BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN LÊ MINH
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA TRẦN QUỐC TUẤN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI - 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
NGUYỄN LÊ MINH
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA TRẦN QUỐC TUẤN
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Chính trị học
Chuyên ngành: Chính trị phát triển
Mã số: 7310201
Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Dƣơng Thị Thục Anh
HÀ NỘI - 2018
1
MỞ ĐẦU
1.
Lý do lựa chọn đề tài
Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại, một
nhà tư tưởng lớn, đồng thời là nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự kiệt xuất của dân
tộc ta. Cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của ông để lại rất nhiều ý nghĩa trong
lịch sử tư tưởng Việt Nam. Hầu hết các tư tưởng của Trần Quốc Tuấn được thể
hiện qua các tác phẩm đặc sắc của mình, điển hình là các tác phẩm: Hịch tướng
sĩ, Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tơng bí truyền thư và Lâm chung di chúc.
Tư tưởng của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn hình thành và phát triển
trên cơ sở nghiên cứu, kế thừa và tổng kết các tư tưởng của cha ông trong lịch
sử, cùng với những tri thức và kinh nghiệm của bản thân. Nội dung chính trong
tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn bao gồm tư tưởng về lòng yêu nước và
tinh thần dân tộc, tư tưởng về dân như “thân dân”, “trọng dân”, “khoan thư sức
dân”, đặc biệt là tư tưởng về nghệ thuật quân sự bao gồm tư tưởng về đánh giặc
giữ nước dựa vào lịng dân, tư tưởng về xây dựng qn đội ln coi trọng về
chất lượng, tinh nhuệ và đoàn kết như cha con, tư tưởng về nghệ thuật quân sự
dựa trên nền tảng chiến tranh nhân dân, các binh pháp “dĩ đoản chế trường”,
“chúng chí thành thành”, “lấy ít mà thắng nhiều, lấy yếu mà thắng mạnh, lấy
nhỏ mà thắng lớn”. Ông là vị tướng đứng đầu binh sỹ dưới triều Trần, trực tiếp
chỉ huy ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược, ông được
cử là “Quốc công tiết chế”, tức là Tổng chỉ huy quân đội thời Trần ngay sau
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược lần thứ 2. Mặc dù giữ
chức vụ quan trọng trong triều, nhưng Trần Quốc Tuấn là vị tướng ln biết hy
sinh lợi ích của bản thân, gia đình, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết.
Ơng ln ý thức đồn kết, thống nhất trong gia tộc, trong triều đình và trong
quân dân Đại Việt, ý thức giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn
lãnh thổ để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trước những âm mưu xâm lăng của
kẻ thù. Có thể nói, những tư tưởng của Trần Quốc Tuấn đã để lại rất nhiều ý
nghĩa và bài học trong lịch sử dân tộc ta bởi tính đặc sắc, đúng đắn, sáng tạo và
2
vượt thời đại. Chính điều đó đã làm nên tên tuổi của ơng như một nhà tư tưởng
chính trị - nhà quân sự lỗi lạc của dân tộc Việt Nam.
Những tư tưởng của Trần Quốc Tuấn có nhiều ý nghĩa lịch sử sâu sắc
không những đối với thời kỳ nhà Trần, mà còn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay. Việc vận dụng những tư tưởng chính trị tiến bộ của Trần Quốc Tuấn
cũng như kế thừa những giá trị tư tưởng chính trị của ơng cha là điều vô cùng
cần thiết trong bối cảnh Việt Nam đang trên đà xây dựng xã hội chủ nghĩa với
rất nhiều thời cơ và thách thức. Hiểu thế nào cho đúng và vận dụng sao cho có
hiệu quả những giá trị tư tưởng đó sẽ góp phần làm cho sự nghiệp cách mạng
của chúng ta thắng lợi và bền vững. Đây cũng là lý do em chọn đề tài “Tư tưởng
chính trị của Trần Quốc Tuấn” để làm đề tài nghiên cứu của mình. Trong q
trình nghiên cứu cịn có những hạn chế nhất định về nhận thức, do đó khó tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong Qúy Thầy Cơ lượng thứ, em xin chân thành
cảm ơn!
2.
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trần Quốc Tuấn là một trong những nhà chính trị - quân sự thiên tài, kiệt
xuất của dân tộc Việt Nam, vì vậy tư tưởng chính trị của ông có nhiều giá trị
khoa học và thực tiễn rất to lớn. Đã có rất nhiều cơng trình khoa học, các đề tài
nghiên cứu, các bài viết về tư tưởng chính trị của ơng trên những góc độ tiếp cận
khác nhau, và mỗi tác giả đều có những đánh giá, nhận định, đồng thời rút ra
những bài học lịch sử khác nhau theo cách tiếp cận của mình. Chẳng hạn như:
Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, Viện Sử học, Nxb Khoa học
xã hội, 1980. Tác phẩm đã tập trung trình bày và phân tích khái qt quá trình
suy vong của nhà Lý, sự chuyển biến tình hình kinh tế, chính trị - văn hóa xã hội
của nước Đại Việt thế kỷ thứ XIII và công cuộc xây dựng, củng cố chính quyền
của vương triều Trần. Cuốn sách cũng tìm hiểu khá sâu sắc về những chính sách
kinh tế - chính trị - xã hội của nhà Trần và sự thay đổi trong đời sống của người
dân nước Đại Việt thế kỷ XIII, đồng thời cũng tìm hiểu rõ về bộ máy tổ chức
của nhà Trần, đặc biệt là vấn đề xây dựng chính quyền và nhà nước phong kiến,
luận giải nhu cầu xây dựng củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
3
thời Trần như là một tất yếu lịch sử. Những đặc điểm của thời kỳ này có sự ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển tư tưởng của Trần Quốc Tuấn.
Cuốn sách cũng trình bày hết sức khái quát những hoạt động và vai trò chủ yếu
của Trần Quốc Tuấn trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm
lược. Thắng lợi to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên ở thế kỷ
XIII đã chứng minh chân lý: khi một nước nhỏ, dân không đơng nhưng đồn kết,
quyết tâm cầm vũ khí và mưu trí đánh giặc thì có thể đánh bại những kẻ thù
mạnh và hung hãn nhất. Những cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân ta thời
Lý - Trần đã góp phần xây đắp truyền thống quân sự Việt Nam, truyền thống
yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường, thà hy sinh tất cả chứ không chịu để
mất nước, không chịu làm nô lệ cho ngoại bang của dân tộc Việt Nam.
Trần Hưng Đạo - Nhà quân sự thiên tài, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002 gồm có 5 chương, 448 trang. Cuốn sách đi sâu tìm hiểu những phẩm
chất và tài năng của Trần Quốc Tuấn như một bậc danh nhân tài đức vẹn toàn,
bao gồm Nhân tướng, Nghĩa tướng, Tri tướng, Dũng tướng và Tín tướng. Là
Nhân tướng, ơng hết lịng thương u qn dân, chỉ cho họ một con đường sống.
