TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
-------------------------
LƯU ĐỨC DUY
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
TỪ GĨC NHÌN KÍ HIỆU HỌC VĂN HỌC
(KHẢO SÁT QUA VÀO CÕI VÀ THOẠT KỲ THUỶ)
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đà Nẵng, tháng 4/2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA NGỮ VĂN
-------------------------
LƯU ĐỨC DUY
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
TỪ GĨC NHÌN KÍ HIỆU HỌCVĂN HỌC
(KHẢO SÁT QUA VÀO CÕI VÀ THOẠT KỲ THUỶ)
Chun ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC
KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Trường
Đà Nẵng, tháng 4/2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
2.1. Những công trình dịch, giới thiệu về lí thuyết kí hiệu học. .................................. 2
2.2. Những cơng trình vận dụng lý thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học....... 4
2.3. Những công trình, bài viết nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương với
lí thuyết kí hiệu học văn học. ....................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 11
4.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 11
4.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 11
5. Giá trị khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................................. 12
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 12
7. Bố cục của khóa luận ............................................................................................ 13
NỘI DUNG ............................................................................................................... 14
Chương 1 .................................................................................................................... 14
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG ..................................................................... 14
1.1. Một số thuật ngữ khái niệm cơ bản. ............................................................ 14
1.1.1. Kí hiệu học và kí hiệu học văn học. ......................................................... 14
1.1.2. Kí hiệu và mã thẩm mĩ.............................................................................. 19
1.1.3. Kí hiệu và biểu tượng nghệ thuật.............................................................. 22
1.2. Mã thể loại tiểu thuyết và cơ chế tái cấu trúc kí hiệu hố trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương............................................................................................ 26
1.2.1. Mã thể loại .................................................................................................... 26
1.2.2. Mã thể loại tiểu thuyết. ................................................................................. 28
1.2.3. Cơ chế tái cấu trúc kí hiệu hố trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương. ..... 32
Tiểu kết ..................................................................................................................... 36
Chương 2 ................................................................................................................... 37
TIỂU THUYẾT THOẠT KỲ THỦY, VÀO CÕI CỦA NGUYỄN BÌNH
PHƯƠNG NHÌN TỪ MÃ NHÂN VẬT VÀ MÃ KHÔNG GIAN , THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT ......................................................................................................... 37
2.1. Mã nhân vật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy và Vào cõi ........................... 37
2.1.1. Nhân vật “biến dạng”. ............................................................................... 37
2.1.2. Nhân vật chấn thương. .............................................................................. 41
2.1.3. Nhân vật truy tìm bản thể .......................................................................... 45
2.2. Mã không gian, thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy và
Vào cõi .................................................................................................................... 49
2.2.1. Không gian của cõi vô thức, tâm linh. ...................................................... 50
2.2.2. Thời gian của giấc mơ ............................................................................... 53
2.2.3. Không - thời gian đồng hiện...................................................................... 58
Tiểu kết ..................................................................................................................... 61
Chương 3 ................................................................................................................... 62
TIỂU THUYẾT THOẠT KỲ THỦY, VÀO CÕI CỦA NGUYỄN BÌNH
PHƯƠNG NHÌN TỪ MÃ KẾT CẤU, MÃ NGÔN NGỮ VÀ MÃ BIỂU TƯỢNG
62
3.1. Mã kết cấu trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy và Vào cõi .............................. 62
3.1.1. Kết cấu liên văn bản .................................................................................. 62
3.1.2. Kết cấu phân mảnh .................................................................................... 66
3.1.3. Kết cấu đồng hiện. ..................................................................................... 69
3.2. Mã ngôn ngữ, mã biểu tượng trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy và Vào cõi72
3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện. ...................................................................... 73
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật. ................................................................................... 77
3.2.3. Biểu tượng kì ảo và biểu tượng giấc mơ. .................................................. 82
Tiểu kết ..................................................................................................................... 91
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 93
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan rằng, khố luận với đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
dưới góc nhìn kí hiệu học văn học (Khảo sát qua Thoạt kỳ thuỷ và Vào cõi)” do tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo TS. Nguyễn Thanh Trường.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung khoa học trong cơng trình này.
Tác giả
Lưu Đức Duy
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Thuật ngữ kí hiệu (Sign) hay kí hiệu học (Semiotics) xuất hiện trong các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học ngày nay như một công cụ giải quyết triệt để mối quan hệ biện chứng
giữa nội dung và hình thức thơng qua cơ chế biểu đạt của ngôn ngữ. Thuật ngữ này được
F. de Saussure lí giải trên tinh thần của John Locke về khái niệm Semiotics. Sau đó kí hiệu
học đón nhận nhiều thành tựu với những cái tên như Charles Sanders Pieirce, L. Hjelmslev,
R. Barthes, Umberto Eco, R. Jakobson, Tz. Todorov, … Lí thuyết kí hiệu học văn học hỗ
trợ khai thác tiềm năng của văn học như một hệ thống kí hiệu hay siêu kí hiệu đặc thù.
Bằng khả năng và giới hạn trong việc định hình các thuộc tính bản thể của văn học; hệ
thống các qui ước, đặc trưng thể loại, trào lưu/chủ nghĩa văn học hay phong cách sáng tác
là hướng đi quan trọng trong nghiên cứu văn học, đặc biệt là giải mã những kí thác mang
tính biểu tượng của nhà văn dưới dạng thức ngôn từ nghệ thuật.
GS. Trần Đình Sử cho rằng con đường tiếp cận văn học từ cơ sở hình tượng nghệ
thuật của lí luận Xơ viết xuất hiện nhiều hạn chế và không thể giải quyết rốt ráo các vấn đề
cốt lõi của văn học. Từ những trao đổi mang tính bước ngoặt như thế, ơng đề xuất cần đưa
kí hiệu học vào quá trình đọc hiểu văn bản văn học. Thực chất; phê bình, phân tích văn học
là mổ xẻ văn bản trên cơ sở giải mã toàn bộ hệ thống kí hiệu, biểu tượng được nhà văn mã
hố. Chính vì thế, tiếp cận văn học từ góc nhìn kí hiệu học là hướng đi cần thiết và quan
trọng trong việc xây dựng lại hệ thống công cụ - phương pháp cơ bản của nghiên cứu – phê
bình văn học.
1.2. Văn học Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt là sau Đổi mới (1986) đã có những bước
phát triển mang tính căn cơ, từ việc mở rộng đội ngũ sáng tác, đa dạng hoá các thể loại,
tiếp cận với khuynh hướng văn học hậu hiện đại đến việc khai thác những mảng đề tài còn
bỏ ngỏ ở giai đoạn trước. Bên cạnh các vấn đề của đời tư như quá trình nhận diện bản năng,
hành trình tìm lại cội nguồn bản thể, đời sống tính dục thì đề tài hậu chiến với tâm chấn là
gương mặt người lính cũng được khai thác triệt để với những cái tên như Bảo Ninh, Dương
Hướng, Chu Lai, Nguyễn Bình Phương. Dấu ấn của các tác phẩm viết về người lính hậu
chiến góp phần nhìn nhận lại một thời đã qua của dân tộc; là cơ hội để con người phản tư,
2
đối thoại với bản thân và xã hội. Có thể nói tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 đã góp được
tiếng nói quan trọng vào diễn trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại cả về yếu tố
nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.
