rằng có bốn yếu tố cơ bản để hình
thành nên tín ngưỡng thờ tổ tiên.
Thứ nhất, quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Đây là yếu tố
quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ một hình thái tín ngưỡng, tơn
3
giáo nào. Cùng nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn
vật hữu linh” tức mọi vật đều có linh hồn. Trong nhận thức của con người,
thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt; linh hồn gắn bó với thể xác
khi cịn sống để điều khiển hành vi của con người và khi chết phần linh hồn
sẽ tách biệt khỏi thể xác, khi thể xác đã hòa vào cát bụi, tan rã nhưng phần
hồn thì vẫn tồn tại: “thể xác tiêu tan, linh hồn bất diệt”. Và xuất phát từ quan
niệm linh hồn bất diệt mà con người có sự nhìn nhận về cái chết, chết chưa
phải là hết, linh hồn của người đã khuất vẫn còn hiện hữu, chỉ là chuyển
sang một dạng sống mới ở một môi trường mới, một thế giới khác. Người
Việt thường gọi là cõi âm, âm phủ đối lập với cõi dương, trần gian, tại đây
linh hồn sống và có nhu cầu giống như cuộc sống của con người ở cõi trần.
Minh chứng cho thấy người Việt chôn theo thi hài người chết những đồ
dùng cá nhân như quần áo, gương, lược,… với ý nghĩa để cho linh hồn
người chết sử dụng ở thế giới bên kia. Trong quan niệm của người Việt, thế
giới sau khi chết mới thực sự là quê hương (sống gửi, thác về). Điều này bộc
lộ rất rõ qua ngôn ngữ hàng ngày, người Việt ít khi dùng từ chết mà thay
bằng: về quê, về với tổ tiên, quy tiên, về nơi chín suối,…
Cũng từ quan niệm trên mà con người tin rằng: người sống và người
chết ln ln có một sự liên lạc mật thiết nhờ vào mối liên kết dòng máu,
mối liên kết tâm linh, linh hồn ông bà, cha mẹ dù đã qua đời nhưng luôn dõi
theo, phù trợ cho con cháu. Trong cuộc sống con người thường gặp phải
những khó khăn, trở ngại, ốm đau, bệnh tật,... Họ thiếu tự tin vào bản thân
nên họ cần tới sự giúp đỡ, che chở và phù hộ độ trì của ơng bà tổ tiên từ thế
giới bên kia. Mặt khác, trong tâm tưởng của con cháu ln hiện diện hình
ảnh ơng bà, cha mẹ. Vì vậy, con cháu cảm thấy mình phải có trách nhiệm
thờ cúng: một nén hương thơm, một chút hoa quả, một chén nước tinh khiết
dâng lên tổ tiên trong những ngày giỗ tết sóc vọng thể hiện lịng hiếu thảo,
4
lịng thành kính của con cháu, biết ơn những người đã sinh thành và dưỡng
dục mình yếu tố này có vai trị quyết định trong việc duy trì tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt.
Tuy nhiên, bên cạnh ý thức trách nhiệm là sự biết ơn công sinh thành,
dưỡng dục, phần nào là yếu tố tâm lý sợ bị trừng phạt. Một tâm lý sợ hãi, sợ
bị quở trách khiến người ta phải thờ cúng. Người ta cho rằng, nếu không
cúng tế linh hồn ông bà tổ tiên đầy đủ thì những linh hồn này trở thành “ma
đói, ma lang thang và sẽ mang lại rủi ro, quấy nhiễu cuộc sống của những
người đang sống nên họ cảm thấy phải có trách nhiệm đối với người đã mất.
Thứ hai, vấn đề hình thức tổ chức xã hội. Đây cũng là một cơ sở quan
trọng trong việc hình thành tín ngưỡng thờ tổ tiên. Khi xã hội loài người
chuyển từ nền kinh tế săn bắt, hái lượm sang nền kinh tế trồng trọt và chăn
nuôi đã đánh dấu bước phát triển mới của nhân loại. Con người khơng cịn
hồn tồn phụ thuộc vào tự nhiên như trước nữa, đồng thời khẳng định vai
trò của người phụ nữ trong xã hội công xã nguyên thủy. Thời kỳ này, bên
cạnh biểu tượng về các thần tự nhiên đã xuất hiện biểu tượng về vật
tổ (tôtem). Tôtem giáo phản ánh niềm tin vào mối quan hệ họ hàng thần bí
giữa con người với một loại động, thực vật nào đó. Tuy vậy, lịng tin vào
tơtem vẫn chưa đủ điều kiện để hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nếu
thiếu chế độ thị tộc phụ quyền, phụ hệ. Theo Tokarev - nhà dân tộc học
người Nga, cho rằng: “việc thờ cúng vật linh có thể xuất hiện ở thời kỳ mẫu
hệ, nhưng thờ cúng tổ tiên phải gắn bó với thời kỳ phụ hệ”.
