ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ HỒNG NHƢ
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2021
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ HỒNG NHƢ
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM VĂN LỢI
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ luật học “Hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phịng)” là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa từ các tác giả khác
đều được trích dẫn đầy đủ.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Hồng Nhƣ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .........................................................9
1.1.
Khái niệm, đặc điểm hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời dƣới
18 tuổi phạm tội.............................................................................................9
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội .........................................................9
1.1.2. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........12
1.1.3. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội ........................................................................................................17
1.2.
Cơ sở quy định hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm tội .......................................................................................................21
1.2.1. Cơ sở chính trí, xã hội ...................................................................................21
1.2.2. Cơ sở pháp lý và chuẩn mực quốc tế ............................................................23
1.2.3. Cơ sở đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi dưới 18 ................................................25
1.3.
Khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội đến
trƣớc khi ban hành BLHS năm 2015 ........................................................26
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp
điển hoá lần thứ nhất- BLHS năm 1985 .......................................................26
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi pháp điển
hoá lần thứ hai- BLHS năm 1999 .................................................................29
1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến trước pháp điển hoá
lần thứ ba- BLHS năm 2015 .........................................................................32
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................35
CHƢƠNG 2: HÌNH PHẠT TÙ CĨ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG.....36
2.1.
Hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong
BLHS năm 2015 ..........................................................................................36
2.2.
Thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời dƣới 18 tuổi
phạm tội trên địa bàn thành phố Hải Phịng giai đoạn 2016-2020 ..............40
2.2.1. Tình hình thụ lý, xét xử các vụ án người dưới 18 tuổi phạm tội ..................40
2.2.2. Kết quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội ........................................................................................................50
2.2.3. Hạn chế trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ....................................................................................52
2.2.4. Những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế trong áp dụng hình phạt tù có
thời hạn .........................................................................................................54
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................59
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ YÊU CẦU, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HỒN THIỆN
CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH PHẠT TÙ CĨ THỜI HẠN ĐỐI VỚI
NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ..................................... 60
3.1.
Một số yêu cầu hoàn thiện các quy định về hình phạt tù có thời
hạn đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 ...........60
3.2.
Hồn thiện các quy định về hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời
dƣới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 ..........................................64
3.3.
Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối
với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội ................................................................66
3.3.1. Đẩy mạnh công tác hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật hình sự
về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội .................66
3.3.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chun
mơn của đội ngũ cán bộ trong công tác giải quyết vụ án đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ....................................................................................68
3.3.3. Tiếp tục hồn thiện mơ hình Tịa án gia đình và người chưa thành niên
ở nước ta .......................................................................................................69
3.3.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................74
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ Luật hình sự
TAND
: Toà án nhân dân
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Bảng 2.1 Thống kê các vụ án hình sự được thụ lý, xét xử trên địa bàn
thành phố Hải Phòng giai đoạn 05 năm (2016-2020)
Trang
42
Bảng 2.2 Thống kê các vụ án hình sự do người dưới 18 tuổi thực hiện
được xét xử trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 05
năm (2016-2020)
43
Bảng 2.3 Thống kê các tội phạm do người dưới 18 tuổi phạm tội đã
thực hiện được giải quyết trên địa bàn thành phố Hải Phịng
giai đoạn 05 năm (2016-2020) áp dụng hình phạt
45
Bảng 2.4 Thống kê người dưới 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi trên địa
bàn thành phố Hải Phịng giai đoạn 05 năm (2016-2020)
Bảng 2.5. Cơ cấu hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 05 năm (2016-2020)
46
47
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những yếu tố có ý nghĩa quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của nước ta, đưa nước ta từ một nước nghèo trở thành
một nước đang phát triển, có thu nhập bình qn đầu người ở mức trên 3.000 USD,
có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh tác động tích cực
đối với Việt Nam, hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tiêu cực đến văn hóa,
xã hội. Việc mở rộng giao lưu văn hóa của các nước trên thế giới, du nhập các văn
hóa mới, hình thức giải trí mới nhưng chưa có sự quản lý phù hợp của các cơ quan
quản lý nhà nước, xã hội và gia đình nên có tác động tiêu cực đến tâm lý, quá trình
hình thành tính cách, đạo đức một số nhóm đối tượng, đặc biệt là đối với đối tượng
là thanh thiếu niên. Thanh thiếu niên là những người còn đang ngồi trong ghế nhà
trường, vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển, hoàn thiện thể chất cũng
như nhân cách sống. Do đó, đối tượng này là nhóm yếu thế cần được bảo vệ, nhóm
này rất dễ bị ảnh hưởng, lơi kéo từ những nhóm đối tượng xấu, dẫn đến hư hỏng, sa
ngã, chạy theo lối sống thực dụng, hưởng thụ, ích kỷ, có các hành vi cơn đồ và dần
có xu hướng phạm tội. Thực tế trong phạm vi cả nước hiện nay, có rất nhiều các vụ
án giết người dã man người xảy ra, mà chủ thể thực hiện hành vi phạm tội này là
người dưới 18 tuổi. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy chủ thể thực hiện tội
phạm hiện nay vừa có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi vừa có xu hướng thực hiện hành
vi phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn.