Là Nghĩa tướng ông luôn coi việc phải hơn điều lợi. Là Tri tướng, ông biết lẽ
đời sẽ dẫn tới đâu. Là Dũng tướng, ông sẵn sàng xông pha vào chiến trận để
đánh giặc bất chấp mọi hiểm nguy. Là Tín tướng, ơng bày tỏ trước qn lính
biết theo ơng sẽ được gì, trái lời ông sẽ mất gì. Bởi vậy, ba lần kháng chiến
chống quân Nguyên - Mông, ông đều lập được công lớn, được vua tin dùng, gia
phong Thượng Quốc Công. Cuốn sách cũng làm rõ vai trò nổi bật của Trần
Quốc Tuấn với sự tồn vong của triều đại nhà Trần và với vận mệnh của đất nước
Đại Việt. Với tài năng chính trị và qn sự kiệt xuất, với tấm lịng tận trung với
nước, Trần Quốc Tuấn cùng với quân dân và triều đình nhà Trần bảo vệ vững
chắc độc lập, đưa nước Đại Việt đạt đến đỉnh cao của nền thịnh trị thời phong
kiến và có uy tín lớn trong vùng. Công lao to lớn này đã đưa Trần Quốc Tuấn
lên hàng một thiên tài kiệt xuất, một anh hùng dân tộc vĩ đại.
Tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2008, gồm 475 trang. Cuốn sách là một cơng trình nghiên cứu khoa học của
4
khoa Triết học, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, do PGS.TS Trương Văn Chung và PGS.TS. Dỗn
Chính đồng chủ biên. Cuốn sách thể hiện rõ Thời Lý - Trần là thời kỳ nhà nước
phong kiến củng cố và phát triển chế độ trung ương tập quyền, nhiều cải cách về
chính trị, kinh tế, quân sự được áp dụng đã đem lại những thành quả rực rỡ về
nhiều mặt. Và quan trọng hơn cả là tăng cường sức mạnh quân sự với 3 lần
chiến thắng giặc Nguyên - Mông, đội quân xâm lược hùng hậu phương Bắc, giữ
vững bờ cõi, khẳng định chắc chắn chủ quyền của dân tộc. Trong đó, nội dung
cuốn sách cũng đề cập đến vai trò và những tư tưởng chủ yếu của Trần Quốc
Tuấn như: Tư tưởng yêu nước, tư tưởng chính trị, tư tưởng quân sự, nghệ thuật
quân sự từ góc độ những hoạt động lý luận và thực tiễn của ông, từ đó nhóm tác
giả đã đưa ra nhiều nhận định, đánh giá mang tính chất tổng quát về sự vận dụng
tài tình các tư tưởng qn sự của ơng trong việc đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Cuốn sách cũng làm rõ những cơng lao, đóng góp to lớn của Trần Quốc Tuấn
đối với sự nghiệp chính trị của nhà Trần và nước Đại Việt thế kỷ XIII, những tư
tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn đã làm nên một giai thoại lịch sử hào hùng,
sáng chói trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Bộ Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Văn hóa – Thơng tin, 2009, gồm 1060
trang. Đây là bộ sử ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh
Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.
Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu,
niên hiệu Chính Hịa năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1675. Bộ sử
được biên soạn dựa trên hai quyển: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Phan Phu
Tiên cùng với Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền
lại rồi khảo đính mà chép thành. Bộ sách gồm hai tập, ghi chép lại lịch sử từ thời
Hồng Bàng (năm 2879 - 258 TCN) đến thời vua Gia Tôn nhà Lê (năm 1675). Ở
từng giai đoạn được các tác giả đề cập cụ thể, rõ ràng các sự kiện về: bạo lực và
biến động, chính trị - hành chính, chế độ quan chức, chế độ giáo dục, cương vực,
công nghiệp - thủ công nghiệp, giao thơng - thủy lợi, các cơng trình kiến trúc,
sinh hoạt xã hội (tập tục, trang phục, lễ hội, mê tín...). Đây là bộ chính sử Việt
5
Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong
Sử quán triều Hậu Lê biên soạn. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư do Nhà xuất bản
Văn hóa – Thơng tin xuất bản năm 2009 là lần tái bản trọn bộ thứ 4, đây là một
bộ sử lớn của dân tộc Việt Nam, có giá trị về nhiều mặt, đặc biệt là giá trị về mặt
lịch sử, văn hóa nói chung và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói riêng. Bộ sách gồm
24 quyển, trong đó ở tập 1, quyển thứ V phần Bản kỷ - Kỷ nhà Trần (1226 1399) (chép từ năm 1226 đến 1293), các sử gia đã chép y nguyên nội dung tác
phẩm Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn và Tựa Vạn Kiếp tơng bí truyền thư
của Trần Khánh Dư bằng chữ Hán.
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử của Việt Nam xưa nhất cịn tồn tại
nguyên vẹn đến ngày nay, là di sản vô giá của văn hóa dân tộc Việt Nam, đồng
thời là kho tư liệu phong phú không những cần thiết cho các nhà nghiên cứu
trong ngành sử học mà còn giúp ích cho nhiều ngành khoa học xã hội khác như
văn học, triết học, chính trị học…
Tư tưởng của Trần Quốc Tuấn- Đặc điểm và ý nghĩa lịch sử, Luận văn
Tiến sỹ Triết học của Phạm Trường Sinh năm 2016 là một cơng trình nghiên
cứu khoa học rất đầy đủ, chi tiết và sâu sắc những nội dung cơ bản trong tư
tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn. Tác giả đã tìm hiểu rất kỹ đặc điểm, nội
dung, sự hình thành và kế thừa những tư tưởng của ông cha trong tư tưởng chính
trị của Trần Quốc Tuấn, từ đó tác giả đưa ra những nhận định, đánh giá, đồng
thời rút ra những bài học và ý nghĩa lịch sử về mặt lý luận và thực tiễn. Đây có
thể nói là một cơng trình khoa học nghiên cứu khá cơng phu và tồn diện về tư
tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn, tuy nhiên tác giả bao quát quá nhiều và quá
chi tiết nên chưa toát ra được ý đồ thực sự của hướng nghiên cứu.
3.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1.
Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu bối cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ nhà Trần thế kỷ thứ XIII và
trình bày những nội dung chính trong tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn, từ
đó rút ra ý nghĩa lịch sử và bài học trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay.
6
3.2.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài tập trung phân tích và làm rõ
những nội dung tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn, từ đó rút ra những giá
trị lịch sử và bài học trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Xã hội chủ
nghĩa giai đoạn hiện nay.
4.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn
4.2.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn thế kỷ
thứ XIII, thông qua các tác phẩm tiêu biểu như: Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu
lược, Vạn Kiếp tơng bí truyền thư và Lâm chung di chúc.
5.
Cơ sở lý luận và thực tiễn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về chính trị và tư
tưởng chính trị.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Đề tài nghiên cứu dựa trên bối cảnh xã hội Việt Nam dưới thời Trần thế
kỷ thứ XIII và sự xuất hiện tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn.
6.
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch
sử.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích và tổng hợp; Diễn dịch và quy nạp; Lơgíc và
lịch sử; So sánh lịch sử, khái quát hóa…
7.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài gồm có 3 chương, 7 tiết và 15 tiểu tiết.
7
Chương 1: Cơ sở hình thành tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn
Chương 2: Nội dung tư tưởng chính trị của Trần Quốc Tuấn
Chương 3: Ý nghĩa lịch sử và bài học về tư tưởng chính trị của Trần Quốc
Tuấn
8
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA TRẦN QUỐC TUẤN
1.1.
Bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ thứ XIII
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về kinh tế, sau khi củng cố, xác lập vương triều, nhà Trần khôi phục, phát
triển kinh tế nông nghiệp và công thương nghiệp, nhằm ổn định đời sống nhân
dân.
Về kinh tế nông nghiệp: Cơ cấu ruộng đất gồm: Ruộng công và ruộng tư
Ruộng cơng: Có hai bộ phận ruộng cơng, gồm ruộng đất của triều đình
trực tiếp quản lý và ruộng đất công của thôn làng. Ruộng công gồm: Ruộng
quốc khố, hay quốc khố điền; Sơn lăng là loại ruộng dùng vào việc thờ phụng tổ
tiên dòng họ nhà vua; Ruộng tịch điền là loại ruộng do triều đình trực tiếp quản
lý; Ruộng công làng xã gọi là quan điền hay quan điền bản xã. Ruộng tư gồm:
Thái ấp, điền trang, ruộng tư của địa chủ, ruộng đất tiểu nơng.