Sự ra đời của chế độ thị tộc phụ hệ là kết quả của việc công cụ sản
xuất phát triển, kéo theo sự phân công lao động giữa trồng trọt, chăn nuôi và
thủ công ngày càng rõ rệt. Bên cạnh đó, nhu cầu bảo vệ và mở rộng lãnh thổ
do người đàn ơng có sức mạnh cơ bắp hơn nữ giới đảm nhiệm. Từ yêu cầu
sản xuất đến nhu cầu lãnh thổ đã nâng địa vị của người đàn ông lên hàng
5
đầu. Cùng với sự biến đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ, trình độ sản
xuất của xã hội ngày càng cao, của cải làm ra ngày càng nhiều, đã xuất hiện
vấn đề thừa kế tài sản. Quyền thừa kế tài sản theo dòng họ cha đã củng cố
vững chắc vị trí của người đàn ơng trong xã hội. Như vậy, người đàn ông bắt
đầu nắm giữ quyền hành quản lý gia đình dịng họ đã có vai trò quan trọng
trong hoạt động kinh tế, vợ và con cái họ tuyệt đối phục tùng và tôn trọng
cái uy quyền đã được xác lập ấy, không chỉ khi họ còn sống mà cả khi họ đã
qua đời. Những đứa con mang họ cha đã kế tiếp ý thức về uy quyền. Điều
này đúng như đánh giá của Trịnh Đình Bảy: “Những người này, bằng uy tín
của mình đã củng cố và thiêng liêng hóa sự thờ cúng tổ tiên từng manh nha
trong thời kỳ thị tộc mẫu quyền” [1]. Trong xã hội có giai cấp, vị trí của
người đàn ơng trong gia đình và ngồi xã hội càng được khẳng định, tạo
điều kiện cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phát triển mạnh. Các nghi thức ma
chay, cúng tế tổ tiên cũng chính là “hình thức phản ánh hoang đường quyền
hành gia trưởng trong một gia đình”. Theo chính sử, quyền trưởng nam ở
Việt Nam đã xuất hiện chính thức vào thời Lý khi Lý Thái Tổ đã phong con
trai trưởng là Phật Mã làm Thái tử. Có lẽ đến lúc này, người Việt mới hình
thành rõ rệt ý thức về cội nguồn gia đình theo con đường chung tộc danh về
phía bố các gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ và ý thức về quyền
thừa kế tài sản. Như vậy, có thể nói tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng huyết
thống thực sự ra đời và phát triển trong thời kỳ thị tộc phụ hệ.
Thứ ba, cơ sở kinh tế - xã hội, đây là yếu tố góp phần nhất định cho
việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ tổ tiên. Việt Nam có đặc trưng khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên kinh tế người Việt phù hợp với sản xuất
lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp với nuôi gia súc. Vì thế hình
thành nền kinh tế tiểu nơng theo kiểu tự cung tự cấp đã tồn tại lâu dài trong
xã hội chính là mơi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển tín
6
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi gia đình là một cơ sở sản xuất độc lập, cũng là
nơi tiêu thụ chính sản phẩm do họ làm ra với hình thức nhỏ, khơng địi hỏi
tập trung nhân cơng theo quy mơ lớn như ở nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ
xản xuất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành viên trong gia đình từ phụ nữ, trẻ em
đều sử dụng dễ dàng. Các thành viên trong gia đình gắn bó chặt chẽ với
nhau trong lao động sản xuất và trong đời sống lấy gia đình làm trung tâm.
Vì vậy, con người khó thốt khỏi làng nên tâm thế, tình cảm của người Việt
thường hướng vào gia đình với nhiều thế hệ. Đó là một trong những lý do
quan trọng khiến thờ cúng tổ tiên ở cấp độ gia đình được chú ý, quan tâm
hơn cả.
Thứ tư, ý thức về tổ tiên và mối liên hệ giữa con cháu với tổ tiên đã
được lễ thức hóa do sự đóng góp của hệ tư tưởng Nho giáo. Dân tộc Việt
hình thành trong một khu vực địa lý đặc biệt, nằm giữa miền Bắc Việt Nam
và miền Nam Trung quốc. Do đó, người Việt từ xa xưa đã học chữ Trung
Quốc, đọc sách Trung quốc và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo.
Khổng Tử, một nhà hiền triết của Trung quốc, hệ thống hóa và phát huy học
thuyết của Nho gia, lập ra những quy tắc để răn dạy người đời học biết cách
sống phù hợp với luân thường đạo lý trong xã hội. Khổng Tử và những
người kế thừa tư tưởng của ông rất đề cao chữ “hiếu” và coi đó là nền tảng
của đạo làm người. Theo Khổng Tử, sự sống của mỗi người khơng phải do
tạo hóa sinh ra, càng khơng phải do bản thân tự tạo mà nhờ có mẹ cha. Sự
sống của mỗi người gắn liền với sự sống của cha mẹ, sự sống của cha mẹ
gắn liền với sự sống của ông bà và cứ như vậy, thế hệ sau là sự tiếp nối của
thế hệ trước. Do ảnh hưởng của Khổng giáo, người Việt xem chữ “hiếu” như
là một chuẩn mực đạo đức và là một nguyên tắc trong đạo lý làm người. Trải
qua nhiều thế hệ tiếp nối nhau, người Việt đã thể hiện việc hiếu đạo thành
một tập tục gọi là thờ cúng tổ tiên. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh
7
thế phụ đã củng cố thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể
chế hóa. Những tư tưởng này có ảnh hưởng rất lớn đến việc thờ cúng tổ tiên
của người Việt cho đến ngày nay. Trải qua nhiều thế hệ, người Việt hệ thống
hóa dần tập tục thờ cúng tổ tiên và xem tập tục này gần như là một tôn giáo.