Có lẽ vì thế mà Bộ Luật Hình sự (BLHS) đã dành một chương riêng quy
định về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Chế định trách
nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những chế định có
vị trí quan trọng hàng đầu trong BLHS. Chế định này có ý nghĩa quan trọng trong
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm; bảo vệ trật tự pháp luật bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cơng dân, chống mọi phạm vi phạm tội, giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật. Chính sách pháp luật hình sự của nước ta trong việc truy
1
cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu là nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ nhận thức được hành vi sai trái cũng như rèn luyện, tu dưỡng bản
thân thành cơng dân có ích cho xã hội, góp phần vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ
tổ quốc nói chung, cơng cuộc đấu phịng, chống tội phạm nói riêng.
BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm
2015) đã có những quy định thể hiện rõ chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc
xử lý trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng phòng
ngừa, giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội là chính, đồng thời tiệm cận xu
hướng bảo vệ quyền con người, đặc biệt là nhóm yếu thế trong nền pháp lý hiện đại
trên thế giới. Với mục đích như vậy mà hình phạt tù có thời hạn được biết như là biện
pháp cuối cùng trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015.
Mặc dù đã có một số cơng trình nghiên cứu về hình phạt tù đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nhưng chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về hình phạt tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn áp dụng trên địa bàn
thành phố Hải Phòng. Việc nghiên cứu lý luận về hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và từ thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải
Phịng có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu đúng, toàn diện, áp dụng thống nhất
các quy định về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ
đó, góp phần chỉ ra những hạn chế, bất cập hoặc khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện, giải pháp đảm bảo áp dụng,
hồn thiện quy định về hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trong BLHS Việt Nam.
Do vậy, tôi lựa chọn và nghiên cứu về đề tài “Hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực
tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hình phạt tù có thời hạn nói chung và hình phạt tù có thời hạn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đã nhận được sự quan tâm của nhà
nghiên cứu, nhà khoa học, cụ thể như:
2
Dưới góc độ giáo trình: (1) “Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình
sự phần chung” - Giáo trình sau đại học của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Khoa LuậtĐại học Quốc gia Hà Nội, năm 2019; (2) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của
trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân... Các nội dung về trách
nhiệm hình sự đối với người 18 tuổi phạm tội nói chung và hình phạt tù có thời hạn
áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng đã được đề cập đến trong các
giáo trình này tuy nhiên mang tính học thuật, lý luận cao và chưa có thực tiễn áp
dụng. Ví dụ như trong giáo trình “Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình
sự phần chung”-Giáo trình sau đại học của GS.TSKH Lê Văn Cảm đã dành một
chương riêng: “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội” đề cấp đến những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, đặc biệt là nguyên tắc xử lý hình sự đối với người dưới 18
tuổi phạm tội và đánh giá các điểm mới của BLHS năm 2015 về vấn đề này.
Tuy nhiên, các giáo trình này mới chỉ đề cập chủ yếu đến nội dung cơ bản về
trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội, lý luận về nguyên tắc xử lý
trách nhiệm hình sự, các hình phạt và các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng
trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự hoặc các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội mà chưa đưa cụ thể các nội dung lý luận và thực tiễn
áp dụng các hình phạt nói chung và hình phạt tù có thời hạn nói riêng.