Nhìn chung, cơ sở kinh tế thời Lý- Trần về cơ bản là “chế độ sở hữu nhà
nước về ruộng đất” thông qua công xã nông thôn. Quyền sở hữu nhà nước về đất
đai được thiết lập trên các làng xã nông thơn, cịn các cơng xã được nắm quyền
chiếm dụng và phân phối lại ruộng đất cho các thành viên công xã. Đây là mối
quan hệ sở hữu kép mang đậm màu sắc của chế độ phong kiến phương Đơng.
Hình thức sở hữu ruộng đất gồm có ruộng đất sở hữu thuộc nhà nước và ruộng
đất tư nhân. Hình thức ruộng đất sở hữu thuộc nhà nước được cấu thành với hai
bộ phận: ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý và ruộng đất công làng xã
(ruộng đất công do làng xã trực tiếp quản lý). Bộ phận ruộng đất do nhà nước
trực tiếp quản lý bao gồm: Sơn lăng, Tịch điền và Quốc khố. Sơn lăng là đất
phần mộ, ruộng thờ (ruộng mộ), Sơn lăng thường được chọn đặt ở quê hương
nhà vua. Về nguyên tắc những khu ruộng này được giao cho nông dân địa
phương cày cấy nộp một số hoa lợi để dùng vào việc thờ phụng và sửa sang
lăng, đền. Tổng diện tích của ruộng sơn lăng rất nhỏ hẹp. Tịch điền là loại đất
riêng của cung đình, phần lớn các hoa lợi trên ruộng này đề xung vào kho riêng
của vua, dùng để tế tự, chẩn cấp cho người nghèo hoặc để tiếp khách. Tổng diện
tích ruộng tịch điền cũng rất nhỏ hẹp. Ruộng quốc khố là một trong những loại
9
ruộng do nhà nước trực tiếp quản lý – dùng cho tội phạm hoặc tù binh cày cấy;
nhà nước còn quy định cả mức tô cho ruộng quốc khố. Ruộng đất do nhà nước
quản lý chiếm số lượng không lớn, nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể của
triều đình và vua nắm quyền chủ sở hữu. Chế độ thuế khóa quy định trên cơ sở
chế độ sở hữu ruộng đất.
Có thể nói: “chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất giữ một vị trí hết sức
quan trọng. Đó là cơ sở kinh tế của nhà nước. Nhà nước khơng chỉ coi nó là
nguồn thu nhập gần như duy nhất về lương thực và tiền mà cịn lấy nó là cơ sở
để có được sức lao động lao dịch gần như duy nhất và lực lượng quân sự cần
thiết”. Nhà Trần định ra chế độ tô thuế cho ruộng công làng xã. Ruộng công
làng xã chủ yếu giao cho làng xã chia nhau cày cấy và nộp tô trực tiếp cho nhà
nước. Nhà Trần còn định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài, sử dụng
ruộng đất công làng xã vào việc phong cấp cho quan lại, họ hàng, cận thần và
cơng thần của mình, được gọi là thái ấp, tức ruộng đất do nhà vua ban cấp cho
các q tộc và triều thần có cơng. Thái ấp là một hình thức phong cấp làng xã
cho vương hầu thời kỳ nhà Trần. Thái ấp thuộc quyền sở hữu tư nhân các quý
tộc nên các quý tộc, vương hầu được thu tô thuế, bắt dân đi lao dịch cho mình và
thành lập quân đội riêng. Để thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, vua nhà
Trần đặt ra cơ quan hà đê, có chức hà đê chánh và phó sứ được đặt ở các lộ để
quản lý và trông coi đê điều. Năm 1266, nhà vua xuống chiếu: “Cho các vương
hầu, cơng chúa, phị mã, cung tần chiêu tập những người xiêu tán khơng có sản
nghiệp làm nơ tì để khai khẩn ruộng hoang lập điền trang”. Điền trang là những
trang trại lớn của quý tộc thời kỳ nhà Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng
sức lao động của gia nơ, nơ tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc
sở hữu lớn phong kiến, tư nhân. Phương thức bóc lột điền trang chủ yếu là thu
tô, những người cày cấy trong điền trang là nô tỳ và nông nô. Chế độ điền trang
phát triển mạnh ở thời kỳ nhà Trần gắn liền với sự phát triển của chế độ nông nô
và nô tỳ. Các vương hầu quý tộc nhà Trần được phép lập điền trang xây dựng
phủ đệ, các lực lượng vũ trang riêng trên những địa bàn quan trọng. Hệ thống
điền trang, thái ấp thời ký nhà Trần và những hoạt động kinh tế - quân sự của nó
đã thể hiện rất rõ nét đường lối kết hợp kinh tế với quốc phịng. Sự thành cơng
10
của đường lối này đã để lại cho đời sau những kinh nghiệm vơ cùng q giá
trong q trình xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhìn chung, nhờ có những biện
pháp và chính sách khuyến nơng tích cực nên nền kinh tế nông nghiệp thời kỳ
nhà Trần khá phát triển, làm cho đời sống nhân dân ổn định, tạo nguồn dự trữ
lương thực chuẩn bị cho kháng chiến chống xâm lược.
Về thủ công nghiệp, gồm thủ công nghiệp nhà nước và thủ công nghiệp
nhân dân. Thủ công nghiệp nhà nước có nhiều ngành nghề khác nhau như: chế
tạo binh khí, đồ trang sức, đóng thuyền, đúc tiền, đúc chng, xây dựng cung
điện, đền đài cho nhà nước. Các quan xưởng thủ công nghiệp là thành phần kinh
tế rất quan trọng của nhà nước. Thủ công nghiệp nhân dân bao gồm nhiều loại
hình ở các làng, các phường thủ cơng quanh các thị trấn lớn. Nghề chăn tằm
ươm tơ, dệt lụa, làm đồ gốm, xây dựng đền đài nhà cửa rất phát triển. Nghề sản
xuất đồ gốm là bộ phận quan trọng trong quan xưởng, sản xuất các đồ dùng như:
chén bát, đồ thờ cúng và các vật liệu xây dựng như gạch, ngói… đồ gốm men
Đơng Thanh, gốm Bát Tràng với những đồ sành men trắng ngà, men nâu nổi
tiếng tinh vi và đẹp. Ngoài ra, hàng mỹ nghệ, kim hoàn với những đồ làm bằng
vàng bạc, ngọc, đá quý được chế tạo rất tinh xảo.
Nghề khai khoáng luyện kim như vàng, bạc, sắt, đồng, chì, thiếc… vốn
đã có từ trước nhưng nay được chú trọng và phát triển thêm đã cung cấp nguyên
liệu cho nhà nước đúc tiền, đúc chuông, tượng, các nông cụ như các loại vũ khí,
chiến cụ trang bị cho quân đội. Các nghề vàng bạc, nghề chạm khắc, nghề đúc
đồng, rèn sắt, nhuộm vải cũng có một vị trí to lớn, đặc biệt đúc chng, đúc
tượng Phật và làm đồ dùng gia đình phát triển mạnh. Nghề dệt đạt tới trình độ
kỹ thuật khá cao. Những người thợ thủ công bấy giờ đã dệt được the, đoạn, gấm
màu, lụa năm màu, lĩnh năm màu… Nghề mộc và xây dựng, làm nhà ở, dụng cụ
gia đình, đồ thờ cúng ở thời kỳ cũng rất phát triển. Nghề làm giấy và khắc bản in
gỗ đã có từ thời nhà Lý, đến nay cũng được chú trọng phát triển thêm. Nhiều
kinh sách Phật giáo được ấn tống. Nghệ thuật gốm sứ thời kỳ Lý- Trần vừa
mang đậm sắc thái dân tộc vừa có trình độ thẩm mỹ cao và đạt đên đỉnh cao
trong lịch sử phát triển.