Mặt khác, các tư tưởng và học thuyết của Nho giáo đã giúp cho các
vương triều phong kiến Việt Nam tổ chức quản lý quốc gia trong giai đoạn
độc lập tự chủ. Vì vậy, tín ngưỡng thờ tổ tiên khơng chỉ được lễ thức hóa mà
con được cắc vương triều thừa nhận, thể chế hóa bằng pháp luật. Điều 339
và 400 trong Lê triều hình luật quy định: “Ruộng hương hỏa, cơ sở kinh tế
thờ cúng tổ tiên, dù cho con cháu nghèo khó cũng không được đem bán, nếu
bán ghép vào tội bất hiếu, Nếu người trong họ mua ruộng đất ấy, thì mất số
tiền mua, người ngồi mà mua thì phải cho chuộc, người mua không được
cố giữ”. Tuy nhiên, các nguyên lý Nho giáo nói chung và các quy định về tín
ngưỡng nói riêng khi thâm nhập vào nước ta cũng đã phải chấp nhận biến
đổi cho phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc..
2.2.
Bản chất
Về bản chất, theo quan điểm truyền thống và phổ biến lâu nay thờ
cúng tổ tiên được coi là một tín ngưỡng và nhiều người lầm tưởng đó là một
tơn giáo. Nhưng thực chất khơng phải như vậy, bởi mặc dù nó có những
nghi lễ cụ thể nhưng khơng có những tín điều, giáo lý chặt chẽ mà mỗi nơi
có những biến tấu khác nhau từ Bắc vào Nam. Chứa đựng những ý thức về
tổ tiên, về cội nguồn “con người có tổ có tơng”. Nó mang tính chất là một
hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng lễ, cầu mong linh hồn ông bà Tổ tiên "phù
hộ" cho hiện thực cuộc sống của con cháu.
Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của
linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết
thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu,
8
quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là nội
dung nổi trội. Đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “phúc ấm tổ tiên”, một mặt
con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng
như khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài
của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không
chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia
đình, dịng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế khi họ đã mất.
Một học giả nước ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng này ở nước ta đã nhận
xét: “Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ cúng lễ là tuyệt đối cần
thiết để cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh thản ở thế giới bên
kia”. Việc thờ cúng được tổ chức trong cùng dòng họ, máu mủ đã khuất,
theo từng đơn vị gia đình, gia tộc,… Ngồi ra, tín ngưỡng cịn là hình thức
để nhắc nhở ý thức về tổ tiên là ý thức về cội nguồn “con người có tổ có
tơng”. Thờ cúng tổ tiên là sự phản ánh liên tục của thời gian là cầu nối giữa
quá khứ với hiện tại và tương lai. Sự sống là bất diệt , chết không phải là hết,
các thế hệ nối tiếp nhau chết chỉ là sự bắt đầu một chu kỳ sinh mới.
3.
Các hình thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Thờ cúng tổ tiên của người Việt bao gồm ba hình thức: thờ cúng tổ
tiên trong gia đình, chi họ và dịng họ: Thờ cúng tổ tiên trong gia đình là mỗi
gia đình hay cụm gia đình, hoặc một nhánh, cành đều lập bàn thờ tổ tiên tại
gia đình hoặc tại nhà trưởng của cụm gia đình đó; trường hợp có điều kiện
thì dựng nhà thờ riêng, gọi là nhà thờ bản phái. Thông thường tại đây chỉ thờ
đến đời thứ năm, từ các đời trên đó được chuyển sang thờ ở nhà thờ chi
“Ngũ đại mai thần chủ”; Thờ cúng tổ tiên của một chi họ (tổ chi), được thờ
tại nhà thờ cho họ hoặc tại nhà thờ chi họ hoặc nhà trưởng của chi đó; cũng
có khi thờ ở nhà thờ tổ; Thờ cúng tổ của cả dòng họ (được gọi là thủy tổ,
9
khởi tổ, triệu tổ,..) tại nhà thờ chung của dòng họ, gọi là nhà thờ đại tôn (hay
đại tông).
Về đồ thờ tự và các nghi lễ thờ cúng tổ tiên trong gia đình có thể khái
qt như sau: Bàn thờ hay còn gọi là nhang án, hương án: người ta cịn có sự
phân biệt giữa bàn thờ họ và bàn thờ trong từng gia đình. Dù có sự khác
nhau về hình thức, nhưng cả ở 3 miền, bàn thờ đều được đặt ở vị trí trung
tâm, nơi trang trọng, cao ráo, sạch sẽ nhất trong nhà. Cụ thể, đặt bàn thờ ở
gian giữa đói với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng.