Dưới góc độ bình luận khoa học: (1) Đinh Văn Quế, “Bình luận Bộ luật
Hình sự năm 2015” phần thứ nhất những quy định chung, NXB Thông tin và
Truyền thông, năm 2018; (2) Trịnh Thị Yến, “Trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành”, Tạp chí
khoa học-Đại học Quốc gia Hà Nội số 35/2019 ngày 19/9/2019; (3) Lê Văn Cảm,
Đỗ Thị Phượng (2004), Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những
khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp
chí Tịa án nhân dân số 20-10/4/2004; (4) Đặng Thanh Sơn (2008), Pháp luật Việt
Nam về tư pháp người chưa thành niên, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20 (136)12/2008...Các bài viết và sách chuyên khảo này chỉ đề cập đến một khía cạnh, nội
3
dung, một số nội dung hoặc khái quát nhất về hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Những bài viết bình luận khoa học này mang tính học thuật,
lý luận cao nhưng lại chưa tập trung làm rõ các nội dung và đầy đủ, chi tiết các vấn
đề lý luận và thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội để có một cách nhìn tổng quan về nội dung này.
Dưới góc độ luận văn: (1) Trần Hồng Nhung (2017), “Các biện pháp giám
sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa luật-Đại học Quốc gia Hà Nội; (2) Trần Minh Phương
(2019), “Tính nhân đạo của các quy định về người dưới 18 tuổi phạm tội trong
Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (trên cơ sở thực tiến địa bàn thành
phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật-Đại học Quốc gia Hà Nội; (3)
Trương Minh Huế (2019), "Các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với người dưới 18
tuổi trong Luật Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiến tại địa bàn thành phố
Hải Phòng)”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật-Đại học Quốc gia Hà Nội; (4) Đỗ
Văn Hùng (2016), “Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên
phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở các số liệu thực tiễn của địa bàn
tỉnh Hà Giang)”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật-Đại học Quốc gia Hà Nội; (5)
Đỗ Ngọc Thùy (2011), “Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm
tội-Lý luận và thực tiễn áp dụng”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật-Đại học Quốc
gia Hà Nội; (6) Hồng Thị Thương (2017), “Hình phạt tù trong Luật hình sự Việt
Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật-Đại học Quốc gia, Hà Nội...
Tác giả Hoàng Thị Thương (2017), Hình phạt tù trong Luật hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật-Đại học Quốc gia, Hà Nội đã nghiên
cứu chế định hình phạt tù trong tổng thể các quy định về hình phạt trong BLHS năm
2015, vừa có tính lý luận vừa có thực tiễn trong việc hồn thiện chế định này và
hình phạt trong pháp luật hình sự. Luận văn đã giải quyết được nhiều vấn đề quan
trọng về lý luận liên quan đến hình phạt như các quan điểm, các khái niệm về hình
phạt, quy định pháp luật thực định về hình phạt tù và thực tiễn áp dụng các quy định
về hình phạt tù. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn cũng đã đề
xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng.
4
Tác giả Đỗ Ngọc Thùy (2011), “Hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa
thành niên phạm tội-Lý luận và thực tiễn áp dụng”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa
luật-Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu hình phạt tù có thời hạn đối với người
chưa thành niên trong BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Tác giả nghiên
cứu khái niệm, đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên phạm tội, nguyên tắc
xử lý hình sự đối với người chưa thành niên trong pháp luật hình sự Việt Nam, so
sánh với các quy định quốc tế về tư pháp người chưa thành niên, quy định áp dụng
hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn áp dụng. Từ đó, tác
giả cũng đã đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật về các quy phạm trong pháp
luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu ở nhiều cấp
độ và bình diện khác nhau tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun sâu
về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm
2015 và từ kinh nghiệm thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phịng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng rõ một số vấn đề về lý luận, những nội
dung cơ bản về hình phạt tù có thời đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy
định của BLHS năm 2015. Từ lý luận và thực tiễn áp dụng chỉ ra những hạn chế,
bất cập của các quy định pháp luật hình sự về hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, từ đó đề xuất, kiến nghị hồn thiện quy định của pháp luật
hình sự về hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả triển khai quy định này trong thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã nêu trên, tác giả đã đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến khái niệm người
dưới 18 tuổi phạm tội, đặc điểm hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội. Các cơ sở của việc quy định hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS.
5
Thứ hai, nghiên cứu các khái quát lịch sử quy định hình phạt tù có thời hạn từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi BLHS năm 2015 được ban hành.
Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng quy định về hình phạt tù có
thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ số liệu thực tế (giai đoạn 05 năm, từ
năm 2016 đến năm 2020) trên địa bàn thành phố Hải Phòng và thực tiễn áp dụng tại
Hải Phòng.