1.3. Nguyễn Bình Phương là cây bút văn xi hoạt động tích cực, đa năng khi vừa sáng
tác truyện ngắn, thơ, tiểu luận và đặc biệt thành công ở thể loại tiểu thuyết. Tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương nằm trong dịng chảy đổi mới tư duy, hình thức biểu hiện của văn
học sau 1986. Hầu hết các sáng tác của ơng mang cái nhìn mới mẻ về con người, về cá
nhân bước ra từ ánh hào quang của Cách mạng và đối diện với cuộc sống mới; về hình ảnh
con người đứng ở những làn ranh: giữa cõi hư vô và thực tại; giữa giấc mơ và hành trình
nhận diện bản thể thơng qua các xung năng. Q trình giải mã hệ thống kí hiệu này không
chỉ cần thiết trong việc xác định các đặc trưng sáng tác của Nguyễn Bình Phương trên bình
diện hình thức ngôn ngữ mà xa hơn là khẳng định quyền lực diễn ngôn của tiểu thuyết Việt
Nam xung quanh các vấn đề đời tư và xã hội. Không những thế, khai thác tiểu thuyết từ
góc nhìn kí hiệu học cịn làm sáng tỏ các vấn đề mang tính thể loại; giải quyết bộ mã mang
tính đặc thù của văn chương như kết cấu trần thuật; không gian nghệ thuật; thời gian nghệ
thuật; hình tượng nhân vật; hệ thống hình ảnh biểu tượng; hệ thống ngôn từ; …
Lựa chọn đề tài “Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn kí hiệu học văn học”
(khảo sát qua hai tiểu thuyết Vào cõi và Thoạt kỳ thuỷ), chúng tôi tập trung nhận diện các
bộ mã kí hiệu được tái tổ chức trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương, đặc biệt ở thể loại
tiểu thuyết. Cụ thể hơn chúng tôi lựa chọn những cấu trúc mã quen thuộc của văn xuôi như
mã kết cấu, mã không gian, mã thời gian, mã nhân vật, mã ngôn ngữ và mã biểu tượng để
soi xét dưới khung lí thuyết của kí hiệu học văn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những cơng trình dịch, giới thiệu về lí thuyết kí hiệu học.
Ở Việt Nam, kí hiệu học nói chung và kí hiệu học văn hóa nói riêng đã nhận được
sự quan tâm của các nhà khoa học trong những năm gần đây, bao gồm các hoạt động dịch
thuật các cơng trình có tính chất lập thuyết của kí hiệu học. Các nhà nghiên cứu chủ yếu
quan tâm đến vấn đề phạm vi và các thuật ngữ cơ bản của kí hiệu học, đặc tính của kí hiệu
như tính khơng đồng đều, tính đa nghĩa và trừu tượng, cơ sở kí hiệu học, kí hiệu học như
3
một lí thuyết về cách đọc. Đầu tiên có thể kể đến cơng trình Các khái niệm và thuật ngữ
của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ XX của Ilin và
Tzuganova được Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch vào năm 2003. Việc
dịch thuật lại cuốn sách này đã bổ sung, giới thuyết những thuật ngữ văn học trên thế giới
làm tiền đề cho quá trình tra cứu – nghiên cứu văn học ở nước ta.
Kí hiệu học văn hóa của IU.M. Lotman (Lã Nguyên, Đỗ Hải Phong, Trần Đình Sử
dịch) là tuyển tập các cơng trình của Lotman về lịch sử và vấn đề lí thuyết của kí hiệu học
văn hoá, bao gồm 29 bài tuyển dịch. Đặc biệt, thuật ngữ “kí hiệu quyển” cũng được Lotman
đề cập và làm nền tảng cho tồn bộ tiến trình phát triển của kí hiệu học. Ngồi cơng trình
Kí hiệu học văn hoá, một số bài viết của Lotman về trường phái kí hiệu học Tartu-Moskva
cũng được Lã Nguyên tuyển dịch như Đằng sau văn bản: Mấy ghi chú về phông triết học
của ký hiệu học Tartu (2012); Kí hiệu học văn hố ở trường phái kí hiệu học Tartu-Moskva
(2013), Một số vấn đề về kí hiệu học văn hóa, …
Thuỵ Kh trong cơng trình Phê bình văn học thế kỉ XX, xuất bản năm 2018 đã phân
tích phê bình kí hiệu học của U. Eco ở chương 16 nhằm giới thuyết một cách có hệ thống
về khái niệm, đặc điểm và phương pháp kí hiệu học dưới góc nhìn của Eco mà theo bà thì
cùng với R. Barthes, Eco là người đưa ngành khoa học kí hiệu học phát triển mạnh mẽ và
tác động sâu sắc đến đời sống văn chương thế giới. Thuỵ Khuê cho rằng kí hiệu học không
chỉ mở rộng biên độ phạm vi khảo sát, đối tượng nghiên cứu mà còn đào sâu đến các vấn
đề cốt lõi của văn học.
Bên cạnh quan điểm của Lotman thì quan điểm của Jacobson cũng được giới thiệu
thơng qua cơng trình Thi học và ngữ nghĩa – Lí luận văn học phương Tây hiện đại. Cơng
trình dịch thuật của Trần Duy Châu cung cấp cho người đọc những công cụ tri nhận văn
chương mới của phương Tây bên cạnh lí luận Marxist cổ điển.
Ngồi những cơng trình kể trên, kí hiệu học những năm gần đây cũng được quan tâm
dịch thuật nhiều hơn. Đa số kí hiệu học được nhắc đến như một phương pháp trong hệ
thống các lí thuyết văn học. Không chỉ được dịch thành sách, cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ thông tin thì nhiều bài báo nhỏ lẻ hay đoạn dịch ngắn liên quan đến kí
hiệu học cũng được đưa đến tay bạn đọc trên nền tảng kĩ thuật số dưới các hình thức báo
4
mạng, blog văn học, … Hoạt động sôi nổi ở nền tảng blog là GS. Trần Đình Sử khi trên
trang văn học của ông đăng tải hàng trăm bài viết về phê bình – lí luận khác nhau, trong đó
có cả những bài dịch về kí hiệu học và kí hiệu học văn học của Todorrov. Chúng tôi nhận
thấy một số bài viết, cơng trình dịch thuật và giới thiệu lí thuyết gần đây có đề cập đến lí
thuyết kí hiệu học như Kí hiệu học (Triệu Nghị Hành, Đỗ Văn Hiểu dịch); Số phận lịch sử
của các lí thuyết văn học (Lã Nguyên); Diện mạo phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX
(Lê Ngun Cẩn); Nhập mơn lí thuyết văn học (Jonathan Culler, Phạm Phương Chi dịch);
Kí hiệu (V.A. Milovidov, Lã Nguyên dịch); Chủ nghĩa Marx và Triết học ngôn ngữ (V. N.
Voloshinov, Ngô Tự Lập dịch).
2.2. Những cơng trình vận dụng lý thuyết kí hiệu học trong nghiên cứu văn học.
Người tiên phong cho quá trình vận dụng lí thuyết kí hiệu học ở Việt Nam là Hoàng
Trinh với Chủ nghĩa cấu trúc, một biến dạng của triết học duy tâm hiện đại (tạp chí Học
tập, 1972); sau đó là Phê bình và Phê bình mới (tạp chí Học tập, 1973) và Vấn đề kí hiệu
và thơng tin trong văn học nghệ thuật (tạp chí Tác phẩm mới, 1974). Ơng khẳng định vị
thế của kí hiệu học trong nghiên cứu văn học nghệ thuật. Ơng đồng tình với quan điểm
ngơn ngữ là một hệ thống kí hiệu nhưng lại không cho rằng thế giới khách quan là một thế
giới kí hiệu. Ngồi ra, trong cơng trình Từ kí hiệu học đến thi pháp học, Hồng Trinh cho
rằng kí hiệu học và thi pháp học rất gần nhau khi mà kí hiệu học giải quyết được đa phần
các vấn đề ngôn ngữ và thi pháp học chứa đựng lí thuyết về cách thức tổ chức cái biểu đạt
nhằm làm nổi bật cái được biểu đạt. Ở đây mặc dù tác giả chỉ giới hạn trong việc phân tích
sáng tác thơ nhưng nhìn chung nó phù hợp cho các thể loại khác khi cốt lõi của văn chương
nghệ thuật là sử dụng và tổ chức ngôn từ như một hình thức biểu hiện tư duy, tư tưởng.
Cùng với Hồng Trinh, cũng có rất nhiều những nhà nghiên cứu khác quan tâm đến kí hiệu
học và vận dụng lí thuyết này trong việc giải mã văn học.