Những gia đình khá giả, có điều kiện, nhà cửa rộng rãi có thể lập
khám thờ, ngai thờ, nhang án, cửa võng,.. Nhà bình dân hay nhà nghèo có
thể lập một bàn thờ, một bát nhang để thờ cúng tổ tiên. Trên bàn thờ bày bát
hương, bộ tam sự gồm: đỉnh đồng, chân đèn và đôi hạc hoặc ngũ sự có thêm
bình cắm hương và bình cắm hoa; mâm bồng, quả tôn, ngai thờ, khám thờ,
bài vị hay hình ảnh người quá cố. Đối với các gia đình quan lại hoặc giàu có
trong xã hội truyền thống, bàn thờ thường có ba bát hương, một bát ở giữa
thờ thần linh, một bát bên trái từ trong nhìn ra thờ tổ tiên, bát bên phải từ
trong nhìn ra thờ bà cơ, ơng mãnh. Nhìn vào bàn thờ có thể thấy được đầy
đủ “ngũ hành”: kim (đồ kim loại), mộc (đồ gỗ), thủy (nước) hỏa (lửa), thổ
(đất nung, hoặc cát). Theo Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục “Nhà
thờ Thủy Tổ có riêng một thần chủ để thờ mãi mãi, không bao giờ thay đổi
gọi là “bách thế bất diêu chi chủ”. Còn về gia từ, nhà phú quý có đủ thần chủ
bốn đời, để thờ cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng gỗ táo lấy nghĩa rằng
gỗ táo sống được nghìn năm. Dài độ một thước, ở giữa để tên, họ, chức, tước
và hai bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có hộp vng che kín và để
trong long khám, khi nào cúng tế mới mở ra. Hễ đến năm đời thì lại đem
thần chủ cao tổ đi mà nhắc dần tằng, tổ, khảo lên bực trên, rồi đem ông mới
mất mà thế vào thần chủ ông khảo, gọi là “Ngũ đại mai thần chủ”. Nhà
10
thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, cũng có nhà chỉ dùng một bộ ỷ để
thờ. Đồ thờ phụng thì đại khái nhà nào cũng có một bộ đèn, nến, lư hương,
bình hoa, mâm quỳ, mâm bồng, cỗ đài rượu, hộp trầu, đài nước v.v... Người
thì dùng đồ đồng đồ thiếc, người thì dùng đồ sơn son thếp vàng thếp bạc.
Nhà nào giàu có treo hồnh biển khắc ba bốn chữ đại tự và trao kèm đối liễn
đôi bên bàn thờ, hoặc khảm trai, hoặc sơn thếp. Nhà không có cũng treo
hồnh biển và đơi liễn dán giấy. Đại ý trong chữ thì chỉ là ghi tụng cơng đức
của tổ tơng. Đồ thờ phụng, càng nhà giàu thì càng trang hồng nhiều đồ q,
nhà nghèo đến đâu cũng có được một vài cây đèn nến sơn son và một cái
bình hương. Ta coi đồ thờ tự là đồ rất kính trọng, khơng ai đem cầm đem
bán bao giờ. Nếu nhà nào nghèo quá phải cầm bán thì ai cũng chê cười”
[Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa thơng tin, 2005, tr. 25 - 26].
Trong gia đình, nghi lễ thờ cúng gia tiên được tiến hành vào ngày
mùng một (ngày sóc), ngày rằm (15) âm lịch, ngày lễ, ngày tết, ngày giỗ
người đã khuất và tất cả những biến cố vui, buồn như: làm nhà, cưới hỏi,
tang ma, làm nhà mới, lập được cơng danh, ngày sinh con, ngày có việc đi
xa…Trong truyền thống, việc cúng vái gia tiên bao giờ cũng do gia trưởng
(đàn ông) làm (trừ khi gia trưởng có cơng việc phải đi xa nhà, thì người quan
trọng thứ hai trong gia đình thực hiện. Ngày nay việc cúng vái gia tiên đã có
sự thay đổi, nhiều gia đình việc cũng lễ tổ tiên thường do người phụ nữ đảm
nhiệm. Mỗi lần cúng gia tiên đều phải có đồ lễ, và phải theo những nghi thức
truyền thống tối thiểu. Đồ lễ thông thường gồm: trầu, rượu, hoa quả, vàng
hương và nước lạnh. Trong trường hợp bất thần đêm hơm, có thể giảm đến
mức tối thiểu và chỉ cần một chén nước lạnh, một nén hương thắp trên bàn
thờ là đủ. Ngoài những đồ lễ tối thiểu kể trên, tùy theo hồn cảnh từng gia
đình, tùy từng buổi lễ, đồ lễ có thể gồm: xơi, chè, oản, chuối, hoặc cỗ mặn,
có khi có thêm đồ mã.