Thứ tư, nghiên cứu, đề xuất hồn thiện các quy định về hình phạt tù có thời
hạn nói chung, về hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội nói riêng trong BLHS năm 2015. Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả triển khai các quy định này trên thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về hình phạt tù có thời hạn đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015, thực tiễn áp dụng hình phạt tù
có thời hạn trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn 2016-2020.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thơng qua thực
tiễn xét xử của Tịa án nhân dân (TAND) các cấp (giai đoạn 05 năm, từ năm 2016 đến
năm 2020) trên địa bàn thành phố Hải Phòng gồm: TAND thành phố và TAND cấp
huyện (15 quận, huyện).
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
về chính sách pháp luật hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp: Luận văn tiến hành liệt kê và chọn
lọc các dữ liệu, kết quả thông qua các báo cáo tổng kết của TAND các cấp hoặc báo
6
cáo hàng năm, cơng trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài như các luận văn,
các tài liệu tham khảo chuyên ngành, các bài báo đăng trên tạp chí chuyên ngành
luật về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói chung và hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng.
- Phương pháp tổng hợp và phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu tại
Chương 1 nhằm tổng hợp, nghiên cứu từ các tài liệu liên quan đến vấn đề lý luận về
trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi và hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu kết hợp với phương pháp phân tích quy
phạm pháp luật nhằm so sánh quy định hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015.
- Phương pháp thu thập số liệu và đánh giá số liệu thu thập được từ thực tiễn
áp dụng quy định về hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
thành phố Hải Phòng (giai đoạn 05 năm, từ năm 2016 đến năm 2020). Từ đó, chỉ rõ
các hạn chế, bất cập hoặc khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định
về hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đưa ra một số kiến nghị để
hồn thiện quy định của pháp luật hình sự, biện pháp đảm bảo việc thi hành.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là cơng trình nghiên cứu khóa học vừa mang tính lý luận vừa mang tính
thực tiễn, nghiên cứu chuyên sâu về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 thông qua thực tiễn xét xử của TAND các cấp
trên địa bàn thành phố Hải Phịng. Đồng thời, góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý
luận về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể được các TAND các cấp tham khảo để áp dụng đúng
hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong quá trình xét xử,
quyết định hình phạt, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh, phịng, chống tội
phạm nói chung, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Đồng thời, có các biện
7
pháp đảm bảo áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
đúng người, đúng tội và đúng mục đích xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục tài liệu
tham khảo và Phụ lục, Bảng biểu, nội dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội.
Chương 2: Hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
BLHS Việt Nam năm 2015 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Một số yêu cầu, giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định về
hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015
và nâng cao hiệu quả áp dụng.
8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI NGƢỜI DƢỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
Vấn đề hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một
nội dung đặc biệt của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên
cả phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, do đối tượng áp
dụng hình phạt tù có thời hạn là người dưới 18 tuổi-một trong các nhóm yếu thế
được pháp luật đặc biệt bảo vệ. Do đó, khi nghiên cứu để đánh giá kết quả thực hiện
và kiến nghị hồn thiện chính sách pháp luật hình sự nói chung và các quy định của
pháp luật hình sự nói riêng về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thì cần phải làm rõ về mặt lý luận những tính chất, đặc thù của nội dung
này. Từ lý do đó, Chương này tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung bao gồm: khái niệm, đặc điểm hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội; cơ sở của việc quy định hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và khái quát lịch sử quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đến trước
khi ban hành BLHS năm 2015.
1.1. Khái niệm, đặc điểm hình phạt tù có thời hạn đối với ngƣời dƣới 18
tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Dù ở bất kỳ quốc gia nào, bất kỳ châu lục nào, bất cứ thể chế chính trị nào
thì vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội đều là một hiện trạng đáng lo ngại của toàn
xã hội, một vấn đề phức tạp cần được giải quyết của cả thế giới. Tuy nhiên, thế
nào là người dưới 18 tuổi phạm tội lại được tiếp cận ở những khía cạnh khác nhau
ở mỗi một quốc gia, mỗi một khu vực tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình kinh tế-xã
hội, phong tục, tập qn, văn hóa, trình độ dân trí và thể chế chính trị. Do đó,
trước khi đi làm rõ khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả làm rõ khái
niệm người dưới 18 tuổi.