Ngu Yên trong bài “Ý thức về kí hiệu học” (Xa Lộ 21: Tư Tưởng Văn Học Dẫn Vào
Thế Kỷ) nghiên cứu kí hiệu học trong mối quan hệ với giải tích học và cho rằng tính khu
biệt dựa trên sự khác nhau trong quan điểm của Saussure và Pierce. Bài tiểu luận được chia
làm 10 phần nhỏ, đi từ lí thuyết kí hiệu học (cốt lõi là quan điểm của C.S. Pierce) đến kí
hiệu học giải tích. Tuy mỗi người có quan niệm và cách tiếp cận với kí hiệu khác nhau
5
nhưng nhìn chung đều tạo ra những hướng đi bước đầu cho khuynh hướng nghiên cứu văn
học dưới góc độ kí hiệu học ở Việt Nam. Tuy nhiên, phần lớn vẫn là dịch thuật các bài
nghiên cứu kí hiệu học trên thế giới sau đó bàn giải dưới góc độ cá nhân.
Trong những năm gần đây, người hoạt động năng nổ nhất trong việc nghiên cứu văn
chương dưới góc độ kí hiệu phải kể đến GS. Lê Huy Bắc. Ngồi hai cơng trình đã được
tổng hợp và in thành sách là Kí hiệu học văn học (2018) và Kí hiệu và liên kí hiệu (2019)
thì ơng cịn có các bài viết riêng như “Văn chương như kí hiệu đa văn hóa” (2016), “Cổ
mẫu như kí hiệu văn chương” (2015), “Mặc định học kí hiệu” (2015). Có thể nói các cơng
trình của Lê Huy Bắc xuất hiện đã giải quyết những vấn đề cịn dang dở của kí hiệu học
trong nghiên cứu và phê bình ở Việt Nam, đặc biệt là đối với hệ thống các tác phẩm trong
chương trình phổ thông. Bên cạnh tổng hợp cũng như đề xuất một số cách hiểu về những
vấn đề cốt lõi của kí hiệu học văn học thì tác giả cịn ứng dụng một số đặc điểm của kí hiệu
văn học vào phân tích các tác phẩm có trong sách giáo khoa.
Trong cơng trình Từ kí hiệu đến biểu tượng (Trịnh Bá Đĩnh chủ biên), các tác giả đã
hệ thống các vấn đề cơ bản của kí hiệu học như khái niệm kí hiệu, biểu tượng nghệ thuật
và dành sự quan tâm nhiều hơn cho biểu tượng. Các tác giả cho rằng biểu tượng văn học
cần được xem như một mã thẩm mĩ quan. Bên cạnh đó, cơng trình đã bước đầu vận dụng
kí hiệu học vào việc giải mã một số tác phẩm văn học đương đại. Ngồi ra, Trịnh Bá Đĩnh
cịn cơng bố cơng trình Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học (2010) và Biểu tượng nhìn từ
góc nhìn kí hiệu học văn hóa (2016) góp phần làm dày thêm con đường lí thuyết cịn non
trẻ này ở nước ta.
Phê bình kí hiệu học – đọc văn như là hành trình tái thiết ngôn ngữ (2018) của Lã
Nguyên được xem là bước đi táo bạo khi tác giả vận dụng lí thuyết kí hiệu học vào nghiên
cứu, phê bình các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại. GS. Trần Đình Sử cũng đánh giá
rất cao sự công phu, tâm huyết và gợi mở mà cơng trình này mang lại khi cho rằng: “Bằng
những bài nghiên cứu táo bạo, công phu, Lã Nguyên đã trình làng một hướng phê bình
mới, phê bình kí hiệu học” [32]. Bên cạnh đó, Trần Đình Sử cũng tin tưởng đây sẽ là hướng
đi đầy tiềm năng cho phê bình văn học Việt Nam những năm sắp tới.
6
Trong cơng trình Mã văn hố trong tác phẩm văn học - những vấn đề lí thuyết và
giảng dạy, GS Lê Nguyên Cẩn đã tiến hành tổng hợp các quan điểm, khuynh hướng nghiên
cứu từ thi pháp học (Nga, Anh-Mỹ, Pháp) đến kí hiệu học của Eco, Barthes, Greimas,
Kristeva,… Sau phần lí thuyết, tác giả cũng đã ứng dụng kết hợp lí thuyết kí hiệu học với
các yếu tố tự sự truyền thống để phân tích, đánh giá một số tác phẩm văn chương xuất hiện
trong chương trình phổ thơng. Đây khơng chỉ là cơng trình nghiêng về nghiên cứu lí thuyết
thuần t mà cịn được xem như giáo trình bổ trợ thêm nhiều hướng tiếp cận, mổ xẻ tác
phẩm văn học cho giáo viên lẫn học sinh – sinh viên.
Đặc biệt năm 2016, hội thảo “Kí hiệu học - từ lí thuyết đến ứng dụng trong nghiên
cứu và dạy học Ngữ văn” được tổ chức đóng góp nhiều bài viết, bài báo cáo khoa học có
giá trị cao trong việc ứng dụng lí thuyết kí hiệu học vào giải quyết các vấn đề của văn
chương nghệ thuật. Sau đó, các cơng trình nghiên cứu được tập hợp và in trong Kỉ yếu hội
thảo. Những bài viết này đã cho thấy khả năng mở rộng của phê bình văn học khi tận dụng
các lí thuyết liên ngành như kí hiệu học ngơn ngữ, kí hiệu học văn hố, tính tương tác giữa
kí hiệu và các lí thuyết văn học khác. Bên cạnh những bài viết hướng đến xác lập hệ thống
lí thuyết cơ bản về kí hiệu học thì phần lớn đã dần ứng dụng kí hiệu học vào việc nghiên
cứu – phê bình một số hiện tượng văn học cụ thể.
Một số bài viết và cơng trình khác ứng dụng lí thuyết kí hiệu học trong đời sống văn
chương cũng đã khẳng định đây là một hướng đi tiềm năng, khai thác triệt để không chỉ
yếu tố ngôn ngữ văn bản mà cịn đụng chạm đến gần như tồn bộ các hệ thống lí thuyết
khác đã có trước đó. Mai Thị Hồng Tuyết trong bài Văn học dưới góc nhìn kí hiệu học (số
5/2016, Tạp chí Khoa học, Đại học thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng lí thuyết kí hiệu học
ngày càng khẳng định được vị thế của nó trong nghiên cứu văn học bởi đây là khung hướng
bám sát vào ngôn ngữ tác phẩm - hướng đi tiềm năng hơn rất nhiều so với việc tiếp cận tác
phẩm theo phản ánh luận. Chúng tôi cho rằng những thành tựu mà các cơng trình dịch
thuật, ứng dụng kí hiệu học để lại là vô cùng cần thiết cho những hướng đi sâu hơn vào
trong đời sống văn học, đặc biệt là văn học Việt Nam.
7
2.3. Những cơng trình, bài viết nghiên cứu về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương với lí
thuyết kí hiệu học văn học.
Nguyễn Bình Phương được xem là một cây bút đa năng của văn học Việt Nam hiện
đại khi ông thử sức mình ở nhiều thể loại khác nhau, từ thơ ca cho đến truyện ngắn, tiểu
thuyết. Tính đến hiện nay, tác giả đã xuất bản 3 tập thơ: Khách của trần gian (1986), Lam
chướng (1992), Xa thân (1997) cùng một số tiểu luận, truyện ngắn; tiêu biểu có Đi (in trên
báo Văn nghệ trẻ (số ra ngày 10 tháng 1 năm 1999). Nhưng cái tên Nguyễn Bình Phương
lại tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với bạn đọc ở mảng tiểu thuyết với những tìm tịi, cách tân
đáng ghi nhận. Sau tiểu thuyết đầu tay Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991), Nguyễn Bình
Phương liên tiếp cho ra mắt các tiểu thuyết khác như Bả giời (Nxb Quân đội nhân dân,
2004), Những đứa trẻ chết già (Nxb Văn học, 1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999),
Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên, 2000), Thoạt kỳ thuỷ (Nxb Hội nhà văn, 2004), Ngồi
(Nxb Đà Nẵng, 2006) và gần đây nhất là Mình và họ (Nxb Trẻ, 2015). Mặc dù chỉ thực sự
nổi bật trên văn đàn Việt Nam từ sau những năm 1990 nhưng Nguyễn Bình Phương nhanh
chóng trở thành đối tượng nhận được sự quan tâm lớn của giới phê bình. Những cơng trình
nghiên cứu, đánh giá về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương ngày càng phong phú và đa dạng.