11
Trong ngày lễ, khi đồ lễ đã đặt lên bàn thờ, người gia trưởng khăn áo
chỉnh tề, thắp đèn, nến, ba nén nhang, rồi quỳ xuống hoặc đứng trước bàn
thờ khấn. Một số gia đình có chiếc chng nhỏ, người gia trưởng sau khi
thắp hương thì thỉnh chng, xong khấn. Trước khi khấn thì vái ba vái, khi
khấn xong lại vái ba vái nữa. Sau khi người gia trưởng khấn lễ xong, mọi
người khác trong gia đình (trừ trẻ nhỏ) mới lần lượt tới lễ trước ban thờ.
Người ta chờ cho tàn một tuần nhang (tức là những nén nhang thắp lên cháy
gần hết), gia trưởng thắp tiếp một tuần nhang nữa, rồi lễ tạ. Lễ tạ xong, hạ
vàng mã trên bàn thờ để hóa (đốt đi) và có thể hạ đồ lễ xuống, cịn chén rượu
cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng vừa hóa. Tục truyền rằng phải làm
như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời,
nước (rượu) hịa với lửa mà thấm xuống đất. Nếu là ngày giỗ người đã
khuất, sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng
ăn, coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến
dùng bữa, tức là ăn giỗ. Trong các bàn thờ xưa, phía trước bàn thờ thường có
chiếc y mơn. Trong lúc dâng cúng, chiếc y môn (rèm che trước bàn thờ) trên
bàn thờ được buông xuống để tổ tiên hưởng lễ. Sau khi lễ tạ, y môn được
kéo lên. Một biến thể của việc cúng giỗ ở các gia đình là tục thờ “hậu” do
nhà chùa hay đình làng đảm nhiệm. Trong trường hợp này người quá cố đã
cúng tiền hay ruộng vào chùa hay đình để được hưởng lễ vật vào những
ngày kỵ nhật.
Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi việc tang ma là trọng sự, gắn liền
với việc thờ cúng tổ tiên. Đối với nghi lễ thờ tổ họ được tiến hành vào ngày
giỗ các vị tổ chi và tổ họ (có thể tổ chức cả vào ngày giỗ cụ tổ ông và tổ bà,
hoặc chỉ tổ chức vào ngày giỗ của một cụ). Trưởng tộc là người được hưởng
hương hoả của tổ tiên nên có trách nhiệm phải lo việc làm giỗ họ. Trong
ngày giỗ họ, con cháu đều phải góp giỗ. Mỗi dịng họ thường có một cuốn
12
tộc phả ghi chép họ tên, chức tước, ngày tháng sinh tử của tổ tông và người
trong họ theo thứ tự. Việc góp giỗ và tổ chức giỗ họ hàng nǎm được chuẩn
bị rất chu đáo. Theo phong tục chỉ có đàn ơng trong họ trên 18 tuổi mới phải
góp giỗ (được gọi là tính theo đinh). Có nhiều họ theo quan niệm “con gái là
con người ta” nên không cho con gái dự giỗ họ nhưng con dâu “mới đúng là
con mua về” thì được tham dự. Ngày nay, quan niệm ấy đã dần được xoá bỏ.
Ngày giỗ họ, khơng mời khách khứa, chỉ có con cháu trong họ. Các ngày
rằm, mồng một, ngày lễ, ngày Tết việc lễ bái sẽ do nhà trưởng họ lo. Đến
tháng Chạp thì cả họ lại họp nhau lại như ngày giỗ Tổ. Vào dịp giỗ tổ hàng
năm hoặc khi có việc họ thì cả họ tới nhà trưởng họ dự lễ và hưởng lộc, nhà
thờ tổ giao cho gia đình trưởng họ trơng nom, hương khói. Nhà thờ tổ to
hay nhỏ là tùy thuộc vào họ lớn hay bé (do số chi hoặc phân chi, số đinh
nhiều hay ít). Về kiểu dáng, nhà thờ tổ thường mơ phỏng ngơi đên thờ
Thành hồng hoặc có thể xây dựng giống ngơi nhà ở gồm ba gian.
Có thể thấy rằng, trong phạm vi thờ cúng tổ tiên đối với những người
có cùng huyết thống thì thờ cúng tổ họ có phạm vi rộng lớn nhất. Bởi đó là
ơng tổ của cả một dịng họ, là cái “gốc”, là “cội nguồn” của cả một dòng họ.
Cho nên tất cả những người trong họ đó, ngồi việc thờ cúng tổ tiên trong
gia đình mình, thờ cúng tổ chi, thì có nghĩa vụ thờ cúng tổ họ.
4. Thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam
hiện nay
Việc thờ tổ tiên đã có những biến đổi so với trước thời kỳ đổi mới
năm 1986 thể hiện trên một số khía cạnh: Trước nay do sự biến động của
chiến tranh bị mai một, ngày nay đã có sự phục hồi mạnh mẽ trở lại và có
phần sơi động hơn. Bên cạnh đó nó cũng có sự biến đổi theo nhiều xu hướng
khác nhau: suy giảm, đơn giản hố, phơ trương, thương mại hóa,…, cụ thể:
13
Từ sau đổi mới, các loại hình tơn giáo tín ngưỡng đều được coi là
“trỗi dậy” sau một giấc ngủ dài. Cơ sở thờ tự các tôn giáo ngày càng được
xây dựng, tu bổ khang trang hơn. Cùng với nó, số lượng tín đồ đến tham dự
các hình thức nghi lễ tôn giáo cũng nhiều hơn. Thờ cúng tổ tiên cũng hịa
mình vào xu thế chung đó. Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình cũng ngày
càng được chú trọng hơn. Nếu tôn giáo chỉ đáp ứng được nhu cầu tâm linh
của một bộ phận người dân là tín đồ của tơn giáo đó thì thờ cúng tổ tiên đáp
ứng nhu cầu tâm linh của đại bộ phận người Việt Nam. Nếu trước kia, chúng
ta còn bắt gặp những gia đình khơng có bàn thờ tổ tiên trong nhà thì ngày
nay nhà nào cũng có, chiếm đến 92%, số cịn lại đều là các gia đình trẻ chỉ
lập bàn thờ thổ công, bàn thờ tổ tiên bên nhà bố mẹ. Những trang thờ nhỏ bé
hay những bát hương đặt tạm bợ trên nóc tủ thời bao cấp dần được thay thế
bằng những bàn thờ cố định với nhiều kiểu dáng mẫu mã trang nghiêm và
đẹp mắt. Vị trí đặt bàn thờ tổ tiên cũng được chú trọng. Ngày nay, để đặt
một bàn thờ, người ta khơng cịn tùy tiện chỗ nào cũng được như trước mà
cần phải xem hướng bàn thờ, xem kích thước bàn thờ về chiều cao, chiều
dài, chiều rộng. Ngày đặt bàn thờ hay bốc bát hương cũng là một sự kiện
quan trọng của gia đình. Những gia đình có điều kiện, người ta thường dành
một phịng riêng, trên tầng cao nhất, hay khu vực sạch sẽ và trang trọng nhất
trong ngơi nhà làm phịng thờ. Sự thay đổi trong cách thức bài trí bát hương
và khơng gian thờ tổ tiên trong các gia đình ngày nay là chỉ báo rõ nét thể
hiện tầm quan trọng của thờ cúng tổ tiên trong đời sống tâm linh người Việt
Nam đương đại.
Cách thức bài trí bàn thờ tổ tiên, bàn thờ dịng tộc cũng có nhiều thay
đổi. Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính mơ tả đồ thờ trước kia trong nhà
thờ như sau: “Nhà thờ Thủy tổ có riêng một thần chủ để thờ mãi mãi, khơng
bao giờ thay đổi, gọi là “bách thế bất diêu chi chủ”. Còn về gia từ nhà phú
14
quý có đủ thần chủ bốn đời, để thờ cao, tằng, tổ, khảo. Thần chủ làm bằng
gỗ táo, lấy nghĩa rằng gỗ táo sống lâu được nghìn năm. Dài một thước, ở
giữa đề tên, họ, chức tước và hai bên thì đề ngày tháng sinh tử của tổ tiên, có
hộp vng che kín và để trong long khảm, khi nào cúng tế mới mở ra. Hế
đến năm đời thì lại đem thần chủ Cao tổ mai đi mà nhắc lần Tằng, Tổ, Khảo
lên bực trên, rồi đem Ông mới nhất mà thế vào thần chủ ông Khảo, gọi là
“Ngũ đại mai thần chủ”. Nhà thường dân cũng có nhà dùng thần chủ, cũng
có nhà chỉ dùng một bộ ỷ để thờ”[……]. Ngày nay, cách thức thờ cúng này
rất ít gia đình cịn duy trì được. Hầu hết các ban thờ gia tiên, đặc biệt là các
ban thờ gia tiên tại thành phố khơng có thần chủ, khơng có long khảm đặt
thần chủ, khơng có bài vị Cao, Tằng, Tổ, Khảo. Một số ít gia đình, nhiều
hơn tại các vùng làng q cịn giữ được Thần chủ, một số gia đình khơng giữ
được thần chủ nhưng vẫn cịn Long khảm trên bàn thờ. Hiện nay, xu thế một
số nhà thờ họ dựng lại Long khảm đặt trên bàn thờ gia tộc dòng họ. Tuy
nhiên, ý nghĩa của Thần chủ, Long khảm khơng mấy ai tường tận. Vì vậy,
phương thức thờ “Ngũ đại mai thần chủ” khơng cịn được duy trì. Khơng có
Thần chủ, khơng có bài vị các bậc Cao, Tằng, Tổ, Khảo nên giờ đây người
ta khơng cịn khái niệm chỉ thờ cúng tổ tiên năm đời. Những gia đình nào
còn may mắn giữ lại được bài vị tổ tiên từ trước thì mãi mãi lưu giữ khơng
tính đến chuyện đời thứ 5 thì phải mai đi thay thế hệ mới vào đó nữa. Bài vị
tổ tiên được cọi như bảo vật cần được gìn giữ. Nếu ngày xưa đồ thờ dùng gỗ
táo thì nay người ta chuộng gỗ mít. Chúng tôi hỏi những người làm đồ thờ
tại làng Sơn Đồng, Hà Tây, một làng nổi tiếng với nghề làm đồ thờ và tượng
thờ thì được biết: “đồ thờ, tượng thờ làm bằng gỗ mít sẽ linh thiêng hơn”. Vì
sao linh thiêng thì khơng ai giải thích.