9
Dưới khía cạnh pháp luật quốc tế, có nhiều thuật ngữ khác nhau dùng để gọi
người dưới 18 tuổi như người chưa thành niên, trẻ em, trẻ vị thành niên, thanh thiếu
niên. Đa số các quốc gia trên thế giới đều quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật
về độ tuổi cụ thể là người chưa thành niên, từ đó xác định năng lực hành vi của đối
tượng này. Cụ thể:
Tại Điều 1 Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (có hiệu lực từ năm 1990)
của Liên hợp quốc quy định như sau: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có
nghĩa là người dưới 18 tuổi, trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó quy
định tuổi thành niên sớm hơn” [20].
Tại quy tắc số 2.2 mục a Quy tắc tối thiểu chung của Liên hợp quốc về việc
áp dụng pháp luật với người chưa thành niên 1985 (Quy tắc Bắc Kinh) nêu: “Người
chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật cụ thể
bị xét xử vi phạm theo phương thức khác với việc xét xử người lớn” [19].
Tại quy tắc số 11 mục a Quy tắc tối thiểu chung của Liên hợp quốc về bảo vệ
người chưa thành niên bị tước tự do 1990 nêu: “Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi thấp hơn mức này thì khơng được tước tự do của trẻ em
nếu không được pháp luật quy định” [21].
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), độ tuổi vị thành niên là lứa tuổi từ 10
đến 19 tuổi, thanh niên trẻ là lứa tuổi từ 19 đến 24 tuổi.
Như vậy, khi đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi, luật pháp quốc tế đều dựa
trên cơ sở đặc điểm tâm sinh lý hay sự phát triển về thể chất và tinh thần thông qua
việc xác định độ tuổi. Tuổi được xác định bằng số năm dương lịch tính từ khi sinh ra
đến một thời điểm nào đó. Việc xác định độ tuổi mà một người có đủ khả năng nhận
thức đầy đủ, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự từ đó phải gánh chịu hậu quả pháp lý
từ hành vi mà mình thực hiện. Trên cơ sở đó, người dưới 18 tuổi được xác định là
người tính từ ngày sinh ra đến thời điểm cần tính là chưa đủ 18 năm dương lịch.
Trong pháp luật Việt Nam, Luật Trẻ em năm 2016 cũng đã ghi nhận “trẻ em
là người dưới 16 tuổi” [32, Điều 1]. Trong quy định của pháp luật hình sự, kế thừa
từ các quy định của luật pháp quốc tế và trong lịch sử lập pháp, thuật ngữ “người
10
dưới 18 tuổi phạm tội” là thuật ngữ được xác định từ hai thuật ngữ phạm tội và tuổi
chịu trách nhiệm hình sự trong quy định của pháp luật hình sự. Với mỗi quốc gia thì
việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là khác nhau.
Trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009
thì khơng sử dụng cụm từ “người dưới 18 tuổi phạm tội” mà sử dụng cụm từ “người
chưa thành niên phạm tội” [28], [29] để chỉ đối tượng nêu trên. GS.TSKH. Lê Cảm
và TS. Đỗ Thị Phượng đã đưa ra khái niệm người chưa thành niên phạm tội tương
đối đầy đủ, khái niệm như sau: “Người chưa thành viên phạm tội là người từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi
các đặc điểm về tâm sinh lý và có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) trong việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [5, tr.9]. Hai tác giả đã đưa ra khái niệm
người chưa thành niên phạm tội nêu trên là từ cơ sở đặc điểm về tâm, sinh lý của họ
tại thời điểm phạm tội, để xác định tính chất phạm tội với hành vi phạm tội của
người chưa thành niên sao cho xác định việc áp dụng hình phạt cho phù hợp.
Trong BLHS năm 2015, “người dưới 18 tuổi phạm tội” được các nhà làm
luật sử dụng với tư cách vừa là đối tượng tác động của tội phạm, vừa là chủ thể thực
hiện tội phạm. Với tư cách là chủ thể của tội phạm, người dưới 18 tuổi phạm tội là
khái niệm có tính pháp lý cao đồng thời có ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, thể hiện
tính nhân đạo trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, người dưới 18 tuổi phạm tội
nhưng chỉ những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm
hình sự về những hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện. Theo đó, xác
định rất rõ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự: (1) đối với người dưới 14 tuổi khơng
phải chịu trách nhiệm hình sự; (2) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng; (3) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm [31].
Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh
lý, đang trong quá trình hồn thiện bản thân. Do đó, người dưới 18 tuổi thường hành
11
động theo cảm tính một cách bồng bột, thiếu kinh nghiệm sống, thiếu hiểu biết hoặc
chưa hiểu chính xác về pháp luật. Con người là một thực thể xã hội phức tạp, mâu
thuẫn, luôn chịu sự tác động của các yếu tố về môi trường, giáo dục và môi trường
xã hội đã góp phần khơng nhỏ vào q trình hình thành nhân cách con người [47,
tr.53]. Môi trường sống lại có ảnh hưởng rất lớn đến q trình hình thành nhân cách
cũng như tác động đến hành vi của họ. Họ cũng rất dễ học hỏi, làm theo cách hành
động đẹp, chuẩn mực, hình thành nhân cách tốt, phát triển toàn diện về thể chất
cũng như tinh thần, trở thành cơng dân tốt có ích cho xã hội nếu được sống trong
mơi trường giáo dục tốt từ gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội. Ngược lại, họ
cũng dễ tiếp thu thói hư, tật xấu, dễ bị tha hóa về nhân cách, tâm lý vặn vẹo và dễ
xúc động, dễ bị lôi kéo tham gia vào các hành vi vi phạm pháp luật hoặc thậm chí
cả những hành vi giết người man dợ… nếu sống trong một môi trường giáo dục
khơng lành mạnh.
Chính vì vậy, khi đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội, cần phải
dựa trên sự phát triển về thể chất cũng như tinh thần của con người, được cụ thể hóa
bằng giới hạn tuổi trong các văn bản pháp luật. Từ đó, quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ tương ứng, phù hợp với người dưới 18 tuổi.
Theo các lập luận nêu trên thì có thể đưa ra khái niệm người dưới 18 tuổi phạm
tội như sau: Người dưới 18 tuổi phạm tội là người có năng lực trách nhiệm hình sự và
tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ Luật Hình sự quy định là
tội phạm từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
1.1.2. Khái niệm hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
“Hình phạt là một phạm trù pháp lý và xã hội phức tạp, mang tính khách
quan, gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và phát luật” [40, tr. 11]. Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Hình phạt vừa là nội dung vừa là phương
tiện của chính sách pháp luật hình sự của nhà nước, bảo đảm cho BLHS có thể thực
hiện được nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự xã hội, chống mọi hành vi
phạm tội đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tn theo pháp luật, đấu tranh
phịng ngừa và chống tội phạm [39]. Tính nghiêm khắc nhất của hình phạt được thể
12
hiện ở chỗ, ngoài việc bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích, bị áp dụng hình phạt
thì người thực hiện tội phạm cịn chịu án ích-đây là hậu quả mà các dạng trách
nhiệm pháp lý khác khơng có. Ngồi ra, chỉ có chế tài hình sự mới buộc một người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị bắt giam, bị tước quyền tự do, bị cải tạo
trong trại giam, thậm trí bị tước cả quyền sống nếu họ bị kết án tử hình. Hình phạt
là của Nhà nước, do Nhà nước thực hiện (thơng qua Tồ án) và chỉ được quy định
duy nhất trong BLHS, buộc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Trong các loại hình phạt, hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt có lịch sử
lâu đời và được quy định hầu hết trong hệ thống pháp luật hình sự của các nước trên
thế giới khơng phân biệt giàu nghèo, chính trị…Đây là hình phạt được áp dụng phổ
biến và mang hiệu quả cao trong việc trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Đây
cũng là hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm hình phạt tù có thời hạn như sau: “Tù
có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ
trong thời gian nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối
thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm” [31, Điều 38, Khoản 1].
Tù có thời hạn là cách ly người phạm tội bị kết án ra khỏi xã hội và nơi cách
ly là các trại giam (nhà tù) nhằm giáo dục, cải tạo họ. Chế độ giam trong trại giam,
hình thức giáo dục và cải tạo ở đó do pháp luật về chấp hành án quy định. Sự hạn
chế tự do của người bị kết án tù có thời hạn là bản chất pháp lý chủ yếu của hình
phạt này. Hình phạt tù có thời hạn có ý nghĩa to lớn trong việc cho phép cách ly
những người phạm tội có mức độ nguy hiểm cao đối với xã hội, ngăn cản họ tiếp
tục thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hình phạt tù có thời hạn vừa đáp
ứng yêu cầu đảm bảo được giáo dục và phòng ngừa riêng lại vừa đảm bảo được
giáo dục và phòng ngừa chung.