Về thương nghiệp, gồm nội thương và ngoại thương
11
Về nội thương: Chợ là kênh phân phối chủ yếu của mạng lưới thương mại
tại đồng bằng sông Hồng. Số lượng chợ khá nhiều, mỗi huyện có vài chợ, chợ
này họp lệch phiên với chợ kia. Ngay trong các làng xóm cũng có chợ, khoảng 2
ngày họp một lần, hàng hóa trăm thứ bày la liệt. Hễ cứ 5 dặm dựng một ngơi
nhà, 4 phía có mặt chõng để làm nơi họp chợ. Ngồi chợ, hàng hóa cịn được
phân phối qua các phố. Các trung tâm phủ lỵ bên sông lớn, đầu mối giao thơng
thủy bộ đều có phố. Phố Luy Lâu bên bờ sông Dâu là nơi buôn bán cố định. Bờ
sơng Nghĩa cịn có phố Lố cũng được hình thành vào thời Trần. Chợ có mặt ở
khắp phố phường, đặc biệt là kinh đô Thăng Long với 61 phố phường bn bán
tấp nập trở thành trung tâm chính trị, văn hóa đồng thời cũng là một trung tâm
kinh tế lớn nhất của Đại Việt lúc bấy giờ. Nhìn chung, chợ và phố là hai kênh
phân phối của thị trường địa phương các hương, phủ nhằm giải quyết nhu cầu
của các tầng lớp nhân dân.
Về ngoại thương: Đối với ngoại thương, ngồi con đường biên giới trên
bộ để thơng thương với Trung Quốc, hải cảng là con đường thông thương chủ
yếu với các quốc gia khác. Cảng Vân Đồn là đầu mối tiếp nhận hàng hóa quốc tế
quan trọng nhất từ thời Lý. Bên cạnh đó cịn có các cảng Hội Thống, Cần Hải,
Hội Triều. Những nơi này thu hút khá nhiều thương nhân nước ngồi và hàng
hóa, đồng thời cũng là nơi xuất khẩu hàng hóa của Đại Việt. Đối tác tới buôn
bán tại các thương cảnh là Trung Quốc, Diệp Điều (Java), Thiện ( Miến Điện),
Thiên Trúc (Ấn Độ). Các thuyền bn nước ngồi khơng được phép vào sâu
trong nội địa, chỉ được phép cập bến ngoài một số cảng sau khi nộp đủ một số
phương vật quý cho triều đình. Vân Đồn là cảng lớn nhất, nhưng từ sau cuộc
kháng chiến chống Nguyên- Mông, việc buôn bán bị hạn chế. Nhà Trần chuyển
nơi đây thành nơi phịng thủ vì nhu cầu quốc phịng, tuy nhiên vẫn cho phép một
số thuyền bn nước ngồi vẫn thường xun ra vào.
Về tiền tệ: Nhà Trần đã nhiều lần ban hành tiền tệ, đúc tiền đồng để thuận
tiện cho việc trao đổi. Quan hệ tiền tệ thâm nhập vào đời sống chính trị, tín
ngưỡng. Ngồi tiền do triều đình đúc, nhà Trần cho phép lưu hành tiền của nhà
Tống.
12
Có thể nói, khơng có một giai đoạn nào trong lịch sử trung đại Việt Nam
mà kinh tế công thương nghiệp và thành thị lại phát triển mạnh mẽ đến như vậy.
Kinh tế- xã hội càng vận động theo hướng phong kiến hóa mạnh mẽ, thì càng
làm cho sự phân hóa xã hội, mâu thuẫn xã hội diễn ra mạnh mẽ, mâu thuẫn giữa
tầng lớp địa chủ quan liêu với quý tộc tôn thất nhà Trần; giữa giai cấp thống trị
phong kiến với nhân dân, nhất là tầng lớp nông nơ và nơ tỳ. Trên cơ sở phân tích
điều kiện kinh tế- xã hội của Đại Việt trong thế kỷ XIII, chúng ta thấy sự vận
động của xã hội gắn liền với quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa vấn đề dân tộc
và sự thống nhất đất nước, xây dựng củng cố hồn thiện chế độ phong kiến.
Tóm lại, việc duy trì sự tồn tại song song hình thức cơng hữu và tư hữu
đã giúp nhà Trần tập chung được toàn bộ của cải và nhân lực thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp, phát triển công thương nghiệp, mở rộng giao lưu buôn bán, trao
đổi làm cho nền kinh tế Đại Việt thực sự hưng vượng và phát triển. Sự phát triển
khởi sắc của nền kinh tế ở thời kỳ đầu của nhà Trần không chỉ thể hiện trong
lĩnh vực nông nghiệp mà còn thể hiện cả trong các lĩnh vực khác. Những chính
sách tiến bộ cùng với những thành quả xây dựng kinh tế của Đại Việt đã tạo ra
một cơ sở vật chất vững vàng cho sự tồn tại của quốc gia phong kiến độc lập tự
chủ, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng được lực lượng quân sự
hùng mạnh bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc trước mọi nguy cơ xâm lăng của
kẻ thù.
1.1.2. Điều kiện chính trị - xã hội
Cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội, nhà Trần ra sức củng cố bộ máy
chính quyền nhà nước, hồn thiện hệ thống quan chế, xây dựng luật pháp và
quân đội vững mạnh nhằm bảo vệ lợi ích của q tộc, tơn thất nhà Trần và
chống giặc ngoại xâm.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền: Để củng cố nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền vững mạnh, nhà Trần tiến hành xây dựng bộ máy chính
quyền theo bốn cấp:
Cấp 1: Triều đình trung ương: triều đình trung ương là cơ quan tập trung quyền
lực cao nhất trên mọi hoạt động của nhà nước, kiểm sốt các địa phương thơng
quan hệ thống chính quyền các cấp và pháp luật của nhà nước phong kiến. Các
13
vương hầu, quý tộc họ Trần, ngoài việc nắm giữ những chức vụ trọng yếu ở
triều đình, cịn được phân đi trấn trị các nơi nhằm củng cố, tập chung mọi quyền
lực để bảo vệ ngai vàng của dòng họ mình. Nhà Trần đặt phủ tơng nhân để quản
lý họ hàng. Theo quy chế q tộc hóa, hồng tử cả được phong tước vương. Họ
hàng xa được phong là thượng vị hầu. Các con thân vương, công chúa được gọi
là “kim chi, ngọc diệp”. Vua Trần đồng nhất ngôi vua với đất nước. “Năm 1250
Thái Tông xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là quốc gia (quan gia) nâng cao hơn
tính chun chế và tập chung của triều đình”.
Cấp 2: Các lộ, trấn: Nhà Trần đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ và chia lại các đơn vị
hành chính. Các đơn vị hành chính của nhà Trần gồm có 12 lộ, 3 phủ (Thiên
Trường, Tân Bình, Nghệ An).
Cáp 3 và 4: Các phủ, huyện, châu; các hương, giáp hoặc xã.