Tư tưởng bản vị, đầu óc hẹp hịi, cổ hủ của người nơng dân khi xưa có
xu hướng được hồi sinh mạnh mẽ hơn. Có những gia đình nghèo, kinh tế
15
khó khăn, nhưng sợ dư luận hàng xóm cho là bất hiếu nên đành vay mượn
để tuân theo các nghi thức thờ cúng tế cầu kỳ, rườm rà. Mặt khác, có thể
thấy rõ tính chất vụ lợi trong việc thờ cúng hiện nay. Người ta sẵn sàng mua
những đồ mã đắt tiền để dâng cho tổ tiên chỉ mong tổ tiên phù hộ, cho lại họ
nhiều như thế. Nhiều người thờ tổ tiên chẳng phải vì lịng biết ơn (khi cha
mẹ cịn sống thì đối xử tệ bạc, nhưng khi chết lại cúng mâm cao cỗ đầy) với
mục đích cầu sự phù trợ của người âm cho buôn may bán đắt,…
Việc chăm sóc mồ mả tổ tiên những năm gần đây được chú trọng
nhiều hơn trước: Hiện nay, tín ngưỡng thờ cúng ơng Tổ dịng họ cũng được
phục hồi. Tầm quan trọng của thờ cúng tổ tiên bên cạnh sự biểu hiện qua
không gian thờ cúng tổ tiên trong gia đình cịn thể hiện qua sự chú trọng xây
dựng hệ thống nhà thờ tổ, nhà thờ dịng tộc. Vì vậy, trong những năm gần
đây phong trào xây dựng nhà thờ họ trở nên phổ biến, quy mô hơn trước
nhất là ở các vùng nơng thơn, những gia đình, dịng họ lớn do đời sống con
người ngày càng nâng cao, nhiều dịng họ có người đỗ đạt, thành đạt đầu tư
tiền của, đóng góp cơng đức,… Ở nhiều làng q hầu hết dịng họ nào cũng
có nhà thờ họ được xây dựng khang trang. Tuy nhiên nhiều nơi nhà thờ họ
xây dựng lịe loẹt, phơ trương… Các nhà thờ họ thi nhau xây dựng, dòng họ
dựng sau cố gắng ganh đua xây to hơn, bề thế hơn họ trước. Ngoài ra, nhiều
dòng họ lưu giữ được gia phả (bằng chữ Hán, chữ quốc ngữ) ghi chép nguồn
gốc dịng họ, q trình di chuyển từ nơi này tới nơi khác, chức tước, cơng
trạng,…phát triển văn hố dịng họ. Ngày giỗ họ tổ chức linh đình, con cháu
từ nhiều nơi về tề tựu đông đủ, xây dựng mồ mả, khu nghĩa trang riêng cho
từng dòng họ
Sự chú trọng thờ cúng tổ tiên ngày nay còn được thể hiện ở sự chú
trọng phần mộ dịng tộc. Từ bao đời, phần mộ tổ tiên ln được con cháu coi
trọng và gìn giữ. Tục ngữ có câu “ giữ như giữ mả tổ”. Câu tục ngữ đã thể
16
hiện được tầm quan trọng của mồ mả tổ tiên đối với người sống. Nhà nhà
đua nhau xây phần mộ nhà mình cho thật to, thật đẹp. Mộ là ngơi nhà của
người mất. Việc con cháu xây dựng cho tổ tiên một ngôi nhà mới, nhà đẹp là
một nét đẹp văn hóa nhưng đua nhau xây mộ sao cho mộ nhà mình phải to,
phải đẹp hơn những nhà khác lại là vấn đề cần phải suy nghĩ. Chăm sóc
phần mộ tổ tiên là một nét văn hóa truyền thống của người Việt nhưng có lẽ
khơng nhất thiết phải đua nhau như vậy. Nhiều gia đình đã lâm vào tình
trạng kinh tế khó khăn, anh em bất đồng với những khoản đóng góp khơng
nhỏ cho việc xây dựng phần mộ, nhà thờ như vậy. Đúng như tác giả Phan
Kế Bính đã nói, chúng ta cần tìm một cách nào để tránh lãng phí và phiền hà
cho những người thân đang sống thì có lẽ cũng sẽ hợp ý tổ tiên hơn.