Ngồi các cơng trình mang tính khái qt về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương thì một số
bài nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương trên một số phương
diện của kí hiệu học như mã nhân vật, mã kết cấu, mã biểu tượng, sự đan xen thể loại.
Nhà nghiên cứu phê bình Thụy Khuê là một trong những người đầu tiên quan tâm
đến các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương. Gần như tiểu thuyết nào của Nguyễn Bình
Phương ra mắt thì Thụy Kh đều có những bài viết nghiên cứu, đánh giá ngay sau đó và
được đăng tải trên trang web cá nhân: Khi nhận xét về Những đứa
trẻ chết già, Thụy Khuê cho rằng đây là tiểu thuyết đậm khuynh hướng hiện thực huyền ảo
với kết cấu song song hai cõi âm – dương, xuất hiện những điềm báo với diễn biến của
nhiều thế hệ sống chết giao nhau trên mảnh đất Thái Nguyên (gần với Trăm năm cơ đơn
của G.G. Marquez). Ngồi ra, các sáng tác khác như Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt
kỳ thủy cũng được phân tích với những phát hiện về kết cấu đồng hiện, tính “khơng tiêu
biểu”, “khơng xác định” của nhân vật, lối nói “trống khơng” với những mệnh đề khơng có
8
chủ từ và cách tổ chức mã hoá hiện thực theo hướng hiện sinh hơn so với thời kì của Balzac.
Đặc biệt trong bài viết “Thoạt kỳ thủy trong vùng đất Cậm Cam hoang vu của Nguyễn
Bình Phương”, Thụy Khuê nhấn mạnh: “Thoạt kỳ thủy là cuốn tiểu thuyết khác thường,
khó đọc bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ, một thứ “thoạt kỳ thủy” trong văn chương
mang dấu ấn sáng tạo (…) Những yếu tố vừa kịch, vừa phi kịch, vừa thơ vừa phi thơ chính
là những mấu chốt của tiểu thuyết” [55]. Nhìn chung, những bài viết của Thuỵ Khuê đã đi
sâu vào những đặc điểm cốt lõi của tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương trên các phương
diện như kết cấu, hệ thống nhân vật, không gian - thời gian nghệ thuật.
Bên cạnh Thuỵ Khuê, Đoàn Cầm Thi cũng là cây bút quan tâm đến các sáng tác của
Nguyễn Bình Phương. Dưới góc nhìn của phân tâm học, Đoàn Cẩm Thi đã chỉ ra yếu tố vơ
thức sáng tạo và tình dục trong các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương trong các bài viết
“Sáng tạo văn học: giấc mơ và điên (đọc Thoạt kỳ thủy)” [60] hay “Người đàn bà nằm:
“Từ thiếu nữ ngủ ngày” đọc Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương” [61]. Đồn Cầm
Thi nhận định: “Vơ thức chiếm vị trí trung tâm trong Thoạt kỳ thủy, được diễn tả trong
một văn phong chậm, ngắn, chính xác, phản ánh một tư duy đang khảo sát, chiêm nghiệm.
Đặc biệt, nó được xem xét trong mối quan hệ với điên và mộng hai trạng thái trong vơ thức
hoạt động tích cực nhất” [60]. Cùng quan điểm với Thuỵ Khuê, Đoàn Cầm Thi cũng đánh
giá cao việc mã hố hình tượng nhân vật điên trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương, đặc biệt là hệ thống ngơn ngữ đặc thù của kiểu nhân vật này.
Nguyễn Chí Hoan lại chú ý nhiều đến kĩ thuật viết của Nguyễn Bình Phương. Trong
bài viết “Cấp độ hiện thực và sự hão huyền của ý thức trong Thoạt kỳ thủy” [54] bên cạnh
khen ngợi cách sử dụng các kết cấu mới lạ thì tác giả cũng cho rằng việc sử dụng các mã
thẩm mĩ này cũng mang đến nhiều hạn chế nếu quá tập trung vào việc kéo căng kết cấu sẽ
khiến hiện thực khơng mang tính chiêm nghiêm mà phần nhiều phụ thuộc vào khả năng hư
cấu của nhà văn, từ đó mất đi sự kết nối giữa văn học với đời sống.
Các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương cũng là đối tượng quen thuộc trong các cơng
trình nghiên cứu của Đồn Ánh Dương. Ở những bài viết của mình, Đoàn Ánh Dương khái
quát hai đặc trưng cơ bản trong thế giới nghệ thuật của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
là phương thức huyền thoại và thi pháp kết cấu. Không những thế, nhà nghiên cứu còn chỉ
9
ra tính liên văn bản và đan xen thể loại trong quá trình xây dựng tiểu thuyết của cây bút
Quân đội này.
Trương Thị Ngọc Hân trong bài viết “Một số điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương” [53] đã chỉ ra ba đặc điểm lớn trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Bình
Phương là: cách mã hố hiện thực (phân mảnh mảng hiện thực), kết cấu xoắn kép nhiều
mạch chạy song song và các yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Tuy
nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở việc nêu luận điểm nhưng chưa đi sâu vào phân tích cụ thể.
Trong “Tiểu thuyết hậu hiện đại - sự hội ngộ của các tư duy tiểu thuyết hiện đại trong
tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương”, Nguyễn Phước Bảo Nhân đánh giá cao những nỗ lực
đổi mới của Nguyễn Bình Phương trong cơng cuộc đưa tiểu thuyết Việt Nam hoà nhập với
tiểu thuyết thế giới. Tác giả cho rằng Nguyễn Bình Phương là người tiếp biến nhiều nhất ở
góc độ tư duy nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại so với các nhà văn cùng thế hệ.
Điều này dẫn đến tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có sự hội tụ của nhiều tư duy tiểu thuyết
đương đại thế giới, trong đó đáng kể nhất là tiểu thuyết mới, tiểu thuyết ngắn và tiểu thuyết
hậu hiện đại.
Trước đó, Phùng Gia Thế với Những dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương cũng đã đi vào phân tích sự hồ nhập nhanh chóng của Nguyễn Bình Phương
với cuộc chơi văn chương hậu hiện đại khi đổi mới, cách tân mạnh mẽ ở kết cấu truyện kể
xoắn kép, kết cấu phân mảnh, tận dụng sự phức tạp của ngôn ngữ đời sống,… Đặc biệt nhà
nghiên cứu đánh giá rất cao khả năng khai thác triệt để các yếu tố vô thức bản năng trong
các sáng tác của Nguyễn Bình Phương: “Nguyễn Bình Phương có lẽ là nhà văn ở ta sử
dụng triệt để các yếu tố bản năng vơ thức và tính dục để giải phẫu cõi nhân tâm con người.
Tiểu thuyết của anh có rất nhiều ám ảnh, giấc mơ, mộng mị” [43].