Trong thời gian chấp hành hình phạt tù có thời hạn, người bị kết án phải
chấp hành đầy đủ nội quy, quy chế của trại giam đồng thời cũng được đảm bảo
một số quyền cơ bản của công dân như quyền được học văn hóa và học nghề,
13
tham gia lao động do trại giam tổ chức và được tạo điều kiện hình thành và phát
triển ý thức tuân thủ pháp luật.
Thời hạn tù tối thiểu là 03 tháng và thời gian từ tối đa là 20 năm. Tuy
nhiên, đây là thời hạn chung, tương ứng với hình phạt cụ thể của từng tội phạm
cụ thể tại phần các tội phạm của BLHS thì sẽ có quy định cụ thể hình phạt tù có
thời hạn tương ứng với từng tội danh và Tòa án sẽ quyết định mức hình phạt tù
có thời hạn cụ thể.
Từ những ngày đầu sau khi tuyên bố độc lập, những văn bản đầu tiên của
nhà nước ta, hoặc là khơng nói rõ thời hạn tù, việc xác định thời hạn đó được giao
cho Tịa án hoặc mức thấp nhất của hình phạt tù được tính bằng ngày, bằng tháng
chứ khơng phải là 03 tháng như quy định của BLHS hiện hành. Cụ thể như: Sắc
lệnh số 06 ngày 05/9/1945 quy định: “Cấm nhân dân Việt Nam đăng lính, bán thực
phẩm, dẫn đường, làm tay sai cho quân đội Pháp. Kẻ nào trái lệnh đố sẽ bị Tòa án
quân sự nghiêm trị”. Sắc lệnh số 68 ngày 30/11/1945 ấn định thể lệ trưng thu và
trung tập tài sản đã quy định thờ hạn tù từ 06 ngày đến 03 tháng [10]. Sắc lệnh số
157 ngày 16/8/1946 bắt buộc các thứ thuốc theo cách bào chế thái tay đều phải dán
nhãn hiệu đã quy định thời hạn từ từ 03 ngày đến 10 ngày [11].
Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử, giáo dục cải tạo người phạm tội đã cho thấy
việc sử dụng hình phạt tù có thời hạn quá ngắn (tù có thời hạn 3-7 ngày) khơng có
hiệu quả, khơng phù hợp với mục đích của hình phạt. Do đó, những hình phạt tù có
thời hạn đó được thay thế bằng các biện pháp hành chính hoặc giáo dục tại chỗ. Bắt
đầu từ những năm 1950 trở lại đây, các văn bản pháp luật hình sự nước ta đã thống
nhất quy định tù có thời hạn tối thiểu là 03 tháng. Còn thời hạn tù tối đa là 20 năm
lần đầu tiên được ghi nhận tại Sắc lệnh 223 ngày 17/11/1946 trừng trị các tội về hối
lộ. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 đã nêu rõ hình phạt
chính và hình phạt phụ có thể áp dụng.
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc vì người bị kết án bị tước
quyền tự do, bị cách ly khỏi xã hội, phải lao động cải tạo trong trại giam dưới sự
giám sát, quản lý của lực lượng cảnh sát. Chế độ cải tạo cũng như việc chấm hành
14
hình phạt tù có thời hạn thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Hình
phạt tù có thời hạn trong BLHS Việt Nam tuy là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhưng khơng mang tính chất, mục đích trả thù, hành hạ mà nhằm giáo dục, cải tạo
họ thành cơng dân có ích cho xã hội. Và trong quá trình chấp hành hình phạt nếu
người bị kết án chấp hành tốt, cải tạo tốt thì được xem xét giảm mức hình phạt.
Điều này đã thể hiện tính nhân đạo của chính sách pháp luật hình sự và sự khoan
hồng của nhà nước đối với người phạm tội.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về hình phạt tù có
thời hạn một cách chung nhất là: Tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế nhà nước
nghiêm khắc quy định trong BLHS và do Toà án quyết định áp dụng, buộc người
bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời gian nhất định
nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội, đảm bảo công lý, công bằng xã hội. Tù có
thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng và mức tối đa là
hai mươi năm.