Dưới lộ, phủ và châu, huyện, xã, ở miền núi cịn có sách, động. Các cơ quan
trung ương thời kỳ nhà Trần gồm có: các quán, các sảnh, cục, đài, viện. Cơ quan
hành chính và tư pháp ở kinh đơ Thăng Long là Bình bạc ty, sau đổi thành Đại
an phủ sứ, Kinh sư đại dỗn. Ở lộ thì có An phủ sứ, Trấn thủ, Thơng phán…
ngồi ra cịn có Hà đê sứ coi về việc đê điều, Đồn điền sứ coi về đồn điền. Phủ
có Tri phủ, châu thì có Tri châu, Tào vận sứ… Ở xã thì có chức Đại tư xã và
Tiểu tư xã còn gọi là Đại toát và Tiểu toát. Các chức quan chỉ huy qn đội ở địa
phương thì có Kinh lược, Phịng ngự, Sát thủ ngự…
Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thời kỳ nhà Trần được xây
dựng dựa trên hai cơ sở xã hội là quý tộc Trần và sĩ phu. Quan lại trong bộ máy
hành chính quan liêu nhà Trần được tuyển dụng qua các phương tiện: nhiệm tử
(được bổ nhiệm theo họ hàng mà trước hết là nội tộc), tuyển cử (giới thiệu và
bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Nhà Trần chưa câu nệ vào tiêu chuẩn khoa
bảng mà căn cứ chủ yếu vào thực tài, tinh thần đó đã được đời sau hết sức ngợi
khen. Nhìn chung, việc xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
vững mạnh đã được nhà Trần coi trọng.
Về cơ cấu xã hội, giai cấp: Cơ cấu xã hội thời kỳ nhà Trần gồm có: tầng
lớp quan lại, quý tộc; giai cấp địa chủ phong kiến; giai cấp nông dân; tầng lớp
14
nho sĩ; thợ thủ công; thương nhân và những người lao động khác. Xã hội phong
kiến thời kỳ nhà Trần cũng có sự phân hóa mạnh mẽ, đặc biệt là về mặt kết cấu
giai cấp xã hội, với ba đẳng cấp chính đó là: Đẳng cấp q tộc, tơn thất, quan lại
trong chính quyền quân chủ; Đẳng cấp những người bình dân và đẳng cấp nơ
tỳ.
Đẳng cấp q tộc, tơn thất, quan lại: trong triều đình quân chủ giữ vị trí
thống trị, có đặc quyền, đặc lợi, bóc lột đẳng cấp bình dân; đẳng cấp nơ tỳ giữ
vai trị đặc biệt quan trọng tạo nên một phương thức cai trị điển hình- nền
chun chế dịng tộc. Xét về quan hệ giai cấp, họ là tầng lớp bóc lột; xét về cơ
chế đẳng cấp, họ là đẳng cấp trên của xã hội, đẳng cấp cầm quyền và là đẳng cấp
thống trị trong kết cấu xã hội phong kiến quân chủ tập quyền.
Đẳng cấp bình dân là những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng
xã, thợ thủ công, thương nhân và địa chủ bình dân. Đây là đẳng cấp đông đảo
nhất trong xã hội, là lực lượng sản xuất chủ yếu và cũng là đẳng cấp gánh vác
nhiều nghĩa vụ nhất trong xã hội. Xét về quan hệ giai cấp, họ là tầng lớp bị bóc
lột; xét về cơ chế đẳng cấp, họ là đẳng cấp bên dưới bị thống trị, bị vua quan bóc
lột.
Đẳng cấp nơ tỳ gồm: nô tỳ, nông nô và gia đồng, là đẳng cấp thấp kém
nhất trong xã hội. Về địa vị kinh tế, họ là những người khơng có tư liệu sản xuất.
Về mặt địa vị xã hội, thân phận của họ thấp kém nhất và cũng là người bị lóc lột
nhiều nhất.
Dưới triều đại nhà Trần, đẳng cấp bình dân và đẳng cấp nô tỳ là lực lượng
chủ yếu làm ra của cải vật chất cho xã hội, khi quốc gia sở hữu họ trở thành
những gia binh, gia tướng của các vương hầu, quý tộc tham gia bảo vệ và đánh
giặc giữ nước. Trong kháng chiến chống Nguyên- Mông, họ đã có những đóng
góp đáng kể, nhiều chiến cơng của họ đã được lịch sử ghi nhận. Mặc dù trong
nội bộ vương triều Trần có mâu thuẫn, nhưng đứng trước nạn ngoại xâm, quý
tộc tôn thất nhà Trần gạt bỏ những mâu thuẫn nội bộ, đặt lợi ích dân tộc lên trên
hết, đồng lịng, đồn kết tồn dân chống giặc ngoại xâm, giữ vững nền độc lập
dân tộc. Các vị vua nhà Trần thường tự thân mình hay phái các quan đại thần đi
15
kinh lý ở vùng xa để hiểu dân và biết rõ tình hình đất nước. Khoảng cách giữa
vua và tơi, giữa quý tộ và bình dân chưa lớn lắm. Vua nhà Trần vẫn giữ được
mối liên hệ nhất định với cộng đồng và dân chúng. Kết quả của sự chuyển biến
và phân tầng xã hội làm cho xã hội lúc bấy giờ tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản:
Một là, mâu thuẫn giữa tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần với tầng lớp địa chủ
quan liêu: Hai là, mâu thuẫn giữa quý tộc tôn thất nhà Trần với nhân dân mà chủ
yếu là nông dân. Khi đất nước lâm nguy, các vị vua Trần và Trần Quốc Tuấn đã
biết phát huy sức mạnh tổng hợp, đoàn kết mọi tầng lớp trong xã hội đánh tan
quân Nguyên- Mông xâm lược. Đó chính là tinh thần “Vua tơi đồng lịng, anh
em hòa thuận, cả nước dồn sức lại” mà Trần Quốc Tuấn đã tổng kết, “đây cũng
chính là một điểm đặc sắc mà người đời sau có thể rút ra khi nghiên cứu về kết
cấu xã hội thời kỳ nhà Trần”. Cùng với nhãn quan chính trị rộng lớn, khống
đạt, Trần Quốc Tuấn và các vua Trần tin dùng, trọng dụng cả những người xuất
thân từ tầng lớp bình dân, gia nơ như Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng…”
Nhìn chung, xã hội thời kỳ nhà Trần phân chia thành các đẳng cấp khác
nhau. Tuy nhiên, quan hệ giữa vua quan và tầng lớp bình dân mang đậm tính
chất dân chủ truyền thống, gắn bó lợi ích với nhau nên mâu thuẫn giai cấp chưa
diễn ra gay gắt nhờ đó nhà Trần đã huy động sức mạnh toàn dân kháng chiến
chống quân Nguyên- Mông thắng lợi.
Về luật pháp, năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ Quốc triều thông
chế gồm 20 quyển quy định tổ chức chính quyền và các quy chế hành chính. Sau
nhiều lần sửa đổi bổ sung, nhà Trần ban hành bộ Quốc triều hình luật- bộ luật
thành văn đầu tiên của nước ta. Năm 1244, nhà Trần sửa đổi, bổ sung và ban
hành bộ Hình luật. Ở trung ương, nhà Trần có một cơ quan chuyên xét việc ngục
tụng gọi là “Viện thẩm hình”. Tại kinh thành Thăng Long có đặt ty bình bạcmột chức quan đứng đầu trong kinh thành giữ việc xét đốn ngục hình, kiện
tụng. Ở các phủ đều có các quan xét việc hình ngục. Các châu, huyện quan lại
hành chính đồng thời phụ trách việc luật pháp, xét xử tội phạm. Các châu, huyện
quan lại hành chính đồng thời phụ trách việc luật pháp, xét xử tội phạm. Bên
cạnh cơ quan xét xử hình luật, thời kỳ nhà Trần cịn có cơ quan kiểm pháp, kiểm
16
tra giám sát việc xét xử của cơ quan xét xử. Ở thời kỳ nhà Trần, hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh hơn, quy củ hơn giai đoạn trước, nó phản ánh trình độ cao hơn
của xã hội. Nội dung pháp luật nhà Trần bảo vệ nghiêm ngặt chế độ đẳng cấp và
chính thể qn chủ. Vua, hồng tộc, q tộc được pháp luật bảo vệ các đặc
quyền, đặc lợi về kinh tế và chính trị. Luật bắt các nơ tỳ phải thích chữ và trán.