Ngoài ra, tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương cịn được quan tâm ở các cấp độ nghiên
cứu khác như khoá luận tốt nghiệp hay luận văn thạc sĩ. Ở các cơng trình này, chủ yếu đi
vào một vài khía cạnh như kết cấu, yếu tố kì ảo, cốt truyện, nhân vật trong các tác phẩm
của Nguyễn Bình Phương. Đây được xem là sự đóng góp, mở rộng nguồn nghiên cứu về
tên tuổi quan trọng của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại này. Một số khoá luận, luận văn
thành cơng như Tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương nhìn từ góc độ kết cấu của Ngơ
10
Hoàng Giang (Luận văn thạc sĩ, 2008); Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương
của Nguyễn Thị Ngọc Anh (Luận văn thạc sĩ, 2008); Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương của Vũ Thị Phương (Luận văn thạc sĩ, 2008); Cốt truyện và
nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của Nguyễn Th Hằng (Khố luận tốt
nghiệp, 2010); Thi pháp huyền thoại trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương của
Nguyễn Thị Trang (Luận văn thạc sĩ, 2015).
Ngồi các cơng trình, đề tài nghiên cứu trực tiếp đối tượng là tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương thì các cơng trình nghiên cứu mang tính khái qt về tiểu thuyết Việt Nam
sau 1986 trên một số phương diện của kí hiệu học văn học cũng đã đề cập đến Nguyễn
Bình Phương như một tên tuổi tiêu biểu. Có thể nói, từ các phương diện cơ bản của tiểu
thuyết như mã nhân vật, kết cấu, biểu tượng, … thì các sáng tác của Nguyễn Bình Phương
đều tạo nên những cảm nhận mới lạ cho thấy sự nghiêm túc và phát triển xun suốt q
trình nghệ thuật của ơng. Một số cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
vẫn lựa chọn khai như “Một số kiểu kết cấu thường gặp trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo” của Trương Thị Kim Anh đăng trên Tạp
chí khoa học Đại học Vinh; “Vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI”
của Hồng Cẩm Giang đăng trên Tạp chí nghiên cứu văn học số 4 năm 2010; “Biểu tượng
nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại” của Nguyễn Đức Tồn đăng trên Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, năm 2015; “Vấn đề kết cấu tự sự và các khuynh hướng
phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của Hoàng Cẩm Giang đăng trên Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 31, năm 2015; Parody/Nhại
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Phạm Thị Thu (Luận án tiến sĩ, 2016); Nghệ
thuật nghịch dị trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2012 của Huỳnh Thị Thu Hậu (Luận
án tiến sĩ, 2017); Motif giấc mơ trong một số tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 của Phan Thuý
Hằng (2018).
Nhìn chung, khai thác tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương dưới một vài phương diện
của kí hiệu học có thể nói là khơng mới khi bản chất của quá trình này là đi tìm kiếm bộ
mã tương thích nơi bạn đọc và tiến hành giải hệ thống kí hiệu được mã hố bởi nhà văn.
Nhưng các cơng trình kể trên chỉ mới chạm đến kí hiệu học như một phương diện hay yếu
11
tố bổ trợ trong nghiên cứu mà chưa đặt làm khung lí thuyết chính yếu. Nghiên cứu về tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương từ góc nhìn kí hiệu học ở Việt Nam vẫn chưa mang tính hệ
thống và hồn chỉnh, đặc biệt đối với hai tác phẩm Thoạt kì thuỷ và Vào cõi phần lớn chỉ
mang tính chất giải mã biểu tượng. Vậy nên chúng tôi cho rằng đây là một hướng đi mới,
phù hợp để nhận diện cái tên Nguyễn Bình Phương trong diễn trình phát triển của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khố luận là hướng đến phân tích một cách có hệ thống
về chỉnh thể kí hiệu trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương thơng qua hai tác phẩm
Vào cõi và Thoạt kỳ thuỷ. Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá về cách thức tổ chức quyền
lực diễn ngơn mang tính đặc thù của tiểu thuyết cũng như phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Bình Phương. Bên cạnh đó góp phần giải mã hệ thống kí hiệu/siêu kí hiệu được
thể hiện trong hai tiểu thuyết kể trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khố luận là hệ thống kí hiệu trong tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương dưới hình thức một số bộ mã mang tính đặc thù của lí thuyết kí hiệu học. Cụ
thể hơn, chúng tơi sẽ tiến hành giải mã hệ thống kí hiệu về kết cấu; khơng gian, thời gian
nghệ thuật, hình tượng nhân vật, mã ngơn ngữ và mã biểu tượng. Bên cạnh đó, chúng tơi
cũng tiến hành lí giải các kí hiệu đó trong mối quan hệ với yêu cầu của thể loại, hiện thực
khách quan, quy ước văn hoá cộng đồng và phong cách sáng tác; từ đó đánh giá sự khác
biệt của Nguyễn Bình Phương so với các cây bút cùng thời về cách thức tạo dựng và tổ
chức các mã nghệ thuật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khoá luận tập trung khảo sát tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương dưới góc độ kí hiệu
học ở hai tác phẩm Vào cõi và Thoạt kỳ thuỷ. Chúng tôi quyết định chọn Vào cõi và Thoạt
kỳ thuỷ thấy được sự chuyển dịch về tư duy sáng tác của Nguyễn Bình Phương giữa hai
thời kì; trong đó bao gồm cả việc hoàn thiện khả năng tái cấu trúc, tổ chức hệ thống kí hiệu
và mã hố các biểu tượng.
12
5. Giá trị khoa học và thực tiễn của đề tài
Khóa luận góp phần giải mã một cách có hệ thống về nghệ thuật của tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương trên các phương diện mã kết cấu, mã không gian, mã thời gian, mã
nhân vật; từ đó đánh giá đúng những đóng góp của nhà văn này trong tiến trình phát triển
và đổi mới của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Bên cạnh đó, chúng tơi hướng đến nhận diện
quyền lực diễn ngơn mang phong cách của Nguyễn Bình Phương; tiến đến khẳng định mối
quan hệ chặt chẽ giữa hình thức ngơn từ và nội dung tác phẩm dưới góc độ hệ thống kí
hiệu, siêu kí hiệu. Ngồi ra, nếu thành công, bài nghiên cứu sẽ là cơ sở cho việc tiếp tục
tìm kiếm và giải mã các vấn đề khác của lí thuyết kí hiệu trong tiểu thuyết như hệ thống
biểu tượng, liên văn bản – siêu mã, góp phần hồn thiện hơn các cơng trình nghiên cứu về
Nguyễn Bình Phương trong mảng tiểu thuyết.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc
Đối với phương pháp này chúng tơi tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống các
quan điểm về kí hiệu học của Ferdinand de Saussure, Charles Sander Pirce, Louis
Hjeimslev, Roland Barthes, Umberto Eco,… Sau đó dựa trên cơ sở nền tảng lí thuyết về kí
hiệu học, chúng tơi áp dụng vào phân tích các mã kí hiệu trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương qua hai tác phẩm Vào cõi và Thoạt kỳ thuỷ. Chúng tôi xem tiểu thuyết của Nguyễn
Bình Phương như một hệ thống các kí hiệu, khai thác các bộ mã thẩm mĩ dưới góc nhìn
của kí hiệu học.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
Chúng tôi sử dụng phương pháp này nhằm chỉ ra những hướng đổi mới quan trọng
khi xem xét tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương dưới góc nhìn kí hiệu học so với các lí thuyết
khác như phân tâm học, thi pháp học, … Bên cạnh đó, chúng tơi cũng chỉ ra những đặc
điểm mang tính cách tân, sáng tạo của Nguyễn Bình Phương trong tương quan với các cây
bút tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Từ đó đi đến khẳng định vai trị của Nguyễn Bình
Phương trong tiến trình phát triển của văn xi Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt
Nam sau 1986 nói riêng.