Người dưới 18 tuổi phạm tội là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm
sinh lý, chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
mình thực hiện. Nhận thức của người dưới 18 tuổi cịn nhiều thiếu sót, thiếu tính
chín chắn và dễ bị xúc động, hành động cảm tính nên dễ bị lơi kéo bởi mơi trường,
hồn cảnh xung quanh. Do đó, nếu khơng được giáo dục, chăm nom từ gia đình,
nhà trường và tồn xã hội thì người dưới 18 tuổi phạm tội dễ bị dụ dỗ, bị ảnh hưởng
của những thói hư, tật xấu. Từ những đặc điểm về thể chất cũng như tinh thần của
người dưới 18 tuổi nêu trên, người dưới 18 tuổi là đối tượng các đối tượng xấu
hướng đến, dụ dỗ thực hiện các hành vi phạm tội nếu như sống trong mơi trường
khơng lành mạnh, khơng được gia đình, nhà trường, xã hội quan tâm, giáo dục. Tuy
nhiên, cũng vì lý do người dưới 18 tuổi chưa hoàn thiện về thể chất cũng như tinh
thần nên người dưới 18 tuổi cũng dễ giáo dục, cải tạo so với người từ đủ 18 tuổi
phạm tội, đạt hiệu quả, mục đích của hành phạt cao hơn.
Theo quy định của BLHS năm 2015 thì hình phạt tù có thời hạn là hình phạt
nghiêm khắc nhất áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và có quy định:
15
Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng có
tác dụng răn đe, phịng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tịa án cho
người dưới 18 tuổi được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với
người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp
ngắn nhất [31, Điều 91, Khoản 6].
Như đã phân tích thì tù có thời hạn là loại hình phạt tước tự do của người bị
kết án, buộc họ phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một khoảng thời gian
nhất định, cách ly họ khỏi gia đình, xã hội. Hình phạt tù có thời hạn có thể được áp
dụng cho người phạm tội từ ít nghiêm trọng đến đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên,
xuất phát từ nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giúp đỡ người dưới 18
tuổi phạm tội nhận thức được hành vi phạm tội của mình là hành vi nguy hiểm cho
xã hội, nhằm giáo dục họ sửa chữa sai lầm, cải tạo họ thành công dân có ích cho xã
hội. Đồng thời, cần hạn chế hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Do đó, BLHS năm 2015 quy định mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định sau đây:
- Đối với người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi khi phạm tội: Nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt chung thân hoặc tử hình thì mức phạt cao
nhất được áp dụng không quá 18 năm tù. Nếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng cao nhất không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều
luật quy định [31, Điều 101, Khoản 1].
- Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội: Nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng khơng quá 12 năm tù. Nếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt cao nhất được áp dụng khơng q một phần hai mức phạt tù mà điều luật
quy định [31, Điều 101, Khoản 2].
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù có thời
hạn như sau: Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất quy định trong BLHS và do
16
Toà án quyết định áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện
tội phạm. Người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời
gian nhất định nhằm giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội, đảm bảo cơng
lý, cơng bằng xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Nằm trong hệ thống hình phạt nói chung, các hình phạt áp dụng cho người
dưới 18 tuổi phạm tội cũng có mục đích phịng ngừa riêng là nhằm trừng trị, lên án
người dưới 18 tuổi phạm tội và giáo dục họ thành người có ích cho xã hội, ngăn
ngừa họ tái phạm, phạm tội mới, đồng thời giáo dục người chưa thành niên khác tôn
trọng pháp luật và đấu tranh phịng, chống tội phạm. Hình phạt phải hướng tới
khơng chỉ mục đích trừng trị mà quan trọng hơn là mục đích giáo dục người phạm
tội để họ trở thành người lương thiện, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng
góp phần phịng ngừa tội phạm [8, tr.40].
Để đảm bảo việc lựa chọn một loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp với
tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cũng như nhân thân người dưới 18 tuổi
phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc biệt là u cầu
phịng ngừa tội phạm, BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể các hình phạt áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội gồm: Cảnh cáo, Phạt tiền, cải tạo không giam
giữ và tù có thời hạn; từ hình phạt nhẹ nhất là cảnh cáo đến hình phạt nặng nhất là
tù có thời hạn [31, Điều 98].
Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, trước hết với tư cách là hình phạt nên có cả những đặc
điểm chung của hình phạt và cũng có đặc điểm riêng của nó.
Thứ nhất, hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
“biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước” [31, Điều 30]. Trong công
cuộc đấu tranh và phòng, chống tội phạm, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà nước, xã hội và công dân, nhà nước đã quy định và đồng thời sử dụng nhiều
biện pháp cưỡng chế khác nhau như biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục,
17