Ngồi ra, nghi thức tang lễ cúng giỗ sau một thời gian dài tiến hành
giản tiện (do chiến tranh hoặc do điều kiện kinh tế) hiện nay đang trở lại với
những hình thức cầu kỳ, phức tạp: mời nhà sư đến cầu kinh trong tang lễ; xu
hướng gửi linh hồn người chết lên chùa để nhà chùa thường xuyên hương
khói. Xu thế xây dựng nhà thờ tộc được phục hồi nhưng xu thế cá nhân hóa
thờ cúng tổ tiên cũng phát triển rất mạnh mẽ. Nếu trước đây, thờ cúng tổ tiên
được tập trung tại nhà dòng trưởng (trưởng tộc, trưởng họ, trưởng chi, con
trưởng) thì nay, mọi thành viên trong gia đình đều thờ cúng tổ tiên tại gia
đình mình. Nhiều gia đình vẫn cịn giữ được tục lệ cứ giỗ tết tập trung lại
vào nhà con trưởng để làm giỗ. Tuy nhiên, tại nhiều gia đình, ngày giỗ
khơng cịn là ngày con cháu tập trung như trước nữa. Hình thức cúng giỗ
mang tính cộng đồng chung các thành viên trong gia đình được chuyển
thành hình thức cúng giỗ cá thể. Mỗi thành viên trong gia đình làm lễ cúng
giỗ người đã mất tại nhà mình.
17
KẾT LUẬN
Thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, dù đó
khơng phải là điều bắt buộc song đó lại là thứ "luật bất thành vǎn" của người
Việt tồn tại qua bao thế hệ. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người
dân Việt. Với nội dung bình dị, giàu tính thực tiễn, khơng cực đoan như
nhiều tôn giáo khác nên tục thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là
chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tổ
chức cộng đồng trong xã hội truyền thống, củng cố khối đoàn kết cộng đồng.
Thờ cúng tổ tiên đã trở thành tín ngưỡng gốc xun suốt q trình lịch sử
Việt Nam, nó là sợi dây liên kết để góp phần cột chặt tính thống nhất tồn
dân tộc và cũng là cội nguồn của các phong tục, tín ngưỡng khác. Những giá
trị ấy góp phần bồi đắp lịng u nước thương nịi, đạo lý uống nước nhớ
nguồn, có trước có sau; xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời
đại mới. Khơng gì khác, chính từ những giá trị đó đã làm nên sức sống
trường tồn của dân tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn
năm dựng nước và giữ nước.
Hiện nay trong bối cảnh xã hội đang có nhưng biến đổi hết sức sâu
sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, hoạt động thờ cúng tổ tiên của người Việt
vẫn được duy trì và có biểu hiện khá phức tạp, một mặt ta thấy cái mới, cái
tích cực đang định hình, có xu hướng phủ nhận cái cũ, cái lạc hậu trên cơ
sở kế thừa những yếu tố tích cực của truyền thống. Mặt khác trong hoạt
động thờ cúng tổ tiên cũng có xu hướng tiếp tục phục hồi những hủ tục cũ và
duy trì các nghi thức truyền thống theo hướng mê tín, hay phơ trương, lãng
phí, thương mại hóa. Điều này cho thấy hoạt động thờ cúng tổ tiên đã và
đang phản ánh những biến đổi trong xã hội vì vậy để định hướng cho tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực cần
phải có những giải pháp thiết thực và thực hiện đồng bộ từ trong lí luận đến
18
thực tiễn. Trong thế giới của thời đại thông tin hiện nay, những quy luật giá
trị trong tục thờ cúng tổ tiên đã có những thay đổi nhất định, hoặc tích cực
hơn, hoặc xấu hơn. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta phải tỉnh táo để
nhận thức đúng vai trị và nhiệm vụ của mình trong việc gìn giữ và phát huy
tục thờ truyền thống này, sáng suốt để bổ sung cho những hạn chế do nhu
cầu của thời đại mang đến để những thế hệ Việt Nam mai sau ln sống
trong một khơng gian gia đình đầm ấm và hạnh phúc./.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Đình Bảy (2003), Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.42;
2. Nguyễn Thị Bích, Thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt hiện nay nhìn từ góc độ nhân sinh quan, toc.123docz.net,
/>ngày 24/03/2015;
3. Phan Kế Bính (1999), Việt Nam phong tục, Nxb Hà Nội, Hà Nội,
tr.23, tr.25, tr.26;
4. Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội, Hà Nội,
tr.181;
5. Nguyễn Thị Hiền, Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và những giá trị
của nó trong đời sống người Việt Nam hiện nay, 123doc.net,
/>
ngày
07/7/2015;
6. Nguyễn Thị Minh Ngọc, Biến đổi của tín ngưỡng thờ cúng tổ tuên
trong
xã
hội
Việt
Nam
đương
đại,
circlegroup.vn,
ngày 20/8/2017;
7. Trần Đăng Sinh, Nguồn gốc, bản chất tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
chungta.com, ngày 21/9/2013;
8. Hà Văn Tăng, Trương Thìn (1999), Tín ngưỡng và Mê tín, Nxb
Thanh Niên, Hà Nội, tr.150;
20