- Phương pháp liên ngành
13
Khi nghiên cứu kí hiệu học văn học, phương pháp liên ngành là một phương pháp
bắt buộc khi kí hiệu có quan hệ mật thiết với ngơn ngữ học, văn hóa học, tâm lý học, lí
thuyết diễn ngơn… Việc tận dụng sự liên kết giữa các lí thuyết của nhiều ngành khoa học
trong diễn giải kí xuất phát từ khả năng bao trùm của nhiều lĩnh vực lên một tác phẩm nghệ
thuật, đặc biệt trong cảm quan hậu hiện đại phá vỡ kết cấu duy nhất của một ngành khoa
học. Vì vậy, chúng tơi cho rằng phương pháp liên ngành sẽ khai phá được bản chất của
vấn đề nghiên cứu từ quan điểm của nhiều ngành khoa học, phối hợp lí thuyết của nhau,
trong đó đặc biệt phải kể đến sự tác động mạnh mẽ của ngôn ngữ học đến kết cấu bề mặt
văn bản và văn hoá học đối với phơng nền văn hố ẩn ngầm dưới lớp ngơn từ.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khố luận
gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung.
Chương 2: Tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy, Vào cõi của Nguyễn Bình Phương nhìn từ mã nhân
vật và mã khơng - thời gian nghệ thuật.
Chương 3: Tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy, Vào cõi của Nguyễn Bình Phương nhìn từ mã kết
cấu, mã ngôn ngữ và mã biểu tượng.
14
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Một số thuật ngữ khái niệm cơ bản.
1.1.1. Kí hiệu học và kí hiệu học văn học.
Thế giới kí hiệu manh nha xuất hiện từ các trước tác của Aristotle, Plato và John
Locke. “Lý thuyết ký hiệu” được John Locke nhắc đến với khái niệm semiotika, nội dung
hướng đến việc quan tâm đến bản chất của ký hiệu, tư duy hướng đến việc hiểu sự vật hoặc
truyền đạt kiến thức về nó cho người khác. Tuy nhiên, thuật ngữ này chỉ được giới nghiên
cứu thực sự quan tâm bởi đề xuất của Ferdinand de Saussure (1857 – 1913) trong lĩnh vực
ngôn ngữ học khi xem xét mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Trên trục cơ
sở nhị phân, F. Saussure đề cập đến tính hai mặt của kí hiệu cùng với các phạm trù sóng
đơi như cái biểu đạt và cái được biểu đạt, ngôn ngữ và lời nói, nội tại và ngoại tại, … Theo
Saussure, tín hiệu học/kí hiệu học (sémiologie) hướng đến nghiên cứu đời sống của các tín
hiệu trong sinh hoạt xã hội dựa vào q trình khai thác các tín hiệu bởi một số quy luật nhất
định. Ơng cho rằng kí hiệu khơng thể tồn tại bên ngồi ngơn ngữ, nghĩa là khơng có sự nảy
sinh nghĩa bởi hiện thực khách quan tác động lên đối tượng. Khuynh hướng nghiên cứu
của Saussure nhấn mạnh tính chỉnh thể của kí hiệu trong hệ thống ngơn ngữ trên bình diện
kết học (syntactics). Bên cạnh mơ hình song đơi của Saussure, mơ hình tam vị của C.S.
Peirce và C.W. Morris phân tích kí hiệu là sự liên kết giữa 3 thành tố: kí hiệu (sign), đối
tượng (object), sự diễn giải (interpretantions); trong đó kí hiệu (sign) được xem như là cái
biểu đạt (signifier); đối tượng (object) là suy nghĩ tốt nhất về bất cứ cái gì được biểu đạt.
Khác với Saussure, hướng đi của Pierce thiên về bình diện nghĩa học (semantics); khai thác
sự tác động qua lại giữa kí hiệu và thực thể ngồi kí hiệu. Có thể hình dung rằng cả Saussure
và Pierce đều chọn kí hiệu làm đơn vị nhỏ nhất, đơn vị nền tảng của ngôn ngữ. Đây là hai
con đường tiếp cận kí hiệu truyền thống được Yuri Lotman đề cập trong Kí hiệu học văn
hố. [29]
Lấy thành tựu của Saussure và Pierce làm nền tảng; kí hiệu học về sau phát triển mạnh
mẽ với nhiều trường phái, luận điểm khác nhau. Mơ hình phân tầng của Louis Hjelmslev
15
(trường phái Copenhagen) xem xét hai mặt của kí hiệu ở yếu tố biểu hiện (expression) và
nội dung (content). Hjelmslev phân tích rằng mỗi kí hiệu có một chức năng giữa hình thức
nội dung và hình thức biểu hiện, là cơ sở cho phân tích ngơn ngữ trên bình diện ngữ vị học
(glossematics). Mỗi chức năng kí hiệu lại biểu hiện hai nghĩa: nghĩa của nội dung (content
substance) là sự biểu hiện tâm lí và khái niệm của kí hiệu và nghĩa của biểu hiện (expression
substance) là nội dung vật chất, nơi mà một kí hiệu được biểu hiện. Trường phái Prague
với dấu ấn của R. Jacobson đã phát triển ý tưởng của Saussure, khơng chỉ đi sâu ở khía
cạnh kết học, vấn đề biểu nghĩa mà còn mở rộng kí hiệu ở khía cạnh dụng học (pragmatics).
Cơng trình của các trường phái kể trên không chỉ là tiền đề mà cịn tác động mạnh mẽ cho
sự hình thành của kí hiệu học cấu trúc.
Nghiên cứu kí hiệu học trong dịng chảy hậu cấu trúc luận về sau đón nhận nhiều cái
tên như R. Barthes với tuyên bố “cái chết của tác giả”, xé lẻ chỉnh thể cấu trúc văn bản và
quan tâm đến khả năng diễn giải của mã nghệ thuật; J. Derrida với quan điểm khơng gian
kí hiệu là mơ hình kí ức văn hố nối dài, xếp chồng của chuỗi mã cũ và mới; J.Griemas với
lý thuyết diễn ngôn của thơ hay J. Kristeva với đề xuất khái niệm liên văn bản, khai thác
kí hiệu một chỉnh thể văn bản cố định trở thành liên kí hiệu ở các tầng kết nối cao hơn.
Ủng hộ mơ hình cấu trúc tam vị của Pierce là Roland Barthes khi ông chỉ ra tiềm năng của
kí hiệu học trong việc phân tích và giải nghĩa các biểu tượng huyền thoại. Quan điểm của
Barthes được Thuỵ Khuê phân tích cụ thể trong chương 17 của Phê bình văn học thế kỉ XX
[27]. R. Barthes nhấn mạnh “huyền thoại như một hệ thống kí hiệu” được tạo ra từ các
chuỗi kí hiệu trước đó. Ơng thực hiện một loạt các cơng trình nghiên cứu về kí hiệu học
như Các thành tố của kí hiệu học (1964); Tuyển tập các cơng trình kí hiệu học, thi pháp
học (1989); “Cơ sở của kí hiệu học” (Chủ nghĩa cấu trúc và văn hóa, 2002). Trong cơng
trình Mã văn hố trong tác phẩm văn học - những vấn đề lý thuyết và giảng dạy [10, tr.104];
GS. Lê Nguyên Cẩn đề cập đến tiểu luận Các thành tố của kí hiệu học (Élesments de la
semiologie). Ơng chỉ ra rằng Barthes tin vào sự nở rộ của kí hiệu học bởi tầm quan trọng
của hệ thống kí hiệu trong đời sống, thế nhưng trước nhất cần xác định rõ nội hàm lí thuyết
lẫn phương pháp tiếp cận đối với kí hiệu vượt lên trên hiểu biết của ngơn ngữ học, chạm
đến yếu tố phi ngôn ngữ. Theo Barthes, mọi lĩnh vực liên quan đến nền tảng diễn giải, kí
16
thác đều tận dụng được khả năng của kí hiệu, khơng chỉ riêng gì ở mặt ngơn ngữ. Đây cũng
chính là hướng khai thác của Umberto Eco trên cơ chế chuyển mã của Barthes. Xuất phát
từ học thuyết của Pierce, Eco cho rằng tín hiệu/kí hiệu ln đi liền với sự diễn giải trên cơ
sở tôn trọng mã văn bản sẵn có.