Nơ tỳ khơng có quyền kết hôn với quý tộc. Pháp luật xác nhận và bảo vệ quyền
tư hữu tài sản, đặc biệt là ruộng đất. Pháp luật bảo vệ sản xuất nơng nghiệp, trâu
bị và các cơng trình thủy lợi. Pháp luật nhà Trần rất nghiêm khắc trong việc giữ
gìn phép nước nhằm phát triển sản xuất, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,
củng cố quốc gia thống nhất và ổn định trật tự xã hội. Nét đặc sắc của pháp luật
thời kỳ nhà Trần là tinh thần pháp chế ngày càng được đề cao nhưng cái gốc
của đạo trị nước là nhân và đức vẫn được trú trọng trong thực thi pháp luật, mặc
dù tính giai cấp và đẳng cấp trong pháp luật vẫn còn đậm nét, phản ánh xã hội
đang phát triển và có nhiều nét tiến bộ.
Về chính sách hơn nhân, nhà Trần lấy ngôi nhà Lý bằng biện pháp hơn
nhân. Nhà Trần từ vai trị là ngoại thích của nhà Lý đã giành ngơi. Do đó, để
tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hơn với người trong họ. Tuy
cẩn thận để phịng nạn ngoại thích bằng việc kết hơn nội tộc, nhưng về sau thì
việc kết hơn nội tộc trong dịng họ Trần cũng thưa dần. Từ khi Trần Nghệ Tông
trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, nhà Trần cũng gặp “họa ngoại thích”
và cuối cùng cũng mất về tay ngoại thích, giống như nhà Lý trước đó.
Về tổ chức quân đội, song song với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước chặt
chẽ để củng cố chính quyền phong kiến tập chung, nhà Trần đã ra sức xây dựng
một tổ chức quân đội hùng mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập dân tộc. Quân đội
nhà Trần gồm hai bộ phận: cấm quân và quân các lộ. Cấm quân được tuyển
chọn rất kỹ, gồm những thanh niên khỏe mạnh và thông thạo võ nghệ. Năm
1239, Trần Thái Tông đã xuống chiếu tuyển trai tráng xung vào quân đội, chia
làm ba bậc thượng, trung và hạ. Năm 1241, lại tuyển người có sức mạnh, am
hiểu võ nghệ làm thượng đô túc vệ. Đến năm 1246 thì quân đội nhà Trần mới
được tổ chức chu đáo và chặt chẽ. Mỗi quân hiệu túc vệ được tuyển trong dân
17
đinh của một số lộ nhất định. Còn một số khác sung vào cấm quân trong cấm vệ.
Hạng thứ ba gọi là đoàn đội trạo nhi, tức đội chèo thuyền, thủy thủ của thuyền
trận.
Quân đội nhà Trần là một quân đội mạnh, thiện chiến, được huấn luyện
tốt và trải qua nhiều thử thách của các cuộc kháng chiến. Lực lượng quân sự thời
kỳ nhà Trần bao gồm các thành phần sau đây: Quân chủ lực của triều đình;
Quân của lộ, phủ, châu; Quân của quý tộc, tôn thất (quân vương hầu, giả binh);
Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng, xã, động, bản. Thành phần chủ yếu
của lực lượng quân sự thời kỳ nhà Trần là những đơn vị quân đội thuộc quyền
quản lý trực tiếp của triều đình trung ương. Đây là lực lượng quân chủ lực của
triều đình, gồm có Cấm quân và Sương quân. Quân đội nhà Trần là qn đội
chính quy, đã đạt đến một trình độ tổ chức, trang bị, huấn luyện và chỉ huy tốt.
Lúc hịa bình, Cấm qn đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ vua và triều
đình, khi có chiến tranh là chủ lực quân đánh giặc giữ nước. Trong chiến tranh,
nhà Trần có thể tập hợp lực lượng quân đội lớn mạnh, đông đảo, cuộc hội quân
của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp năm 1284 số quân lên đến 20 vạn người. Tất cả
nam đến 18 tuổi đều phải đăng lính, nhưng trong bình, số qn thường trực chia
thành 5 phiên, luân phiên nhau cày cấy nhằm đảm bảo sản xuất vừa đảm bảo
quân số khi cần thiết. Đây chính là chính sách “ngụ binh ư nơng”, có ý nghĩa
tích cực trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước thời kỳ nhà Trần. Khi có việc
điều động thì gọi ra; khơng có việc thì về nhà làm ruộng. Qn đội nhà Trần
được luyện tập thường xuyên. Các vua Trần rất chú trọng nâng cao chất lượng
quân đội bằng các biện pháp tuyển quân, tuyển tướng, huấn luyện binh pháp và
rèn luyện tư tưởng. Năm 1253 Trần Thái Tông cho mở Giảng võ đường phía tây
thành Thăng Long để các võ quan học binh pháp, rèn luyện võ nghệ và huấn
luyện quân sĩ chống giặc ngoại xâm. Các tướng lĩnh tôn thất đều được học tập
quân sự ở Giảng võ đường. Trần Quốc Tuấn trực tiếp giảng dạy Binh thư yếu
lược cho các tướng lĩnh, võ quan cao cấp ở giảng đường, tuyển tướng và huấn
luyện binh pháp. Trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp lực lượng quân đội
lớn mạnh, đơng đảo là nhờ chính sách “ngụ binh ư nông”. Lực lượng quân đội
18
thời kỳ nhà Trần đóng vai trị quan trọng trong việc bảo vệ vương triều và đã lập
nhiều chiến công lớn trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Trần Quốc Tuấn đã
soạn hai bộ Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tơng bí truyền thư – đây là những
tác phẩm lý luận quân sự nổi tiếng của ông. Tuy văn bản gốc khơng cịn nhưng
dựa vào Hịch tướng sĩ và lời đề tựa Vạn Kiếp tơng bí truyền thư của Trần Khán
Dư, Trần Quốc Tuấn đã tìm hiểu và tổng kết kinh nghiệm chiến tranh của Trung
Quốc cổ đại từ Xuân Thu đến tận thời kỳ nhà Tống, nhà Nguyên để lưu trữ lại
cho kho tàng lịch sử nghệ thuật quân sự của dân tộc Việt Nam.
1.1.3. Điều kiện văn hóa – xã hội
Có thể nói, những thành tựu của kinh tế - xã hội một mặt đã góp phần
củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, tạo ra cơ sở vật
chất vững chắc cho sự phát triển văn hóa thời kỳ nhà Trần, mặt khác, nó cổ vũ
các nhà tư tưởng thời kỳ này đi sâu nghiên cứu tìm cách giải đáp các vấn đề xã
hội đặt ra.