Sau thành cơng của các lí thuyết kí hiệu học ở bình diện ngơn ngữ học; dưới sự tác
động mạnh mẽ của chủ nghĩa cấu trúc, trường phái kí hiệu học Tartu-Moskva do Yuri
Lotman khởi xướng đã mở rộng phạm vi kí hiệu học bao trùm lên các lĩnh vực nghệ thuật
khác bao gồm cả văn hoá và xã hội. Về cơ bản, Yuri Lotman cho rằng kí hiệu được tạo lập
thành một hệ thống tầng bậc, tổ chức kí hiệu thấp được qui định bởi tổ chức kí hiệu cao
hơn. Ơng viết: “Kí hiệu học văn hố là bộ mơn khoa học có nhiệm vụ khảo sát sự tương
tác giữa các hệ thống kí hiệu có cấu trúc khác nhau, khám phá sự vênh lệch, không đồng
bộ bên trong của khơng gian kí hiệu, nghiên cứu sự cần thiết phải hiểu biết nhiều ngơn ngữ
văn hố và kí hiệu học” [29, tr.142]. Với quan điểm phân biệt chỉnh thể ngôn ngữ trong
mối quan hệ tách rời với chỉnh thể văn bản (text), Lotman cho rằng kí hiệu khơng đơn
thuần là sự luân chuyển một chiều giữa cái được biểu đạt và cái biểu đạt, giữa người phát
mã và người nhận mã mà là một mối quan hệ phức tạp gấp nhiều lần. Khi mối quan hệ giữa
cái biểu đạt và cái được biểu đạt, giữa người tạo mã và người giải mã càng kết nối phức
tạp thì mã kí hiệu hay biểu tượng sẽ phát huy quyền lực của nó. Quan điểm của Lotman về
sau được kết hợp với nhiều lí thuyết khác nhau trong đó có lí thuyết đối thoại của Bakhtin,
lí thuyết diễn ngơn của Foucault hình thành nên các hướng đi mới cho nghiên cứu kí hiệu
học văn hố.
Lã Ngun trong Một số vấn đề về kí hiệu học văn hóa chia các quan điểm về kí hiệu
học trên thế giới thành 3 nhóm:
Nhóm thứ nhất bao gồm các định nghĩa căn bản và phổ biến nhất về kí hiệu học: Kí
hiệu học là khoa học về các kí hiệu và/hoặc về các hệ thống kí hiệu (dựa vào đối tượng).
Nhóm thứ hai bao gồm các định nghĩa dựa trên khía cạnh phương pháp: Kí hiệu học
là khoa học lấy các phương pháp ngôn ngữ học phân tích các đối tượng khơng phải là ngơn
ngữ tự nhiên.
17
Nhóm thứ ba là các định nghĩa gần với quan điểm của Yuri Lotman: Kí hiệu học là
khoa học về các hệ thống giao tiếp và các kí hiệu được sử dụng trong q trình thơng tin.
Trong Từ điển các khái niệm ngôn ngữ học, Nguyễn Thiện Giáp định nghĩa tín hiệu
học (semiotics, semiology) là “ngành khoa học nghiên cứu về tín hiệu và cách thức sử dụng
tín hiệu” [17, tr.500]. Cũng trong phần khái niệm này, ông cho rằng tín hiệu học giải quyết
tồn bộ các mã của đời sống và ngôn ngữ chỉ là một bộ phận của hệ thống tín hiệu, có
chăng là một điển mẫu tín hiệu mà thơi. Có thể thấy rằng, ngày nay kí hiệu học/tín hiệu
học khơng dừng lại ở biên giới của ngơn ngữ, văn học mà lan rộng đến tồn bộ các lĩnh
vực của đời sống như quan điểm của Yuri Lotman đề cập trước đó. Ủng hộ quan điểm của
Lotman cịn có nhà nghiên cứu Trịnh Bá Đĩnh khi tác giả khẳng định kí hiệu học trước nhất
là kí hiệu văn hố và nhấn mạnh văn học là một hình thái ý thức văn hoá – xã hội với khả
năng vay mượn tồn bộ hệ thống kí hiệu của phơng nền văn hoá. Trong Từ điển thuật ngữ
Văn học (Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên), kí hiệu học được
định nghĩa là “khoa học về các kí hiệu và hệ thống kí hiệu (semiology) nghiên cứu mọi
phương thức giao tiếp (truyền thông tin) bằng các biểu trưng. Kí hiệu học khảo sát sự gián
tiếp của động vật, của con người và các quan hệ trong hệ thống “người – máy”. Những
khách thể nào có thể khảo sát được như những ngơn ngữ đều là đối tượng của kí hiệu học”
[18, tr.165]. Bên cạnh đó, các tác giả cũng nhấn mạnh sự tác động giữa văn bản mang kí
hiệu với phơng nền văn hố bên ngồi văn bản.
Kí hiệu học văn học ra đời dựa trên mối quan hệ mật thiết của văn chương với ngơn
ngữ. Ngơn ngữ với vai trị là cơng cụ, phương tiện kí thác nội dung tư tưởng của người
nghệ sĩ thành các mã và quá trình tiếp nhận của bạn đọc chính là con đường giải mã, tri
nhận kí hiệu/chuỗi kí hiệu ấy. Dựa trên quan điểm phương tiện đặc thù của văn học là ngơn
ngữ nghệ thuật thì hệ thống này xuất phát từ ngôn ngữ tự nhiên và được tái mã hoá vào văn
bản. Như vậy, nếu như kí hiệu học cơ bản giải quyết các nội dung của ngơn ngữ học thì kí
hiệu học văn học lại giải quyết nội dung của văn học trên bình diện ngơn ngữ và biểu tượng.
Điều này có nghĩa là kí hiệu học văn học khơng tách ngơn ngữ thành đối tượng quan tâm
chính yếu mà chỉ xem nó như là cơng cụ ghi mã, cịn các mã nghệ thuật như kết cấu, hình
tượng nhân vật, khơng - thời gian nghệ thuật, hệ thống biểu tượng, mã ngôn ngữ (quyền
18
lực của diễn ngơn) mới là vấn đề của kí hiệu học văn học. Tựu trung lại, kí hiệu học văn
học đi đến xác quyết vai trò của các mã kí hiệu trong q trình biểu đạt tư duy, nhận thức,
tình cảm của nhà văn và tính quy ước của nó trong mối quan hệ với thể loại văn học, khuynh
hướng văn học, giai đoạn văn học, …
Roland Barthes khẳng định văn bản văn học dưới ngòi bút của nhà văn là “hệ thống
ký hiệu thứ hai” dựa trên sự quy ước và mã văn chương đặc biệt. Sau đó, văn bản văn học
trở thành “hệ thống ký hiệu thứ ba” phụ thuộc vào năng lực giải mã của người đọc. Yuri
Lotman cho rằng ngôn ngữ văn chương là dạng thức ngơn ngữ đặc thù, ngơn ngữ bậc cao,
chính vì vậy cũng được xem là kí hiệu đặc biệt. Loại kí hiệu này mang hai thuộc tính cơ
bản là giao tiếp thường nhật và giao tiếp thẩm mỹ. Ông nhấn mạnh: “Nói văn học có ngơn
ngữ riêng, khơng trùng với ngôn ngữ tự nhiên, dẫu được kiến tạo trên ngôn ngữ ấy, tức là
nói văn học có một hệ thống kí hiệu riêng, chỉ thuộc về nó và những quy tắc tổ chức các kí
hiệu ấy để chuyển tải những thông tin đặc biệt, những thông tin không thể chuyển tải bằng
những phương tiện khác” [34, tr.136]. Cốt lõi của quan điểm này dựa trên học thuyết của
Saussure và Peirce về kí hiệu học ngơn ngữ. Điều quan trọng đối với hệ thống kí hiệu trong
văn học là cách sử dụng và quy ước của kí hiệu ln được đề xuất trong quá trình sử dụng.