Về văn học, nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê
Văn Hưu soạn bộ Đại Việt Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc
Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối
đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao
hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân
Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn
Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch
tướng sĩ. Nhìn chung, văn học thời kỳ này một mặt, phản ánh tư tưởng và tình
cảm con người thời đại, lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự cường dân tộc; mặt
khác, phản ánh tinh thần từ ái, hịa đồng và thanh thốt của Phật giáo. Có hai
dịng văn học chính: văn học Phật giáo và văn học yêu nước. Văn học Phật giáo
nổi bật với những tác phẩm: Khóa hư lục, Thiền tơng chỉ nam của Trần Thái
Tông, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ
ngữ lục của Trần Tung, Thiền uyển anh ngữ lục, Tam tổ thực lục nói về thiền
học Việt Nam và thiền phái Trúc Lâm. Dòng văn học yêu nước với những tác
phẩm: Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Tụng
19
giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tức sự của Trần Nhân Tông, Bạch Đằng
giang phú của Trương Hán Siêu đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước, tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc sâu sắc. Bên cạnh đó, sự ra đời của chữ Nơm
tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của một nền văn học sau này, góp phần thốt
dần sự ảnh hưởng vay mượn các yếu tố văn hóa từ bên ngồi. Những tác phẩm
văn học, sử học và binh pháp quân sự đặc sắc vừa phản ánh trí tuệ, vừa thể hiện
sự độc lập trên phương diện văn hóa và tư tưởng của dân tộc ta.
Về sử học, đến thời kỳ nhà Trần việc biên soạn những bộ sử của đất nước
đã được đẩy mạnh. Nhiều bộ sử đã xuất hiện vào thời Trần như Việt sử lược, An
Nam trí lược, Việt sử cương mục, v.v… Đáng chú ý nhất là bộ Đại Việt sử ký
của Lê Văn Hưu, gồm 30 quyển, chép lịch sử Việt Nam từ Triệu Vũ Đế đến Lý
Chiêu Hồng được coi là bộ chính sử đầu tiên của Việt Nam. Dưới thời thuộc
Minh, nhiều cuốn sách có giá trị của Đại Việt đã bị nhà Minh tịch thu mang về
Trung Quốc, trong đó có Đại Việt sử ký cùng các lời bình luận của Lê Văn Hưu
về sau các sự kiện lịch sử đã được nhà sử học Phan Phu Tiên ghi lại và dùng làm
tư liệu biên soạn bộ chính sử đầu tiên của nhà Lê dưới triều vua Lê Nhân Tông
vào năm 1455. Bộ Đại Việt sử ký mới của Phan Phu Tiên bổ sung giai đoạn lịch
sử từ năm 1223 khi Trần Thái Tông lên ngôi đến năm 1427 khi quân Minh rút
về nước sau chiến thắng của Lê Lợi. Bộ sử của Phan Phu Tiên bao gồm 10
quyển với tên gọi Đại Việt sử ký tục biên hay Quốc sử biên lục. Sau đó, nhà sử
học Ngơ Sĩ Liên dựa trên các tác phẩm của Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên để
biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bao gồm 15 quyển được hồn thành năm
1479. Vua Trần cịn cho biên soạn Trung hưng thực lục nói về cuộc kháng chiến
chống xâm lược Ngun- Mơng.
Về văn hóa nghệ thuật: Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là
có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc
hình nhạc cơng biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa
văn dựa trên nghê thuật dân dụng. Về kiến trúc, dựa trên các tháp gốm, tháp đá,
mơ hình nhà bằng đất nung, mảnh ngói vỡ khai quật được, triều Trần tiếp tục kế
thừa truyền thống nhà Lý với điểm nổi bật là chùa tháp, bộ đấu củng chống đỡ
20
mái cầu kì và các họa tiết mang đậm màu sắc Phật giáo. Nghệ thuật kiến trúc
cung điện, thành quách, chùa tháp, dinh thự của quý tộc Trần thể hiện nét độc
đáo, tinh xảo, có quy mơ bề thế. Nghệ thuật tạo hình thể hiện phong cách đặc
sắc và trình độ kỹ thuật cao như cung điện của nhà vua, đền thờ các anh dùng
dân tộc, tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn… Nghệ thuật điêu khắc trên các cánh
cửa gỗ thời kỳ nhà Trần phong phú và tinh tế hơn.
Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và
Trung Quốc, một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và sang Trung Quốc
trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng
phổ biến. Các điệu nhảy múa, nghệ thuật tuồng, chèo đã phổ biến trong dân
gian, nghệ thuật múa rối đặc sắc và sinh động. Trong các ngày lễ hội đã xuất
hiện nhiều trị chơi mang đậm tính dân gian như leo cây, đấu vật, chọi gà, cờ
người, đánh đu, cướp dù, đá cầu, hất phết, đua thuyền,… rất được ưa chuộng.
Nhìn chung, sự phát triển của văn học nghệ thuật thời kỳ nhà Trần rất phong phú
và đa dạng góp phần tạo nên một nền văn hóa rực rỡ khơng những mang đậm
tính dân gian mà cịn mang tính dân tộc sâu sắc.
Về giáo dục, những thành tựu phát triển rực rỡ của nền văn hóa thời kỳ
nhà Trần đã góp phần xây dựng nền giáo dục, khoa cử quy củ nhằm tuyển chọn
nhân tài cho đất nước và củng cố bộ máy nhà nước phong kiến. Năm 1070, Văn
Miếu được xây dựng ở kinh thành, giáo dục Nho học chính thức được thiết lập.
Năm 1195, nhà Lý mở kỳ thi tam giáo đầu tiên. Tuy nhiên, giáo dục Nho học
dưới thời ký nhà Lý chưa thật sự phát triển, đến thời kỳ nhà Trần thì giáo dục
Nho học đã có nhiều sự tiến bộ. Năm 1232, nhà Trần mở khoa thi Thái học đầu
tiên, các vua nhà Trần đặt ra các khoa thi “ Tam giáo” vào các năm 1227, 1247.
Những người đỗ đạt được tuyển dụng vào bộ máy chính quyền nhà nước đã góp
phần đáng kể vào cơng cuộc xây dựng và củng cố chính quyền, phát triển đất
nước. Do yêu cầu tuyển lựa nhân tài bổ dụng cho bộ máy quan liêu, nhà Trần đã
quan tâm đến việc nâng cao tri thức, mở rộng giáo dục Nho học và mở đều đặn
các khoa thi hơn để tuyển lựa nhân tài cho đất nước nên số người tiến thân bằng
con đường cử nghiệp ngày càng nhiều hơn, giới nho sĩ đông đảo hơn trước và
21
từng bước đẩy lùi thế lực tăng lữ trên lĩnh vực chính trị cũng như tư tưởng. So
với thời kỳ nhà Lý, nhà Trần đã chú ý đến phương thức và cách thức tổ chức thi
cử. Các cấp thi, các môn thi, các cách ra đề, cách làm vài, cách phân loại và
tuyển lựa thí sinh, cách lấy đỗ và bố trí chức vụ cũng ngày cụ thể, chi tiết hơn.
Các môn thi cổ văn và kinh sách Nho học ngày càng được quan tâm mở rộng
trong khi việc tuyển chọn, sát hạch giới sư tăng lại trở nên chặt chẽ, khắt khe
hơn. Về trường học, ngoài các trường do nhà nước quản lý như Quốc tử viện,
Quốc học viện, Thái học, Nhất toát trai, Tư thiện đường, Thiên trường phủ học,
Lạn Kha thư viện,… cịn có các trường dân lập như trường của Trần Ích Tắc,
trường của Chu Văn An đã mở rộng đối tượng học tập, thu hút được nhiều học
sinh từ các nơi đến học. Tháng 10 năm 1272, vua Trần Thái Tơng “xuống chiếu
tìm người hiền lương, thông hiểu kinh sách làm tư nghiệp Quốc tử giám, người
biết giảng tứ thư ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách”. Nền giáo dục khoa
cử thời kỳ nhà Trần mặc dù còn nhiều hạn chế nhất định do vay mượn chữ Hán,
nội dung học tập là tư tưởng Tam giáo, hình thức thi cử rập khn theo Trung
Quốc; song nó cũng đáp ứng được nhu cầu xây dựng và củng cố nhà nước
phong kiến, đào tạo nhân tài, giáo hóa dân chúng, góp phần giữ gìn phong tục
tập quán của dân tộc.
Về tôn giáo, vào thời gian đầu của thời kỳ nhà Trần thì Phật giáo cịn
thịnh. Các nhà vua đều dùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng
thờ khắp nơi. Hoạt động giáo dục Phật giáo thời kỳ nhà Trần được kết tinh và
thể hiện sâu sắc ở thiền phái Trúc Lâm Yên Tử với ba vị tổ Trần Nhân TôngPháp Loa- Huyền Quang. Thơng qua hình thức truyền thừa, hoạt động đào tạo
tăng tài, khuyến hóa chúng sinh, hoằng dương Phật pháo của thiền phái Trúc
Lâm đã phản ánh toàn cảnh bức tranh của nền giáo dục Phật giáo Đại Việt
đương thời.
Nhìn chung, trên tinh thần dân tộc, nhà Trần đã xác lập một nền văn hóa độc lập,
đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử xã hội phong kiến Việt Nam
cũng như trong lịch sử văn hóa của dân tộc ta. Nó chứng tỏ Đại Việt đã có một
nền văn hóa độc lập, đặc sắc và mang đậm nét tinh thần dân tộc. Tư tưởng của
22
Trần Quốc Tuấn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi bối cảnh kinh tế- chính trị- văn hóa,
xã hội đương thời, đặc biệt là sự tiếp thu, kế thừa các giá trị của văn hóa tư
tưởng thời kỳ nhà Trần nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng một hệ tư tưởng độc
lập, một nền văn hóa độc lập để củng cố vương triều Trần trên lĩnh vực văn hóa
tư tưởng, thốt dần sự ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai
1.2.
Sự xuất hiện tƣ tƣởng chính trị của Trần Quốc Tuấn
1.2.1. Triều đại nhà Trần thế kỷ thứ XIII
Sau thời kỳ hưng thịnh kéo dài hơn 200 năm, khoảng giữa thế kỷ XII trở
đi nhà Lý bước vào giai đoạn suy tàn. Cao Tơng thì mê xây cung điện, thích
nghe đàn hát, cả ngày cùng cung nữ dạo chơi. Huệ Tơng thì nhu nhược. Trong
triều đình các gian thần, nịnh thần như Đỗ Anh Vũ, Đỗ An Di lộng hành nhiễu
loạn. Ngoài xã hội, nhân dân chịu cảnh nhiều năm mất mùa, đói kém. Nơng dân
bị áp bức, bóc lột nặng nề nên liên tiếp nổi dậy đấu tranh. Những khó khăn về
kinh tế- xã hội làm cho đất nước Đại Việt lúc này lâm vào tình trạng khủng
hoảng trầm trọng. Đầu thế kỷ XIII, các thế lực phong kiến nổi dậy đấu tranh
chống phá triều đình, gây nên tình trạng cát cứ phân quyền, làm suy yếu chính
quyền nhà Lý. Lúc bấy giờ, họ Trần có thế lực quân sự hùng mạnh đã dập tắt
cuộc hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến, lập lại trật tự triều chính. Do có
cơng lao nên được nhà Lý trọng dụng, từ đây gia tộc hộ Trần lần lượt đưa con
cháu vào cung giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình nhằm thao túng
quyền lực, dần đần lấn át được quý tộc nhà Lý và giành lấy quyền thống trị.
Tháng 7 năm 1225, Huệ Tông phải nhường ngôi cho Chiêu Thánh vừa mới 7
tuổi- tức Lý Chiêu Hoàng, rồi lên làm Thái Thượng Hồng và sau đó xuất gia đi
tu ở chùa Chân Giáo lấy hiệu là Huệ là Huệ Quang đại sư. Do Lý Chiêu Hồng
cịn q nhỏ nên mọi quyền hành trong thực tế đề do anh em họ Trần thao túng,
nhất là quyền bính nằm trong tay Trần Thủ Độ. Theo sự dàn xếp của Trần Thủ
Độ, ngày 12 tháng 12 năm Ất Dậu tức ngày 11 tháng 01 năm 1226, Chiêu
Hồng trút bỏ áo ngự, nhường ngơi cho chồng là Trần Cảnh. Vương triều Lý
đến đây chấm dứt sau 216 năm cầm quyền. Trần Cảnh lên ngơi Hồng đế, đổi
niên hiệu là Kiến Trung, mở đầu cho triều đại nhà Trần.
23
Ngay từ những năm đầu xây dựng vương quyền, một mặt nhà Trần đã
đánh dẹp các thế lực chống đối nhằm xây dựng một nền chun chính- dân chủ
dịng họ, tầng lớp tôn thất nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia; mặt khác, nhà Trần
nhanh chóng khơi phục và phát triển kinh tế, chăm lo phát triển nông nghiệp, cải
thiện đời sống nhân dân. Nền kinh tế nông nghiệp làng xã phát triển đã thúc đẩy
các nghề thủ công nghiệp phát triển. Hàng hóa làm ra ngày càng nhiều, nhà
nước đưa tiền tệ vào lưu thông làm cho việc buôn bán trao đổi hàng hóa trong
nước và ngồi nước rất phát đạt. Song song đó, nhà Trần ra sức xây dựng, củng
cố bộ máy nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, xây dựng các bộ luật thành
văn, xây dựng và củng cố lực lượng quân đội vững mạnh. Nhà Trần tiến hành
xây dựng đất nước song song với các cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Để đoàn
kết sức mạnh của toàn dân tộc phục vụ cho sự nghiệp đánh giặc giữ nước, nhà
Trần đã giải quyết thích đáng mối quan hệ giai cấp và dân tộc, điều hòa các mâu
thuẫn, hạn chế sự bóc lột phong kiến của các vương hầu quý tộc, quan tâm đến
lợi ích của nhân dân. Do đó, trong thế kỷ XIII, nhà Trần đã ba lần lãnh đạo nhân
dân đánh thắng quân Nguyên- Mông xâm lược. Thực tiễn của các cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên- Mông đầy gian khổ mà hào hùng là một trong những
tiền đề giúp cho Trần Quốc Tuấn hình thành nên tư tưởng yêu nước, tư tưởng
chính trị và tư tưởng quân sự đặc sắc của mình. Kế tục những thành quả trong
việc phát triển kinh tế, chính trị- xã hội thời kỳ nhà Lý, các vua nhà Trần tiếp tục
củng cố nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, tăng cường
tiềm lực quân sự nhằm bảo vệ đất nước và chống giặc ngoại xâm.
1.2.2. Thân thế và sự nghiệp của Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn (1232- 1300) là con của Yên Sinh
vương Trần Liễu và là cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột. Ông sinh ra
tại làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần Quốc Tuấn vốn thông
minh và hiếu học, nhờ đó mà ơng thấu hiểu mọi kinh nghĩa, nắm được tinh hoa
của sách vở và sớm nổi tiếng là người văn võ xuất chúng. Trần Quốc Tuấn được
học trong trường giành cho các vương hầu nội tộc và các tể thần được ban quốc
tính. Với những nỗ lực lớn của bản thân, Trần Quốc Tuấn tự tìm kiếm cho mình
24