Đối với đời sống nghiên cứu và phê bình ở Việt Nam, thuật ngữ kí hiệu học mặc dù được
quan tâm nhiều trong những năm gần đây nhưng chưa đảm bảo một hệ thống lí luận mang
tính thống nhất cơ bản. Người khơi mở cho kí hiệu học văn học ở nước ta là nhà nghiên
cứu Hồng Trinh khi ơng gắn thuật ngữ này với lí thuyết thi pháp học. Bên cạnh Hồng
Trinh, nhiều nhà nghiên cứu khác cũng ứng dụng kí hiệu học vào giải quyết các vấn đề của
văn học như sự kết hợp giữa kí hiệu học với tự sự học, thi pháp học (Trần Đình Sử); khai
thác thành tựu của chủ nghĩa cấu trúc (Trịnh Bá Đĩnh); phân tích văn bản dựa trên lí thuyết
mã/kí hiệu văn hố (Lê Ngun Cẩn) hay các cơng trình về kí hiệu và liên kí hiệu của Lê
Huy Bắc.
Đối với thuật ngữ kí hiệu học văn học cho đến nay vẫn còn nhiều chỗ trống cần được
định nghĩa một cách chặt chẽ hơn, từ phương pháp luận cho đến hệ thống lí thuyết nền tảng
vượt qua khỏi cái bóng của thi pháp học hay kí hiệu học ngơn ngữ. Trong những cơng trình
bàn về các vấn đề của văn học, nếu như xuất hiện kí hiệu học thì chỉ nhắc đến quan điểm
19
của những tên tuổi tiêu biểu như Saussure, Pierce, R.Barthes, Umberto Eco, J.Griemas, …
Hiện nay, người quan tâm nhiều nhất đến kí hiệu/kí hiệu học/kí hiệu học văn học ở Việt
Nam phải kể đến GS. Lê Huy Bắc. Trong công trình Kí hiệu và liên kí hiệu, GS. Lê Huy
Bắc trình bày khá cụ thể các khái niệm kí hiệu, kí hiệu học hay kí hiệu học văn học trên cơ
sở nhận định của Edward Quinn: “Kí hiệu học văn học tập trung vào kí hiệu ngơn từ, mặc
dù nó cũng thừa nhận sự hiện diện nghĩa phi ngôn từ trong văn học” [6, tr. 101]. Bên cạnh
đó, tác giả cịn đề xuất một cách hiểu rằng kí hiệu học văn học thuộc về phạm vi siêu kí
hiệu học. Nguyên nhân cho nhận định này là bởi đối tượng của kí hiệu học văn học khơng
chỉ là bản thân kí hiệu mà cịn là chủ thể tạo ra kí hiệu trên trục: người phát – thông điệp –
người nhận.
Như vậy, chúng tơi hiểu kí hiệu học văn học là một thuật ngữ quan trọng của văn học
lấy tiền đề là sự công nhận ngôn ngữ như một hệ thống tiền kí hiệu. Tất cả những yếu tố kí
hiệu xuất hiện đều được mã hoá trên trục dẫn tạo lập các nghĩa trung tâm bằng các nguyên
tắc của thể loại. Chính vì thế, kí hiệu học văn học trở thành một phương tiện kí nghĩa, hay
nói cách khác là sự phái sinh trên nền tảng các nguyên tắc chung của thể loại văn học và
bối cảnh văn hố.
1.1.2. Kí hiệu và mã thẩm mĩ.
Trong “Essay Concerning Human Understanding”, John Locke nhắc đến kí hiệu
(signs) là ngơn từ đại diện cho ý nghĩ về ngoại cảnh và dùng để giao thiệp và thông đạt.
Nhận định này trở thành cơ sở cho những học phái về kí hiệu xuất hiện giữa thế kỷ XX.
Về sau, thuật ngữ kí hiệu được F. de Saussure sử dụng trong lĩnh vực ngôn ngữ học khi
xem xét mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Sau đó nó dần được sử dụng
rộng rãi ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác như hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh, văn học, …
Các nhà ngôn ngữ học cho rằng kí hiệu xuất hiện dưới nhu cầu giao tiếp của con người, do
con người quy ước, gắn với các phương thức giải mã kí hiệu. Ở phần trên, chúng tơi đã
phân tích hai quan niệm cổ điển về kí hiệu (tiền đề cho kí hiệu học) của F. de Saussure và
C.S. Pierce. Ở mục này, chúng tôi chỉ nói thêm về một số đề xuất về khái niệm kí hiệu khác
để hồn thiện bức tranh tương đối phong phú và phức tạp của phân ngành khoa học này.
Cần phải nhấn mạnh một điều rằng, các trường phái kí hiệu học xuất hiện đều lựa chọn học
20
thuyết của Saussure hay Pierce làm nền tảng lí thuyết, sau đó phân nhánh và phát triển lên.
Khởi nguyên cả Saussure và Pierce đều cho rằng kí hiệu vốn dĩ đã hiện diện cùng lồi
người từ rất lâu. Nó thuộc về dạng thức tư duy và nhu cầu giao tiếp tự nhiên vốn có. Daniel
Chandler trong Semeotics for Beginner thì nhận định “Kí hiệu là một vật mang nghĩa được
diễn giải như là “đại diện” cho cái gì đó ngồi nó. Kí hiệu được tìm thấy trong hình thức
vật chất của từ ngữ, hình ảnh, âm thanh, hành động hay vật thể” [62]. Ngồi ra, Chandler
cũng đồng tình với Saussure và Pierce khi nói kí hiệu tự thân nó khơng mang ý nghĩa nếu
như không được con người tri nhận (intrinsic meaning). Jakobson nói: “Cái biểu đạt phải
khả cảm khả tri, cái được biểu đạt phải có thể dịch”, nghĩa là có thể sử dụng kí hiệu mới
thay thế cho kí hiệu cũ nhưng bản thân nó vẫn cần một kí hiệu khác để giải thích. Điều này
tiến thêm một bước so với cơ sở ban đầu của Locker là kí hiệu gắn liền với tư duy tưởng
tượng. Nhìn chung, các học giả phương Tây ngầm đồng ý với quan điểm kí hiệu như một
hệ thống mang tính quy ước giữa ý nghĩa nội dung và hình thức biểu hiện, trước nhất là ở
ngôn ngữ. GS.Triệu Nghị Hành của Đại học Tứ Xuyên củng cố quan điểm kí hiệu cần được
mã hố bởi một thực thể tri nhận nào đó; điều mà Chandler gọi là “human semosis”: “Kí
hiệu là cảm tri được cho rằng mang theo ý nghĩa: ý nghĩa phải dùng kí hiệu mới có thể biểu
đạt, mục đích là biểu đạt ý nghĩa. Nói ngược lại, khơng có ý nghĩa có thể khơng cần kí hiệu
biểu đạt, cũng khơng có kí hiệu khơng biểu đạt ý nghĩa” [52].
Khái niệm mã (code) được hiểu trước hết là một hệ thống mang tính quy ước chung.
J. Greimas trong Các thành tố của lý thuyết diễn giải truyện kể huyền thoại xác định: “Mã
là một cấu trúc hình thức được tạo thành từ một số lượng các phạm trù nghĩa vị, theo đó là
sự kết hợp, dước hình thức các nghĩa vị, có khả năng trình bày thành tập hợp các nội dung
được quan tâm” [10, tr.165]. Thuật ngữ mã ra đời kéo theo hai thuật ngữ mã hoá (encoder)
và giải mã (decoder) nhằm khai thác việc tạo lập phát ngôn và tri nhận phát ngôn. P.
Guiraud chia mã thành 3 loại: mã logic, mã xã hội và mã thẩm mĩ. Ở đây chúng tôi chỉ đề
cập đến mã thẩm mĩ. Guiraud trong cuốn Kí hiệu học (La sesmiologie) cho rằng mã thẩm
mĩ là loại mã mang tính “chủ quan cảm xúc” nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm trí tuệ
thơng qua những hứng thú: nghệ thuật, văn hố, văn học. Theo đó, tác phẩm văn chương
thuộc về phạm trù mã thẩm mĩ. Nhằm khai thác được hết sự ưu việt của mã văn học,